Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thị trường tài chính Việt Nam : Thực trạng và những định hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.99 KB, 24 trang )

Thị trường tài chính Việt Nam : Thực trạng và những định hướng phát triển
I) Đặt vấn đề:
Thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung và chun ngành tài chính
- tiền tệ nói riêng đang tồn tại một số quan niệm không trùng khớp nhau về thị
trường vốn và thị trường tài chính. Một số người quan niệm rằng, thị trường vốn
bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn; trong đó thị trường vốn
dài hạn là thị trường chứng khốn. Một số khác thì cho rằng, thị trường vốn bao
gồm thị trường tiền tệ và thị trường tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị
trường chứng khốn...
Dù quan niệm nào đi nữa, thì nó vẫn phải bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị
trường vốn dài hạn. Vì vậy, nếu quan niệm thị trường tài chính bao gồm thị trường
vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khốn chính là hai bộ phận thị trường đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế,
chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, nhanh chóng hội nhập khu vực và
quốc tế, Đảng và Chính phủ ta đã chú trọng phát triển cả thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, từ khi hai Pháp lệnh
Ngân hàng, HTX tín dụng và cơng ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990.
II) Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại
Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4
Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngồi, Qũy tín dụng TW, 900
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu
tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu
thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì khơng phải tất cả các tổ chức
1


trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh Ngân hàng nước ngồi, một số cơng ty bảo hiểm...
Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở
các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo


đó, dần dần phù hợp với thơng lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước
chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân
hàng Nhà nước cơng bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị
trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi
suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng.
Tác động vào lãi suất cịn có cơng cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước
điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các
TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi
suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất
huy động vốn.
Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị
trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ
chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới
phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được
chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích
cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó
cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
2


III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn:
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức
trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian
gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau:
- Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng
thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá
nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể.
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa

các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bảo Việt, các cơng ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực...
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống
giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng
thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay cịn
gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả
lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách
được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày
thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng...
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn
có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn.
Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sơi động trên thị trường thu hút tiền
gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực
hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động
3


vốn.
Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa
thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống
ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh tốn qua ngân hàng hay rút
tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan
trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi
khơng kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD.
IV) Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán:
Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên 100 cơng ty niêm yết
cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng
khốn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng tiếp tục
đóng vai trị tích cực trong phát triển thị trường chứng khốn, với hầu hết trong số

gần 50 cơng ty kinh doanh chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các ngân
hàng thương mại, với đa dạng các nghiệp vụ: mơi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng
khốn, cho vay thanh tốn chứng khốn... Hầu hết các cơng ty này đều kinh doanh
có hiệu quả. Một số cơng ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM
cổ phần phát hành mới tăng thêm vốn điều lệ.
NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của NHTM
cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều NHTM cổ phần đã
sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Được biết hiện
nay NHTM cổ phần Sài Gịn Thương Tín đã có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng
Nhà nước cho phép vấn đề này.
Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán,
4


nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã giao dịch đơn lẻ, khơng
chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh giá cổ phiếu của nhiều NHTM
cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín
trong và ngồi nước của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên.
Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần,
chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng
thương mại cổ phần.
Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đang triển
khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm
giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng.
Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết trên hai
Trung tâm giao dịch chứng khốn, thì chứng khốn giao dịch chủ yếu của hai Trung
tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là
Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát
triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai

Trung tâm giao dịch chứng khốn sẽ sơi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát
triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
V) Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta
Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị trường
này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự đóng vai trị can
thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất
đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ
5


điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơng cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt.
Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn
một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khốn. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị
trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất
lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng
khốn, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên
Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Cơng ty kinh doanh chứng khoán
của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt
Nam phát triển mạnh hơn nữa.
Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 cơng ty cổ phần niêm yết cổ phiếu
trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự
nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khốn. Cổ phiếu của các NHTM chưa
được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sơi động của thị trường.
Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch.
VI) Nguyên nhân của tình trạng trên:
Ngân hàng TW chưa thực sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và vận
hành nghiệp vụ NHTW cịn hạn chế. Họat động dịch vụ của các NHTM và TCTD
chưa phát triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được các kết quả như dự

kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia tăng trở lại. Việc tăng vốn điều
lệ để đảm bảo tỷ lệ an tồn theo thơng lệ quốc tế.
Tiến trình cổ phần hóa DNNN nói chung, cổ phần hóa NHTM Nhà nước nói riêng
cịn rất chậm, đây cũng là lực cản cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt
6


