KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài: Lý luận của Mác về sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường –
sự vận dụng ở Việt Nam
Lời mở đầu
Trong thời kì đầu của xã hội lồi người do sự lạc hậu của lực lượng sản
xuất, nên sản xuất xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người
bị bó hẹp trong một giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và có
nhiều thành tựu mới, con người dần thốt khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển
sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá phát triển càng mạnh
mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có những
ưu việt của nó, đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của con người với một khối
lượng hàng hố khổng lồ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế, nhất là trong
chế độ xã hội TBCN, một chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được chú trọng
hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã hội bị
xem nhẹ.
Đối với việt nam các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là chúng ta
đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong quá trinh phát triển mới. Nhưng để đạt được
tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới cịn nhiều khó khăn. Việt
Nam đang trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ kinh tế tự nhiên sang nền
kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy mà Việt
Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như khó khăn cần được giải quyết.
Sau đây là những phân tích của nhóm 6 về lí luận của mác về sản suất hàng
hóa và kinh tế thi trường cùng với đó là sự vận dụng ở Việt Nam.
3
Chương 1: Lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin:
I.Lý luận của Mác về sản xuất hàng hóa.
1.Khái niệm, điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm:
Sản xuất hàng hóa là khái niệm dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế
trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi và mua bán. Nói cách
khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản hẩm sản xuất ra là
b.
để bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
+) Phân công lao động xã hội: là sự chun mơn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Khi có phân cơng lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Do đó, họ có mối liên hệ hụ thuộc vào nhau, cần đến sản phẩm
của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Sự phân công lao động xã hội làm tăng
năng suất lao động, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều càng thúc đẩy sự trao
đổi sản phẩm.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, tiền đề của sản xuất hàng hóa.
Phân cơng lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng
mở rộng hơn, đa dạng hơn.
+) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của người sản xuất:Trong lịch sử, sự
tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Trong chế độ tư hữu
4
về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả
là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Những người sản xuất trở thành
những chủ thế có sự độc lập nhất định với nhau. Do sản phẩm làm ra thuộc
quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao
động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa.
=> Hai điều kiện trên cho thấy, phân cơng lao động xã hội làm cho những người
sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữ
những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là mâu
thuẫn được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đó là hai
điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ
khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động khơng mang hình thái hàng
hóa.
2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa.
Sán xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau:
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.
+) Trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau: sản xuất
tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hóa.
+) Sản xuất tự cung, tự cấp: sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người nơng dân
trong thời kì cơng xã ngun thủy, sản xuất cỉa những người nông dân gia
trưởng dưới chế độ phong kiến, …
+) Sản xuất hàng hóa: để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua
việc trao đổi, mua – bán .
- Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính
xã hội.
+) Mang tính chất xã hội: sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của
người khác trong xã hộ.
5
+) Những tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thì lao động của người sản
xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như
thế nào trong cơng việc riêng, mang tính chất độc lập của mỗi người. Tính chất
tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội. Là cơ sở
dẫn đến khủng hoảng.
- Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải là giá trị
sử dụng.
d. Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Thường có 4 ưu điểm cơ bản của sản xuất hàng hóa được nhận định như sau:
+) Quy mô của việc sản xuất được mở rộng tạo được điều kiện cho việc đưa các
ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển.
+) Sản xuất hàng hóa ra đời giúp tạo điều kiện khai thác những lợi thế của thiên
nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng cá nhân, từng địa phương, từng vùng và của
từng quốc gia.
+) Sản xuất hàng hóa ra đời có tác động và sự ảnh hưởng lớn tới các quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,… Buộc cho những đơn vị, người sản
xuất phải nhanh nhạy hơn, luôn luôn phải cải tiến kỹ thuật để làm sao có thể làm
tăng được năng suất lao động, chất lượng và có thể đạt được hiệu quả kinh tế
nhất định.
