Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thị trường tài chính Việt Nam,thực trạng và giải pháp phát triển.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.42 KB, 20 trang )

Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị
trường-hay nói chính xác hơn,là nền kinh tế tiền tệ, ở đó,bên cạnh các thị
trường khác,thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người
cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở
mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một
nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt
động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có
hiệu quả như thế, và ngược lại.
Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không
chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư.
Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải
tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu
Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn
để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình
thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn
hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất
ngắn, trung hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam ,kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế
thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia
nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự
đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn.
Sau một qúa trình học hỏi,tìm tòi và nghiên cứu .Dưới sự chỉ dẫn của
PSG.TS Vũ Anh Tuấn, tôi đã thực hiện xong đề án “thị trường tài chính Việt
Nam,thực trạng và giải pháp phát triển”. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
nhiệt tình của công ty chứng khoán Thủ Đô, cùng những bạn bè gần xa đã có
những lời tư vấn và góp ý chân thành.
Chương I: Những vấn đề lý luận về tài chính và thị trường
tài chính


1.1 Tài chính và thị trường tài chính
1.1.1 Tài chính
1.1.1.1 Bản chất của tài chính:
Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra
đời của nhà nước và sản xuất hang hoá.
Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong quá trình hình
thành,phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
1
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong
quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian
và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và
ngược lại đối với người mua.
Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong
quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian
và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và
ngược lại đối với nguời mua.
Trong quan hệ tài chính thì khác,giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể
này sang chủ thể khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho nhà
nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà
nước,do đó quan hệ vè thuế là quan hệ tài chính.
Trong thơì kỳ quá độ,quan hệ tài chính biểu hiện qua các quan hệ dưới
đây:
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội
với nhà nước.
Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân
sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của
nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo

hai chiều từ dân cư,doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và
ngược lại.
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ
thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,hệ thống các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho
các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi
phát triển mạnh mối quan hệ tài chính-quan hệ tín dụng-giữa các doanh
nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng.
-Quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường .
Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới
các hình thức khác nhau.Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết
các chủ thể kinh tế trong xã hội.Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ
tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán
quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài
chính nói trên, quan hệ mua bán “ vốn” giữa các doanh nghiệp và nhân dân
đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu
để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị truờng tài
chính theo phương hướng đã định.
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
2
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
-Quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, dân cư…) :
Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt
động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức,
công nhân, nguời lao động; phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội
bộ mỗi chủ thể.
Thông qua hướng dẫn, điều tiết, nhà nước vừa đảm bảo cho các quan

hệ tài chính không phát triển tự phát như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng
dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.[1 ,trg204 -
206 ]
1.1.1.2 Chức năng của tài chính: tài chính có 2 chức năng
Thứ nhất, chức năng phân phối
Tài chính tham gia vào cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân
phối lần đầu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất giữa các doanh nghiệp
với người lao động và nhà nước. Cụ thể là sau khi các doanh nghiệp tiêu thụ
được sản phẩm, số doanh thu này sẽ được phân phối cho các quỹ: quỹ bù đắp
tư liệu sản xuất, quỹ trả công cho người lao động, khoản nộp thuế cho ngân
sách nhà nước, khoản trả lợi tức cổ phần,phần còn lại là lợi nhuận của các
doanh nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp.
Phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu chung cho xã hội như: duy trì bộ máy
nhà nước, phát triển văn hoá, xã hội, y tế, thể thao… Quá trình phân phối lại
thông qua ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian(công ty tài
chính, ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm…)
Thứ hai, chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ,tài chính có vai trò
như người “giám sát”, “đôn đốc”, “kiểm tra”, “điều chỉnh” tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất
giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của nhà nước và
của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động
của các quỹ tiền tệ, nguời ta có thể biết được tình hình thực hiện hoạt động
của các doanh nghiệp để có giải pháp điều chỉnh.
1.1.1.3 Vai trò của tài chính
Một là, điều tiết kinh tế
Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng:
phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà
nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những
vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều

tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dung biện pháp đầu tư
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
3
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh
vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dung biện
pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những
khâu chưa cần thiết… Đồn thời, nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng
cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các
ngành nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cân đối theo đinh hướng, muc
tiêu.
Hai là, xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế-xã hội
Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt nhà nước cần có
những biện pháp cấp bách điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp
cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt
khác, nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị
trường vốn trung hạn,dai hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn
chúng phát triển đúng hướng.
Ba là, tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai
chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước
ngoài và ngược lại, từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vực sản xuất và từ nước
ngoài vào trong nước. Nếu nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ
tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy
quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển,giảm bớt các chi phí không cần
thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu-chi tài chính và phân phối

thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ
về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có
thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua chức năng
giám đốc, tài chính duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham
ô…
Năm là, hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dung hợp lý
Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh
sự phân phối từng bước cho phù hợp, có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu
nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp hoặc cũng có thể
thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người
nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp…
Sáu là, củng cố liên minh công-nông, tăng cường vai trò của nhà nước
và an ninh quốc phòng.
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
4
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền kinh tế tài chính
lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo
ra cơ sở kinh tế-xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công-nông-trí
thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc
phòng. [ 1 ,trg 206 – 208 ] [5, trg 547]
1.1.2 Thị trường tài chính
1.1.2.1 Định nghĩa: “Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao
dịch và mua bán quyền sử dụng những khoản vốn thông qua các phương thức
giao dịch và những công cụ tài chính nhất định”
Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn
Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất
định. [14 , web ]
1.1.2.2 Phân loại thị trường tài chính

Có nhiều cách đến phân loại thị trường tài chính:
 Nếu phân loại theo công cụ tài chính trên thị trường thì ta có:
- Thị trường nợ
- Thị trường chứng khoán
 Nếu phân loại theo thời gian luân chuyển vốn, ta có:
- Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm
- Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên
 Nếu phân loại theo hình thức phát hành, thì ta có:
- Thị trường sơ cấp: thị trường phát hànhc chứng khoán lần đầu tiên
- Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại các chứng khoán
Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức phân loại nào thì sẽ
tuỳ thuộc vào vấn đề mà người ta muốn nghiên cứu đến. Thông thường, khi
nói đến thị trường tài chính người ta thường phân ra theo 2 cách dưới. [ 14,
web ]
1.2 Cấu thành của thị trường tài chính
Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có ba thành phần cơ bản sau
đây tham gia: Người sử dụng cuối cùng,các định chế tài chính trung gian, và
các nhà đầu tư.
1.2.1Người sử dụng cuối cùng
Những doanh nghiệp, tư nhân khi cần đầu tư vốn cho kế hoạch kinh
doanh của mình. Họ có thể huy động nguồn vốn này trên thị trường tài chính,
bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các định chế tài chính trung gian.
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
5
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
Họ là những người sử dụng nguồn vốn này để thực hiện các kế hoạch kinh
doanh, tạo ra lợi nhuân. Đồng thời, họ cũng có những nghĩa vụ của người vay
nợ đối với người cho vay.
1.2.2Các định chế tài chính trung gian

 Các tổ chức nhận ký gửi
Các tổ chức nhận ký gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hợp tác xã
tín dụng. Các tổ chức này có đặc điểm chung là nhận tiền gửi và sau đó đem
cho vay trực tiếp tới các cá nhân, tổ chức cần vốn và một phần khác đem đầu
tư vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn:
thu nhập từ tiền lãi cho vay và đầu tư chứng khoán; thu nhập từ các khoản phí
dịch vụ.
 Các tổ chức không nhận ký gửi
Loại tổ chức này bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí,
quỹ đầu tư [ 14 , web ]
1.2.3Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những ngưòi sẵn sang bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án kế
hoạch. Trong lĩnh vực tài chính,họ chính là thành phần đầu vào tạo ra nguồn
vốn cho các doanh nghiêp. Họ là những người gửi tiết kiệm ngân hàng, mua
cổ phiếu,trái phiếu. Mong muốn của các nhà đầu tư là số vốn của mình bỏ ra
tạo ra được lợi nhuận.
1.3 Vai trò của thị trường tài chính
Thị trường tài chính có 3 chức năng kinh tế cơ bản sau:
 Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính.
Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người
bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định, hay nói cách
khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định. Yếu tố
thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư
yêu cầu; và với đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho
biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản
tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá.
 Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản
tài chính.
Với đặc tính này, thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản.
Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến

khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi
hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
6
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là
khác nhau giữa chúng.
 Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiến và chi phí thông tin.
Để các giao dịch có thể được diễn ra thì những người mua và người bán
phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm kiếm
này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó là chi phí tìm kiếm.
Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư như
khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ
có tính trung lập này – là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau,
là nơi cung cấp các thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối
lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp
nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế,
đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài
chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian
tài chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng
ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường. [ 2 , trg 23 ]
Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường tài chính
ở nước ta thời gian qua
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính
1991 tới nay
Với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7 năm
2000. Ta có thể dựa vào cột mốc đó để chia ra làm hai giai đoạn hình thành và
phát triển của thị trường tài chính