Nam. Bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần có tư tưởng chần
chừ, chậm đưa cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên Trung tâm
giao dịch chứng khoán, cũng làm chậm tiến trình nói trên.
VII) Giải pháp và kiến nghị cho phát triển thị trường tài chính ở nước ta trong
thời gian tới:
Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị
trường chứng khốn vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải
phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ
tầng nào đó. Chúng ta khơng thể nơn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ
điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường
chứng khốn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ
tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khốn cũng sơi động.
Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền
kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung
gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên
thị trường chứng khốn. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau:
- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khốn Nhà nước
phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu
trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế,
tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khốn.
Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định
giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM

NN đầu tiên theo kế hoạch.
7


- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc
Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ
1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua
các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng
hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay.
Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mơ nhỏ hơn có thể
trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp
đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, khơng
nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi khơng kỳ hạn trực tiếp với các
TCTD như hiện nay.
- Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ
chế điều hịa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu
hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị
trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành.
- NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối
cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ
liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
- Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các
nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ
theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh
doanh chứng khốn và thu hút tiền gửi khơng kỳ hạn, dịch vụ thanh tốn cho khách
hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong
thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng
8



khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút.

Thị trường vốn Việt Nam: Hành trình của dịng tiền
( Bình chọn: 12

-- Thảo luận: 7 -- Số lần đọc: 11311)

- Mặc dù trong tình cảnh nền kinh tế tồn cầu gặp khó khăn, xong Việt
Nam vẫn là nơi thu hút được một dịng vốn lớn và có xu hướng ngày càng tăng:
Giá trị thực tế của dòng vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt
265,4 nghìn tỷ đồng, tăng 21,1% so với cùng kỳ, trong đó vốn khu vực Nhà nước
đạt 106,1 nghìn tỷ đồng, vốn khu vực ngồi Nhà nước đạt 80 nghìn tỷ đồng, vốn
9


đầu tư trực tiếp nước ngồi đạt 79,3 nghìn tỷ đồng. Rõ ràng dòng tiền đổ vào nền
kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất lớn, nhưng nền kinh tế chúng ta lại đang gặp khó
khăn, câu hỏi được đặt ra là: dòng tiền “chạy” đi đâu?
Hiện tại tất cả các nguồn vốn được đầu tư của thị trường Việt Nam đang ở ba thị
trường chính đó là: thị trường chứng khoán, vàng và bất động sản, và gần đây mới
manh mún thêm đó là thị trường tiền tệ. Mục đích chính của lao động xã hội là gì,
đó là sản xuất tạo ra sản phẩm, của cải vật chất. Vậy thời gian trước đây, khi thị
trường chứng khoán đang phát triển nóng, nguồn vốn trong và ngồi nước được
huy động để đưa vào thị trường là một con số khổng lồ. Nhưng rồi dịng tiền đó,
bao nhiêu phần trăm được đưa vào đầu tư sản xuất? Hẳn con số đó sẽ không đáng
là bao so với lượng tiền các nhà đầu tư đã “bơm” vào thị trường. Rõ ràng, chỉ có
thặng dư vốn từ lần phát hành đầu tiên của doanh nghiệp niêm yết mới là nguồn
vốn khả dụng để đưa vào đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng hơn
nữa: chỉ có những cổ phiếu phát hành đúng thời điểm thị trường đang “bùng nổ”

thì thặng sư vốn mới là con số thật sự đáng kể so với thị giá. Tuy nhiên, nguồn
thặng dư vốn ấy lại được các cơng ty niêm yết năng động nhìn ra được những
khoản lợi nhuận khổng lồ và nhanh chóng thu được từ thị trường tài chính nên
khơng kể gì đến việc đầu tư trái ngành nghề vốn vẫn được gọi với cụm từ đầu tư đa
ngành nhằm phân tán rủi ro, các công ty sản xuất vẫn tiếp tục đầu tư tài chính
nhằm thu lợi nhuận để đầu tư cho ngành nghề chính. Như vậy, dịng tiền thặng dư
ấy lại tiếp tục đẩy vào thị trường tài chính mà vẫn không được đưa vào đầu tư cho
sản xuất.
Với lượng vốn lớn như vậy, trong khi giá trị thực tế và năng lực sản xuất khơng
phát triển vơ hình chung tạo ra tình trạng bong bong giá chứng khốn, rồi tới lúc
bong bong xì hơi, các nhà đầu tư, khơng sớm thì muộn, thi nhau rút khỏi thị
10