+) Sản xuất hàng hóa phát triển sẽ giúp cho đời sống vật chất, văn hóa và tinh
thần ngày một được nâng cao. Khi vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng cao thì
tự ắt việc sản xuất hàng hóa sẽ càng phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có
những mặt trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất
hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi
trường sinh thái, v.v..
II. Lí luận của Mác về kinh tế thị trường.
1. Quá trình phát triển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa.
a. Khái niệm.
- Kinh tế tự nhiên (sản xuất tự cấp tự túc):
6
•
•
•
Là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm
thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân người sản xuất.
Người sản xuất cũng chính là người tiêu dùng
Lực lượng sản xuất kém phát triển.
Trong nền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế nhỏ chiếm ưu thế, nền
kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành
và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc đê tạo ra sản phẩm cuối
cùng.
Trong nền kinh tế tự nhiên, tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng
đất, nông nghiệp là nghành sản xuất cơ bản, công cụ, kĩ thuật
-
canh tác lạc hậu, phân công lao động kém phát triển.
Kinh tế hàng hóa:
• Là kiểu tổ chức kinh tế có sự phân cơng lao động mà ở đó sản
•
•
phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Người sản xuất không phải là người tiêu dùng.
Lực lượng sản xuất phát triển.
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều
kiện tự nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất
những sản phẩm khác nhau có hiệu quả hơn. Mỗi người sản xuất
chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản
phẩm đó trao đổi, mua bán để lấy sản phẩm cần thiết cho sản
b.
xuất và đời sống của mình.
Những tiền đề của quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế
hàng hóa
Nền kinh tế tự nhiên( tự cấp tự túc), sản xuất nhỏ có đặc trưng điển hình là sử
hữu tư nhân. Theo C.Mac “ chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ loại trừ sự phát triển,
sức sản xuất xã hội của lao động, những hình thái xã hội của lao động, sự tập
trung tư bản xã hội, việc chăn nuôi theo quy mô lớn, việc ứng dụng khoa học
một cách tiến bộ vào nông nghiệp”. Kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc rõ ràng là vật
cản, đi ngược lại xu thế vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất
và của khoa học kĩ thuật. Thực tế cho thấy, lực lượng sản xuất và khoa học, kĩ
thuật không ngừng phát triển. Đặc biệt khoa học kĩ thuật trong thời đại hiện nay
7
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và hầu như tất cả các quốc gia, dân tộc
đều ứng dụng thành tựu của nó để phát triển.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội học đã nhấn mạnh: sản xuất chỉ để tự cấp tự
túc đáp ứng nhu cầu người lao động thì khơng phải là sản xuất hàng hóa. Kinh tế
tự cấp tự túc thuộc vào trình độ thấp kém nhất, lạc hậu nhất, nó cũng giống như
kinh tế gia trưởng, sản xuất nhỏ và khác với nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nền
kinh tế tự cấp tự túc đã để lại rất nhiều hạn chế trên mọi khía cạnh như trình độ
lực lượng sản xuất, năng xuất lao động, tính hiệu quả. Lực lượng sản xuất thủ
cơng, lạc hậu, người lao động khơng có tri thức, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
=> không tạo năng xuất lao động cao, khơng có tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
Người sản xuất tự cấp tự túc vô hình đã đóng cánh cửa tuyệt giao với thị trường
bên ngồi vì họ khơng cần mua bán hay trao đổi vật gì. Đây là một hạn chế mới,
trong thời đại ngày nay cần được khắc phục và thay đổi, cần phải mở cửa, hội
nhập.
Ta thấy rằng, sau mỗi cuộc phân công lao động, nền sản xuất lại được chia ra
làm nhiều nghành, lĩnh vực khác nhau. VD: chăn nuôi tách ra từ trồng trọt, thủ
công nghiệp tách ra từ nông nghiệp. => Người lao động được chun mơn hóa
=> nhu cầu về các mặt hàng, hàng hóa khác được nâng lên. Nhu cầu con người
là vô tận, nền kinh tế tự cấp tự túc không thể đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất
và mong muốn thành quả của họ vì thế sự trao đổi mua bán diễn ra là điều tất
yếu từ đó dẫn đến hình thành nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa ra đời là một điều tất yếu, nếu như sản xuất tự cấp tự túc cịn
tồn tại, phát triển thì thật phi lí. Ban đầu Sản xuất hàng hóa ra đời dưới hình thức
nhỏ, giản đơn. Nhưng đó là một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển
nhân loại.
c.