2.1.1 Giai đoạn từ 1990 đến 2000
Đây là giai đoạn đầu, phôi thai cho một thị trường tài chính hoạt động
theo cơ chế thị trường. Do chịu ảnh hưởng của một thời kỳ chiến tranh lâu
dài, và thời kỳ trước đổi mới, nền kinh tế ta hoạt động một cách quan liêu và
bao cấp kém hiệu quả. Sau đổi mới năm 1986, một thị trường tài chính Việt
Nam đã dần dần thành hình. Điển hình là qua những sự kiện như:
 Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai pháp
lệnh về Ngân hang: Pháp lệnh ngân hang nhà nước và Pháp lệnh ngân
hang, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Hai pháp lệnh nói trên
đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới cơ bản tổ chức và hoạt động của hệ
thống ngân hang, được coi là mũi đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi
mới hệ thống ngân hang, chính sách tiền tệ, tín dụng trong giai đoạn
1990- 2000.
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
7
Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển
 Về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: nhằm thu hút thêm các nguồn
vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có
hiệu quả. Văn kiện đại hội Đảng VII khẳng định “ cần thực hiện các
hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản
xuất- kinh doanh “
 Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời và bước vào hoạt động từ
1/10/1995 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong định hướng phát
triển của Đảng và Nhà nước
 Các chính sách và quản lý thuế được đưa ra và sửa đổi liên tục nhằm
đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của đất nước
 Về tổ chức thị trường tiền tệ: trong những năm này, chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước đã rất chú trọng tạo dựng hệ thống thị trường tiền tệ
(bao gồm thị trường tiền gửi, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị

trường trái phiếu kho bạc, nghiệp vụ mở… ). Tuy chưa có điều kiện
phát triển nhưng hệ thống thị trường tiền tệ đã góp phần tích cực trong
việc khắc phục tình trạng ách tắc của lưu thông, thanh toán, phân phối
và điều chỉnh các nguồn vốn ở một mức độ nhất định; đồng thời mở ra
nhiều cơ hội kinh doanh cho các chủ thể kinh tế.
Trong giai đoạn này, thị trường tài chính đã dần dần có những bước đột
phá và thành công nhất đinh. Nhưng mức độ huy động vốn trong dân, và
từ nước ngoài vẫn chiếm một tỷ lệ chưa cao.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2000 cho đến này
Cột mốc đánh dấu đáng chú ý nhất, có ảnh hưởng lớn nhất và đáng tự
hào nhất của thị truờng tài chính Viêt Nam. Đó chính là sự ra đời của thị
trường chứng khoán, một thị trường vốn- một kênh huy động vốn hiệu quả
nhất cho nền kinh tê. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo nên những
bước chuyển đổi và nhảy vọt quan trọng. Thị trường tài chính lớn mạnh hơn,
giúp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau sở giao dich chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, rồi đến lượt trung tâm
giao dich chứng khoán Hà Nội ra đời. Thị truờng tài chính lại bùng nổ, với
hàng loạt quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các ngân hàng thương
mại cổ phần nhiều hơn, mức độ huy động vốn lớn hơn, tạo ra một súc mạnh
lớn cho nền kinh tế. Uớc tính mức vốn hoá của thị trường chứng khoán hiện
nay đã là 40% GDP. Con số này sẽ ngày càng được tăng lên trong những thời
gian tới. Có thể nói rằng, chưa bao giờ thị truờng tài chính Việt Nam lại phát
triển manh mẽ như lúc này. [ 4 , trg 331 - trg 337 ] [10, web] [9, web ]
2.2 Vai trò thị trường tài chính trong phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta những năm qua
GVHD: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
SVTH: Nguyễn Quang Hội
8

×