trường. Lúc thị trường lên ngôi, lợi nhuận mỗi ngày của các nhà đầu tư là con số
khổng lồ so với những người lao động thực sự tạo ra sản phẩm.
Sau cơn chấn động với thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư khôn ngoan đã rút
chân ra sớm và cắt lỗ kịp thời, vậy thì dịng tiền chảy vào đâu? Trước hết là thị
trường bất động sản, Bất động sản là một loại hàng hóa khá đặc biệt, mang tính ổn
định rất cao như cái tên đã thể hiện. Nhưng các nhà đầu tư chúng ta thật tài tình đã
biến cái “bất động” thành cái “biến động”, giá trị bất động sản được đẩy lên cịn
hơn diều gặp gió. Và như là quy luật tất yếu, cái gì “ảo” thì khơng thể tồn tại lâu
được, và đến lúc nó trở về giá trị thực thì các nhà đầu tư mới quay về mặt đất. Thị
trường bất động sản đóng băng, các nhà đầu tư khôn ngoan nhận biết sớm thì ra đi
với những khoản lợi nhuận kếch sù, nhà đầu tư chậm chân thì ở lại với khoản nợ
ngân hàng và khoản lãi vay phải trả cũng “kếch sù” không kém phần. Đến khi thị
trường bất động sản không còn là mảnh đất màu mỡ để đồng tiền sinh sơi nảy nở
nữa thì dịng tiền lại kéo nhau “tuồn” ra khỏi lĩnh vực đầu tư này.
Bối cảnh tình hình thế giới đang trong cơn lạm phát bùng nổ, vàng ln là loại
hàng hóa đứng đầu trên danh mục dự trữ của các quốc gia, các tổ chức kinh tế từ

lớn đến nhỏ. Và… dịng tiền khơng có lý gì lại không đổ vào thị trường vàng.
Nhưng các nhà đầu tư khơng phải mua vàng để tích trữ mà là để “lướt sóng” nhằm
thu chênh lệch giá. Sàn giao dịch vàng lúc này giống như một “sịng bạc” hợp
pháp, có kẻ thắng ắt có người thua và chỉ có chủ “sịng bạc” là ln ln thắng. Và
trong tình hình hiện tại, khi các qui chế của sàn giao dịch vàng cịn chưa định hình
với một số lượng rất ít sàn giao dịch vàng, các “con bạc” mà ở đây chính là nhà
đầu tư đã chấp nhận mọi điều kiện bất lợi để được “đánh bạc” và “cắn răng” gánh
chịu rủi ro.

11


Một số nhà đầu tư khơng thích vàng thì hướng dòng tiền chảy vào đầu cơ ngoại tệ,
gạo, muối, sắt thép, xi măng… tất cả các loại hàng hóa có thể đầu cơ được. Thậm
chí khơng đầu cơ thì gửi Ngân hàng để hưởng mức lãi suất ngất ngưởng. Cũng
chính mức lãi suất huy động cao ngất ngưởng đã đẩy lãi suất cho vay lên khiến các
doanh nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn về vốn, sản xuất kinh doanh lâm vào
tình trạng thu bị thu hẹp, hoạt động cầm chừng, giữ chân khách hàng và cố gắng
tồn tại.
Qua đó, nhận thấy rằng dòng tiền khổng lồ mà các mà chúng ta huy động được rõ
ràng được đưa vào để đầu tư sản xuất một phần không đáng kể, phần lớn dùng để
quay vịng trở lại thị trường tài chính hoặc đầu cơ các mặt hàng khác. Đây chẳng
phải là một nguyên nhân lớn gây ra lạm phát? Chúng ta giống như người nghèo
bỗng dưng trúng xổ số, trong tay cầm khoản tiền lớn mà không biết chi tiêu, chi
tiêu khơng đúng mục đích, khơng có kế hoạch, thay vì đưa tiền vào đầu tư sản xuất
thì lại dùng để tiếp tục mua “vé số”, đó là một thất bại lớn trong việc điều điều tiết,
phân phối nguồn vốn của nền kinh tế. Thêm nữa, tâm lý của các nhà đầu tư Việt
Nam là thích đạt được lợi nhuận dễ dàng, nhiều và nhanh. Mà để đáp ứng tâm lý
đó thì dịng tiền chỉ có thể đi theo hướng đầu cơ. Trong tình trạng lạm phát cao mà
cịn tích trữ đầu cơ sẽ lại góp phần làm cho vịng xốy lạm phát càng mở rộng.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng khó khăn, giá vàng và
giá dầu tăng chóng mặt mà bộ máy quản lý chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong
thị trường mở cửa thì đây thật sự là một thử thách rất lớn mà chúng ta phải vượt
qua.
Hiện tại chúng ta đang lâm vào hàng loạt những khó khăn có hệ thống, khó khăn
này là nguyên nhân của khó khăn kia, khó khăn kia lại là nguyên nhân của khó
khăn này, một hệ thống với nhiều khó khăn chủ quan và khách quan có quan hệ
biện chứng nguyên nhân – hệ quả chồng chéo lên nhau thật sự đưa nên kinh tế Việt
12