Quá trình phát triển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị
trường
8
+) Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân cơng lao động và trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự
cấp trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.
+) Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường,
kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế thị trường
+) Điều kiện chung của tồn tại sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã
hội và sự tách biệt (độc lập) kinh tế giữa những người sản xuất.
+) Đặc trưng chung của KTHH trong bất kì chế độ xã hội nào là sự tồn tại
hình thái giá trị và thị trường, trong đó giá trị của hàng hố - lượng lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra hàng hố đó, được đo bằng tiền tệ và mang hình thái
giá cả; quy luật đặc trưng của sản xuất hàng hoá là quy luật giá trị, và những quy
luật liên quan như quy luật cung cầu, quy luật lưu thơng tiền tệ, quy luật hàng
hố được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
d.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xu hướng phát
triển tất yếu
Việt Nam- một dân tộc giàu truyền thống văn hiến. Kể từ khi có Đảng, nhân
dân ta đã đồn kết dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc đánh thắng hai đế quốc to là
Pháp và Mĩ, vì nghèo nàn, lạc hậu mà giặc ngoại xâm ln rình rập, đe dọa và
cũng vì chiến tranh mà nước ta càng chìm đắm trong tình trạng chậm phát triển.
Để thốt khỏi tình trạng đó thì đất nước ta phải tiến lên xây dựng thành công
CNXH, Việt Nam đã từng xây dựng mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp. Đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mac-Lênin có phần giáo điều,
cứng nhắc, thiếu tôn trọng quy luật khách quan, xa rời thực tiễn Việt Nam. Tuy
nhiên, mơ hình kinh tế này đã góp phần đáp ứng được các yêu cầu huy động tập
chung mọi nguồn lực của toàn dân tộc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng cũng chiến tranh đã chep lấp và làm trầm trọng thêm những nhược điểm
9
vốn có của mơ hình này, nó tiếp tục được duy trì trong suốt thời gian dài hịa
bình xây dựng đất nước sau chiến tranh. Điều này đã gây lên những hậu quả
không lường, tạo ra một cuộc khủng hoảng vơ cùng sâu sắc.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX (4-2001), Nhà nước đã đưa ra mơ
hình kinh tế tổng quá của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là kết quả của sự tổng kết thực tiến
ở nước ta qua hơn 20 năm đổi mới kết hợp với tham khảo có chọn lọc kinh
nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế, kết quả của sự phát triển và vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mac-Lênin, quy luật chung của
phát triển kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Đây là nền kinh tế
tuân theo những quy luật thị trường, đồng thời lại dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi những nguyên tắc mang bản chất CNXH nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong
đó các cơng ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế
độ cơng hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị
trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh - quốc phòng, ở các lĩnh vực
dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện
hoặc khơng muốn đầu tư vì khơng sinh lời hoặc ít lãi.
Thứ hai, tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. Trong
cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước ln mang tính chất tư sản
và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm mơi trường
kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững
10
của chế độ bóc lột TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền
kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của tồn thể nhân dân lao động,
thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó bảo đảm tính hướng dẫn, điều khiển
nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: Nhà
nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở
các mặt cơ bản: Một là, Nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trị “nhân vật
trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố
trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh
nghiệp.
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã
hội. Trong sự phát triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội
chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã
hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Sự thành
công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ
tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều
được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu
hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường
sinh thái được bảo vệ.