Nam rơi vào mê hồn trận và khả năng xảy ra khủng hoảng nhẹ là có thể xảy ra. Để
giải quyết được vấn đề này, chúng ta phải lần ra đâu là nguyên nhân chủ chốt và
giải quyết nó, và theo cá nhân tác giả bài viết này, nguyên nhân đó là từ việc phân
phối nguồn vốn khơng hợp lý trong tồn bộ nền kinh tế. Chứng khốn là để huy
động vốn đưa vào đầu tư sản xuất, vàng là mặt hàng dự trữ, bất động sản để phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và phòng ngừa rủi ro, ngoại tệ dùng để thanh
toán thu chi xuất nhập khẩu, dường như tất cả các nhà đầu tư đều đã bỏ quên hoặc
cố tình bỏ quên mục đích chính của những loại hàng hóa đặc biệt này và chúng chỉ
được sử dụng dưới mục đích là đầu cơ hưởng chênh lệch giá. Nếu giải quyết được
tình trạng này, hy vọng nền kinh tế chúng ta có thể vượt qua khó khăn và phát triển
mạnh mẽ, ổn định hơn trong thời gian tới.
Nâng cao tính hấp dẫn của Thị Trường Vốn Việt Nam
24/02/2011 01:57 pm
Mặc dù vẫn còn bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế
diễn ra vào những năm trước, trong năm 2010 thị trường vốn
đạt được những thành tựu nhất định. Với trên 500 công ty
niêm yết trên sàn HOSE và HNX, tổng lượng vốn hóa thị trường của các cơng
ty


niêm

yết

đã

chiếm

trên

30%

GDP

của

cả

nước.

Khối lượng vốn huy động qua thị trường vốn tăng gấp ba lần năm 2009. Hiện tại
có rất nhiều hồ sơ xin phát hành, niêm yết được nộp lên Ủy ban Chứng khoán
Quốc

gia,

Sở

Giao


dịch

Chứng

khoán

Tp.HCM





Nội.

Tuy nhiên thị trường vốn trong giai đoạn hậu khủng hoảng bộc lộ nhiều tồn tại,
tính hấp dẫn của thị trường vốn tại Việt Nam bị suy giảm đáng kể:
13


Chỉ số giá thị trường chứng khốn khơng tăng cho dù các thị trường quốc tế phục
hồi khá. Nếu chúng ta xem xét chỉ số VN-Index so với chỉ số Dow Jones thì điều
này sẽ cho thấy rõ.
Biểu đồ 1: Chỉ số VN-Index (5 năm)

(nguồn: sở GDCK Tp.HCM)
Sau khi đạt đỉnh ấn tượng vào ngày 08/03/2007 ở mức 1147 điểm, chỉ số VN-Index
xuống đáy vào thời điểm 23/02/2009 đạt mức 244 điểm, sau đó phục hồi khá
ngoạn mục và đạt đỉnh vào ngày 21/10/2009 ở mức 618 điểm. Tuy nhiên sau đó
mất điểm mạnh trong vịng hai tháng và đạt giá trị 442 điểm vào ngày 15/12/2009.
Mặc dù vậy đây chưa phải là đợt điều chỉnh sâu nhất của thị trường. thị trường đạt

điểm sâu nhất kể từ sau phục hồi ở mức 423 điểm vào ngày 25/08/2011 và mới
phục hồi ở mức 520 điểm vào dịp trước Tết Tân Mão nhưng sau đó ngay lập tức đã
quay đầu giảm điểm và đạt mức 470 điểm vàongày 23/02/2011. Như vậy tính đến
thời điểm hiện tại chỉ số VN-Index cách mốc cao nhất 677 điểm, tương đương
59%.
Trong khi đó khi nhìn lại thị trường chứng khoán thế giới sau khủng hoảng, cụ thể
14


là thị trường Mỹ thì chúng ta thấy sự phục hồi của VN-Index còn nhiều hạn chế.
Thị trường Mỹ với chỉ số Dow Jones trước khủng hoảng đạt đỉnh ở mức 14,093
điểm ngày 08/10/2007. Sau đó rơi vào khủng hoảng và đạt mức thấp nhất 6,626
điểm vào ngày 02/03/2009. Sau đó phục hồi tăng đều từ đó cho đến nay, dĩ nhiên
trong q trình phục hồi có những giai đoạn điều chỉnh. Nhìn chung việc phục hồi
này là tương đối vững chắc và đạt 12,391 điểm vào ngày 18/02/2011, chỉ còn cách
mức cao nhất trước khủng hoảng là 1,702 điểm, tương đương thấp hơn 12%.
Biểu đồ 2: Chỉ số Dow Jones (5 năm)

(nguồn: finance.yahoo.com)
Số lượng thành công của các đợt IPO chưa cao. Chưa có nhiều doanh nghiệp nước
ngồi đến thị trường việt Nam để thực hiện IPO, do chưa thu hút được nhiều nguồn
vốn

lớn,

số

lượng

nhà


đầu

mới

chưa

nhiều

Quy mô một số công ty niêm yết chưa đủ lớn, dẫn đến giá cổ phiếu của các cơng ty
này

dễ

bị

bóp

méo.