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các
vấn đề xã hội và cơng bằng, bình đẳng trong xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện: Một là, xác định các chỉ tiêu hiệu
11
quả cần đạt được, như tốc độ tăng GDP/người; các chỉ tiêu về phát triển giáo
dục, y tế, việc làm; về xóa đói, giảm nghèo; về văn hóa - xã hội; bảo vệ môi
trường sinh thái,... Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN
trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có
chính sách bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có cơng
với cách mạng, thương binh, người tàn tật,...).
Chương 2: Thực trạng kinh tế thị trường nước ta hiện nay
I.
Những thành tựu
1. Thị trường hàng hóa và dịch vụ
Bằng đường lối đổi mới, mà một trong những đổi mới quan trọng là thực
hiện cơ chế thị trường, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đó
là một thành tựu rất quan trọng, cho phép đất nước mở ra một thời kỳ mới, một
thời kỳ mà con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa dễ dàng hơn, lòng tin của nhân
dân vào Đảng ngày càng được củng cố.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục ổn định.
Bảng 1.1Tốc độ tăng tỉ trọng bình quân các ngành từ năm 2007 đến năm
2013
(Đơn vị: %)
200
Năm
Tăng GDP ngành nông
2007
2008
9
nghiệp
Tăng GDP ngành công
3,40
3,79
1,83
nghiệp
Tăng GDP ngành dịch vụ
10,60
8,68
6,33
7,20
5,52
6,63
2010 2011
2,78
4,01
201
201
2
3
2,72 2,71
7,70 5,53 4,52 4,27
7,52 6,99 6,42 7,14
(Ngồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn chung, GDP từng ngành tăng theo các năm. Tuy nhiên, mức độ tăng
trưởng theo các ngành không đều, cao nhất là ngành dịch vụ, sau đó là cơng
12
nghiệp và nơng nghiệp, đó là kết quả của q trình chuyển đổi cơ cấu thành
phần các ngành kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa. Mặc dù, các nguồn lực sản
xuất nông nghiệp đang bị chuyển dần sang các ngành công nghiệp và dịch vụ
nhưng do khoa học kĩ thuật phát triên, nhà nước có các chính sách khuyến khích
hợp lý nên ngành nông nghiệp vẫn tăng trưởng tương đối nhanh và bền vững.
Điển hình là Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới.
Bảng 1.2 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ các năm
(Đơn vị: nghìn tỷ đồng)
Năm
Tổng mức bán lẻ
hàng hóa và dịch vụ
2007
726,
1
2008
2009
2010 2011 2012 2013
1197, 1561, 2004, 2324, 2617,
968,1 5
6
4
4
3
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Dựa vào bảng số liệu, ta thấy từ năm 2007 đến năm 2013, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và dịch vụ đều tăng so với năm trước. Năm 2007, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và dịch vụ là 726,1 nghìn tỷ đồng. Năm 2013 tăng đến 2617,3 nghìn tỷ
đồng.
2. Các thị trường:
a.Thị trường lao động
Do Việt Nam đang trong thơi kì “dân số vàng” nên thị trường lao động Việt
Nam là một thị trường lớn và đang trên đà phát triển về cả chất và lượng.Tính
đến 01/01/2014 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,65 triệu người, tăng
864,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam chiếm
51,5%; lao động nữ chiếm 48,5%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là
47,49 triệu người, tăng 409,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013.Lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2013 ước tính
52,40 triệu người, tăng 1,36% so với năm 2012.
b.Thị trường bất động sản
13
Thời điểm trước năm 2011 thị trường bất động sản phát triển rất mạnh mẽ.