Tại Sở Giao dịch Chứng khốn Hà Nội, trong số 375 cơng ty niêm yết thì có tới 64
cơng ty có vốn điều lệ dưới 1,000,000 USD, 79 cơng ty có VĐL từ 1,000,000 USD
– 2,000,000 USD, 15 công ty từ 50,000,000 USD trở lên. Trong số các mã niêm
15


yết có số vốn điều lệ lớn chủ yếu là các ngân hàng, các cơng ty trong ngành tài
chính.
Tại sở giao dịch chứng khốn Tp.HCM thì tình hình tương đối tốt hơn hơn do quy
định niêm yết yêu có cầu cao hơn. Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp có vốn điều lệ

dưới 10,000,000 USD là 141 công ty chiếm 50%, các cơng ty từ 100,000,000 USD
trở

lên



23

cơng

ty.

Ngày 2.8.2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có Quyết định số
128/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Đề án cũng đề ra mục tiêu cụ thể, phát triển thị
trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng
trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán
đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP. Tuy nhiên tổng quy mô thị trường
của Việt Nam tính đến 21/02/2011 là khoảng hơn 30 tỷ USD, mới đạt hơn 30%
GDP. Vì thế chúng ta khẳng định rằng mục tiêu này là chưa đạt được.
Tham khảo giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, mặc dù trong năm
2010 tổng số lượng cổ phiếu được giao dịch tăng 11,92% so với năm 2009 nhưng
giá trị giao dịch lải giảm 10,87% so với năm 2009. Đây có thể nói là một số liệu rất
đáng buồn vì năm 2010 nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được ổn định trong tăng
trưởng, nhưng giá trị giao dịch tại sàn Tp.HCM lại giảm mặc dù đây là sàn giao
dịch tập trung nhiều cơng ty có vốn hóa lớn, uy tín cao và với tiều chuẩn niêm yết
chặt chẽ tại Việt Nam.
Bảng 1: Thống kê giao dịch tại Sở GDCK TP.HCM


HSX

2009

2010

So sánh 10/09

Tổng khối lượng CP giao dịch

10.402.714.071

11.643.147.628

+ 11,92%

16


Tổng giá trị CP giao dịch (Tỷ đồng)

422.460,937

376.510.366

- 10,87%

(Nguồn: Sở giao dịch chứng khốn Tp.HCM)
Một


số

lý do

của

những

tồn

tại

trên



thể

diễn

đạt

sau:

Thị trường chứng khốn là thị trường của niềm tin và hành động theo đám đơng.
Một khi niềm tin của nhà đầu tư vững thì việc điều chỉnh sâu của thị trường là rất
hiếm. Tuy nhiên có thể nói rằng niềm tin của các đầu tư tại thị trường chứng khoán
Việt Nam bị suy giảm nghiêm trọng do nếm phải trái đắng trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế và trong các đợt suy giảm vừa qua. Việc thua lỗ này một phần do
kiến thức chuyên mơn và tính chun nghiệp chưa hội đủ, cộng với tư tưởng đầu tư

là phải thắng ngay chứ khơng có tư tưởng đầu tư lâu dài. Mặt dù trong thời gian
vừa qua kiến thức của các nhà đầu tư đã được nâng lên khá nhiều, tuy nhiên việc
đầu tư vẫn cịn chạy theo tâm lý bầy đàn. Sau đó là thường chạy theo các báo cáo
của các tổ chức tài chính quốc tế. Mỗi khi các tổ chức ra khuyến cáo về chiều
hướng thị trường và một cố phiếu nào đó là các nhà đầu tư lại ùa nhau mua cổ
phiếu đó. Tuy nhiên bài học cay đắng là bản thân Leman Brothers, một trong các tổ
chức thường đưa ra các báo cáo nhân định về thị trường, cũng hoạt động thua lỗ
dẫn tới sụp đổ, các quỹ đầu tư chứng khốn trong nước và có yếu tố đầu tư nước
ngoài cũng đều lỗ. Lúc này các nhà đầu tư nội bắt đầu ùa theo dòng đầu tư của các
nhà đầu tư ngoại. Mỗi khi nhà đầu tư ngoại mua vào cổ phiếu nào đó thì lập tức
các nhà đầu tư trong nước “đua” theo. Tuy nhiên, nếu theo dõi thật kỹ động thái
của các nhà đầu tư ngoại chúng ta có thể thấy rằng hiệu quả các các làn sóng đầu tư
là khơng cao. Tiếp đến các nhà đầu tư lại đầu tư theo diễn biến của thị trường thế
giới. Mỗi khi thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ tăng thì lập tức thị
trường trong nước tăng theo. Cách thức đầu tư này mau chóng bộc lộ nhiều điều
17