Sau đó, do các nguyên nhân chủ quan và khác quan như khủng hoảng kinh tế thế
giới nên thị trường bất động sản bị “đóng băng”. Tính đến cuối năm 2013, thị
trường BĐS cịn tồn kho gần 30.000 căn hộ và hơn 1 triệu m2 đất nền, tập trung
chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với giá trị tồn kho ước tính trên hàng
chục ngàn tỷ đồng.
c.Thị trường tài chính
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm qua tương đối ổn định, lãi
suất ngân hàng được điểu chỉnh phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. Trong
năm 2013, là một năm thành công về ổn định tỷ giá khi chung cuôc NHNN chỉ
phải tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng, đặc biệt là nguồn lực dự trữ ngoại
hối tiếp tục được củng cố ước tính đạt trên 25 tỷ USD, tăng khoảng 6 tỷ USD so
với năm 2012 và 16 tỷ USD so với năm 2011. Tính đến thời điểm ngày
31/12/2013, NHNN đã đấu thầu thành công 69,9 tấn vàng góp phần bình ổn giá
vàng, tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống ngân hàng đã chấm dứt, mức độ
chênh lệch giá vàng thế giới với giá vàng trong nước đã giảm.
d.Thị trường khoa học công nghệ
Thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam chưa được phát triển mạnh mẽ
nhưng cũng đã đạt một số thành công nhất định. Trong tương lai với các chính
sách khuyến khích của nhà nước như sửa đổi luật khoa học cơng nghệ (có hiệu
lực từ 1/1/2014), đầu tư nhiều dự án, chương trình nhằm thúc đẩy nguồn cung
sản phẩm KHCN do các viện nghiên cứu, trường đại học hoặc doanh nghiệp tạo
ra. Đặc biệt, việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang hoạt động theo
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
II.
Những hạn chế ảnh hưởng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
14
Thứ nhất, vẫn chậm trễ và tồn tại sự bảo thủ trong đổi mới tư duy lý luận về
kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mang nặng tư duy lý luận của thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập chung và chủ nghĩa xã hội phi thị trường. Nhiều tư duy
theo lối mịn vẫn được duy trì mang tính áp đặt và để tiếp tục đi tới con đường
đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai, thể chế mới của nền kinh tế thị trường cịn chưa được xác lập hồn
chỉnh và vững chắc, mà cơ chế quan liêu vẫn còn tồn tại dai dẳng và tái lập lại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Vẫn chưa tách bạch rạch ròi giữa chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh, dẫn đến sự can
thiệp quá sâu, mang tính hành chính - quan liêu của các cơ quan nhà nước vào
hoạt động kinh doanh của cơ sở. Đây là nguyên nhân làm suy yếu vai trò và sức
mạnh của nhà nước pháp quyền, phát triển tệ nạn tham nhũng và cửa quyền
đang làm nhức nhối xã hội và mất lòng tin của nhân dân.
Thứ ba, duy trì khu vực kinh tế nhà nước cồng kềnh, yếu kém. Tuy khối
doanh nghiệp nhà nước và sở hữu nhà nước đã qua nhiều lần cải tổ và cơ cấu lại,
nhưng vẫn còn cồng kềnh, chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nền kinh tế quốc
dân. Hơn nữa khu vực doanh nghiệp nhà nước đang chưa nhiều căn bệnh nan y
như: quản lý yếu kém, vô trách nhiệm, làm ăn thua lỗ… đây là miếng đất màu
mỡ cho tệ nạn tham nhũng, quan liêu và cơ chế xin - cho tiếp tục bám rễ và phát
triển.
Thứ tư, hệ thống các thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chưa được hiện diện rõ nét và chưa được xây dựng đồng bộ. Trình
độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hết sức
thấp không chỉ xét về những mặt lực lượng sản xuất, quy mô thị trường và dung
lượng trao đổi; mà xét cả về mặt xây dựng các thể chế thị trường cơ bản và nền
tảng của chúng cũng còn thiếu vắng. Các loại hình thị trường riêng chưa phát
triển đồng bộ. Các bộ phận và khu vực còn yếu và chưa gắn bó với nhau trong
15
hệ thống thị trường quốc gia thống nhất, lại càng chưa gắn kế và hội nhập với hệ
thống thị trường quốc tế.