bất ổn. Thêm vào đó, nhận định của các chuyên gia trong ngành tài chính và chứng
khốn khơng chính xác khá nhiều dẫn đến niềm tin càng bị lung lay. Và sau hết là
lỗ đầu tư do các cuộc làm giá của các đội lái của các cổ phiếu có vốn hóa thị
trường nhỏ khiến khơng ít nhà đầu tư trắng tay từ những đợt này.
Mức lợi nhuận kỳ vọng của các nhà đầu tư chứng khốn niêm yết khơng như mong
đợi. Theo như số liệu mô tả trong phần thực trạng ở trước, thị trường chứng khoán
gần như dậm chân tại chỗ trong năm 2010, giá của các chứng khốn hầu như giảm
cho dù các penny stock có lúc tăng do làm giá. Việc này dẫn đến lợi nhuận kỳ vọng
của các đầu tư có tổ chức nói riêng và của tồn thị trường nói chung khơng theo
đúng như kỳ vọng. Từ đó rất khó thu hút thêm được nhà đầu mới tham gia vào thị
trường trong đó có các nhà đầu tư nước ngồi. Trong khi đó các thị trường chứng
khốn khác có sự phục hồi mạnh mẽ sau khủng hoảng, dẫn đến lợi nhuận từ các

khoản đầu tư tăng cao, thu hút được nhiều luồng vốn đổ vào.
Trong năm 2010 kinh tế Việt Nam tăng trưởng ấn tượng, tổng GDP trên 100 tỷ
USD. Tuy nhiên thành quả tăng trưởng này bị suy giảm do các vấn đề về lạm phát.
Bên cạnh tỷ lệ lạm phát cao, Việt Nam còn
phải đối mặt với các sức ép về tiền tệ, mức

Thị trường chứng khoán là thị

dự trữ ngoại hối sụt giảm, chênh lệch lãi

trường của niềm tin và hành động

suất quốc gia cao so với các nền kinh tế

theo đám đông. Một khi niềm tin

tăng trưởng khác của Châu Á. Như vậy,

của nhà đầu tư vững thì việc điều

mặc dù là một trong những nền kinh tế

chỉnh sâu của thị trường là rất

năng động nhất khu vực, Viêt Nam cũng là

hiếm.

một ngoại lệ so với xu hướng của các thị
trường mới nổi. Về lý thuyết, các nền kinh tế mới nổi nói chung sẽ có đồng tiền

mạnh hơn, luồng vốn đổ vào mạnh mẽ và dự trữ ngoại hối cao, sức ép về ngoai tệ
18


khơng lớn, lãi suất khơng cao. Thêm vào đó trong năm 2010 lãi suất ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Lãi suất huy động có khi lên tớn
18%/năm và lãi suất cho vay có khi vượt 20% một mặt giúp cho lượng tiền lưu
thông trong nền kinh tế giảm, kiềm chế được lạm phát. Tuy nhiên , mặt bằng lãi
suất cao, khiến cho chí phí vốn của doanh nghiệp cao, luồng vốn đổ vào thị trường
chứng

khốn

bị

thu

hẹp.

Chính sách vĩ mô chưa thật sự nhịp nhàng. Sau khi các gói kích thích kinh tế thực
hiện xong vai trị của mình, thị trường chứng khốn sau khi phục hồi nhờ kết quả
của các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã rơi vào thời kỳ điều chỉnh. Trong thời
kỳ thị trường chứng khốn gặp nhiều khó khăn thì phải đối mặt với những thách
thức từ những chính sách điều hành vĩ mô mang lại như: thuế từ đầu tư chứng
khốn vẫn được áp dụng cho dù có nhiều kiến nghị tạm dừng việc thực thi. Giá cả
các mặt hàng nhạy cảm như điện, xăng dầu, sắt thép tăng cao dẫn đến loạt giá cả
leo thang. Do lạm phát leo cao gây ảnh hưởng bất lợi lên nền kinh tế vì thế Chính
phủ buộc phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiền chế lạm phát. Chính
sách


tiền

tệ

thắt

chặt

trong

lúc

đáng

lẽ

ra

cần

mở

rộng.

Lợi nhuận của các một số công ty niêm yết chưa thực sự bền vững, có một số cơng
ty năm trước thì lợi nhuận rất cao, nhưng năm sau lợi nhuận giảm đáng kể. Tình
trạng này trập trung vào một số cơng ty có lượng hàng tồn kho cao trong các ngành
như: nhựa, cao su … khi những cơng ty này có lượng hàng tồn kho mua từ khi giá
thị trường thấp, khi giá thị trường cao dẫn đến một khoản lợi nhuận lớn. Những
người thuộc các công ty này biết được trước tình hình đã thực hiện việc thâu gom,

sau đó tung tin làm giá. Nhưng nhà đầu tư không nắm được những yếu tố này sẽ
phải đầu tư ở mức giá cao và chịu những khoản lỗ không nhỏ.
19


Yếu tố tự nhiên cũng gây bất lợi cho nền kinh tế. Trong năm vừa qua hiện tượng
hạn hán diễn ra trên diện rông gây thiếu nước trầm trọng ảnh hưởng đến hoạt động
của các nhà máy thủy điện gây nên thiếu hụt điện đáng kể đối với hoạt đông sản
xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân. Các doanh nghiệp phải tự lo nguồn
điên bổ sung, tạo nên áp lực về nhu cầu xăng dầu trong toàn xã hội, tăng chi phí,
giảm lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Bên cạnh hạn hán diện rộng, lũ lụt lại xảy ra
liên tiếp tại khu vực Bắc Trung Bộ gây thiện hại khá nghiêm trọng về người và
của. Chính phủ phải sử dụng nguồn ngân sách để khác phục những thiệt hại này,
một phần tạo bội chi ngân sách. Hạn hán và lũ lụt ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động
của ngành Nông nghiệp, ngành du lịch và các doanh nghiệp bất động sản có dự án
tại

các

vùng

này

Để nâng cao được tính hấp dẫn của thị trường vốn chúng ta cần thực hiện các
giải

pháp

Tất cả chúng ta đều biết rằng thị trường vốn bị tác động bởi các yếu tố kinh tế vĩ
mô và các yếu tố nội tại của thị trường vốn. Vì thế muốn nâng cao tính hấp dẫn của

thị trường vốn Việt Nam thì nhất thiết trước hết cần phải nâng cao tính cạnh tranh
của

nền

kinh

tế





Giải pháp trước hết là tạo lập cơ chế thị trường có chiều sâu cho nền kinh tế từ đó
tạo tính ổn định bền vững cho môi trường hoạt động của các doanh nghiệp, giúp
các doanh nghiệp có thể lường trước được những rủi ro có tính hệ thống. Chúng ta
cần tơn trọng quy luật cung cầu giá cả của các mặt hàng nhạy cảm đối với nền kinh
tế như xăng dầu, truyền tải điện … Có thể chúng ta sẽ thả nổi cho cho giá các mặt
hàng này biến động theo giá thế giới nhưng đồng thời phá bỏ cơ chế độc quyền
một cách triệt để tạo ra sự cạnh tranh nhiều hơn trong việc cung cấp các mặt hàng
20


nhạy cảm. Bài học này có thể thấy từ thị trường viễn thơng. Từ khi có nhiều nhà
cung cấp dịch vụ trong thị trường viễn thông, giá cả từ chỗ đắt nhất thế giới đã
giảm đi rất nhiều, giúp người tiêu dùng hưởng lợi. Việc phá bỏ độc quyền sẽ tạo sự
tăng giá đột biến trong một số mặt hàng nhất định trong một khoảng thời gian nào
đó nhưng việc phá bỏ độc quyền giúp cho giả cả trở về vị trí cần bằng trên bình
diện tồn nền kinh tế, giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được rất nhiều khoản chi
phí, góp phần tăng khả năng tiêu dùng của khu vực tư nhân, giúp tăng thêm lực cầu

cho nền kinh tế, giúp phát triển bền vững, nâng cao sức hút của thị trường vốn.
Hơn nữa cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nghiệp hồn thiện mình hơn, tạo được phát
triền

bền

vững.

Cần đồng bộ hóa các chính sách điều hành kinh tế vĩ mơ bao gồm chính sách tài
khóa, chính sách tiền tệ. Điều hành chính sách thuế cần linh hoạt hơn, giúp cho các
doanh nghiệp các nhà đầu tư vượt quan các giai đoạn khó khăn. Trong đó đặc biệt
là cơ chế điều hành tỷ giá, lãi suất cần phải cân nhắc trên lợi ích lâu dài, khơng nên
q tập trung một mục tiêu trước mắt, đưa ra những chính sách ảnh hưởng đến cân
bằng vĩ mô cho khoảng thời gian liền kề sau đó. Tạo lập khung pháp lý và môi
trường kinh doanh thuận lợi, ổn định cân bằng vĩ mơ và các chính sách. Từ đó
khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo thêm luồng vốn đổ vào nền
kinh tế chúng ta. Song song đó cần phải có cơ chế giám sát tốt hiệu quả, tránh trình
trạng chuyển giá làm thất thu ngân sách, góp phần giảm thiếu hụt ngân sách, góp
cho khả năng đầu tư của khu vực cơng được cao. Giảm nợ nước ngồi và nhu cầu
ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá, kiểm soát được giá trị của đồng Việt Nam, giúp
cân bằng lãi suất, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường vốn.
Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tốc độ tăng xuất khẩu so với tốc nhập khẩu
phải ngày một cao hơn, góp phần cải thiện cán cân thanh tốn. Tăng dự trữ ngoại
21


hối, giảm áp lực về cầu ngoại tệ đặc biệt là vào các thời điểm cuối năm giúp thị
trường tiền tệ và thị trường vốn ổn định. Từ đó giúp cho chính sách điều hành tỷ
giá thêm chủ động. Giúp ổn định giá trị của Đồng Việt Nam. Giúp cho giá cả nền
kinh tế vốn nhập khẩu khá nhiều ổn định hơn, giúp giải được bài tốn lạm phát,

góp phần vào ổn định lãi suất và từ từ tiến tới giảm lãi suất để giúp tăng đầu tư cho
nền chi kinh tế, góp phần vào tốc độ tăng trưởng GDP. Nếu thực hiện được giải
pháp này thì sẽ tạo cho tâm lý các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài
được

ổn

định

Phát triển thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động vốn và phân bổ vốn
quan trọng cho phát triển kinh tế, trong đó chú trọng đặc biệt đến việc phát triển thị
trường trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và đầu tư
xây dựng cơ bản; tuy nhiên cần phải có cơ chế sử dụng các nguồn vốn này một
cách có hiệu quả, tránh tình trạng như VINASHIN, Chính phủ phải dùng các
nguồn trái phiếu để đứng ra giải quyết tạm thời các vấn đề của Tập đoàn này làm
ảnh hưởng đến nguồn lực của Chính Phủ. Song song đó cần phải nâng cao tính
hiệu quả của các dự án cơng, tránh tình trạng thi cơng kéo dài ảnh hưởng đến hiệu
quả. Từ đó giúp cho xếp hạng tín dụng của Việt Nam nói chung và của các doanh
nghiệp nói riêng được cải thiện ngày càng tốt hơn. Giúp cho việc huy động vốn
được thuận lợi hơn, chi phỉ huy động vốn giảm, giúp tăng năng lực cạnh tranh cho
các

doanh

nghiệp.

Tăng tính hiệu quả của thị trường trên cơ sở tái cấu trúc TTCK; trước hết cần hoàn
thiện hệ thống pháp lý giúp cho hoạt động của thị trường ổn định và hiệu quả. Các
chính sách pháp lý cần hướng đến tính minh bạch hơn nữa về các thơng tin của các
cơng ty niêm yết, tính tin cậy của các thông tin được các tổ chức được nâng cao,

phạt nặng các trường hợp thao túng thị trường, làm giá cổ phiếu nhưng đồng thời
22


phải tạo cho thị trường có tính thanh khoản cao. Tổ chức giám sát chặt chẽ các hoạt
động của các cơng ty kiểm tốn để có thể có những báo cáo trung thực và kịp thời
đến với các nhà đầu tư. Các chính sách quản lý vĩ mơ tạo động lực cho các DN, các
thành phần kinh tế huy động được các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho đầu
tư phát triển qua TTCK. Đồng hành với sự phát triển của TTCK, các thị trường tiền
tệ, thị trường hối đoái, TTCK phái sinh, thị trường bảo hiểm cũng cần được hoàn
thiện về mặt thể chế để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ cho thị trường tài chính.
Ngồi ra, thị trường chứng khoán Việt Nam và các thành viên cũng rất cần chủ
động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện đại
hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ
thông tin; nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ
chức phụ trợ. Nâng cao hơn nữa tính chun nghiệp của các nhà đầu tư, thơng qua
các chương trình phổ cập kiến thức về đầu tư tài chính. Nâng dần tính chuyên
nghiệp của hoạt động đầu tư thông quan việc cho phép tổ chức nhiều loại hình quỹ
đầu tư và được quản lý bới những chuyên gia có tâm, có tầm. Việc tổ chức nhiều
loại quỹ đầu tư này giúp cho thị trường ổn định về giá, tạo được tính thanh khoản
cho

các

sản

phẩm

của


thị

trường.

Song song với các giải pháp về vĩ mơ, để phát triển mạnh TTCK thì bản thân các
doanh nghiệp phải có chiến lược tốt, nâng cao tính cạnh tranh bằng các chiến lược
về khác biệt hóa và chi phí hạ thì cần đẩy mạnh việc cải cách. Trong đó các doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước cần tái cấu trúc về hoạt động cho phù hợp với
tình hình mới, tạo thành những tập đồn vững mạnh từ đó thu hút được nhiều nhà
đầu



mới

trong



ngồi

nước.

Với những thành tựu nêu trên và các giải pháp được thực hiện một cách đồng bộ
này sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường vốn trong những năm tiếp theo.
23


24




×