Thứ năm, hạ tầng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn
yếu kém và lạc hậu. Đây là nguyên nhân làm cho môi trường kinh doanh và đầu
tư kém hấp dẫn, nền kinh tế vận hành kém hiệu quả. Ví dụ, thủ tục hải quan
chậm trễ và dịch vụ cảng biển khó tiếp cận đã làm tăng các chi phí, có chi phí
khơng chính thức cũng như đánh mất cơ hội kinh doanh. Giá điện cao và các chi
phí do cắt điện, mất điện gây ra cũng làm tăng các chi phí đầu vào của sản xuất
doanh nghiệp.
Thứ sáu, tuy có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhưng nền kinh tế Việt
Nam vẫn chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả, sự phát triển thiếu bền vững và
năng lực cạnh tranh còn yếu. Chất lượng tăng trưởng được phản ánh chủ yếu
thông qua các chỉ tiêu giá trị gia tăng của nền kinh tế và năng suất tổng hợp.
III.
1.
Những giải pháp cụ thể
Đẩy mạnh q trình đa dạng hố các chế độ sở hữu, tạo điều kiện
phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta
Để phát triển kinh tế thị trường phải đa dạng hố các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế. Đối với nước ta quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như các nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra.
Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng
hoá nhỏ, kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài.
Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.
Khu vực kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức
quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác,
thực hiện vai trị chủ đạo và chức năng của một cơng cụ quản lý vĩ mô của Nhà
nước. Đối với kinh tế hợp tác, cần phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài
học hợp tác xã kiểu cũ và xây dựng mơ hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu
16
mới đang được phát triển hiện nay, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
có hiệu quả thiết thực, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề, với
quy mơ hợp tác hố khác nhau để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hố nhỏ của nơng dân, thợ thủ cơng, người
buôn bán nhỏ cần thông qua cơ chế, chinh sách và hướng dẫn phát triển của Nhà
nước khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế nàyvà cần tăng cường
công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Đối với thành phần tư bản tư nhân cần có chính sách khuyến khích thành
phần kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạng đầu tư vào nền kinh
tế, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng xuất khẩu.
Đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Nhà nước cần phải có chính sách
khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong
nước và tư bản nhà nước nước ngoài.
Muốn vậy ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vai trò điều
tiết, quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN và nhân tố quyết định vận động
thành công KTTBCN ở Việt Nam. Cần xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng,
nhất quán, phù hợp với tập quán quốc tế, đủ sức hẫp dẫn nhưng công bằng
nghiêm minh.
Cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hố ở
vùng nơng thơn và đặc biệt là vùng núi, đặc biệt phải chú ý tới việc xây dựng
các cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thơng hàng hố với các vùng phát triển trong
nước.
2.
Đẩy mạnh q trình phân cơng lại lao động xã hội ở nước ta
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hố, của phát triển
KTTT. Vì vậy, q trình phát triển KTTT ở nước ta địi hỏi phải đẩy mạnh phân
công lại lao động xã hội. Muốn khai thác mọi nguồn lực cần phải phát triển
nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo
17
việc làm cho người lao động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng
chun mơn hố sản xuất, hợp tác hố, lao động cơng nghiệp và dịch vụ tăng
tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối giữa lao động và tài
nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái. Cùng với mở rộng phân công
lao động trong nước tiếp tục mở rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
3.
Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
Là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển KTTT. Thị trường là sản
phẩm tất yếu của sản xuất và lưu thơng hàng hố. Sản xuất và lưu thơng hàng
hoá phát triển thị trường càng mở rộng và quyết định thị trường, song thị trường
cũng tác động trở lại, thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hố. Để mở rộng thị
trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cần tôn trọng quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường thống nhất và thông suốt cả nước;
phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu mà
tăng quy mơ, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu
dùng để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu.
Ngồi ra phải đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tăng năng
suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm giá cả hàng hoá, tăng
thu nhập, tăng sức mua, làm cho dung lượng thị trường nhất là thị trường nơng
thơn tăng lên.
Hình thành và phát triển thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán.
Để các thị trường này phát triển cần triệt để xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên
tắc tự do hoá giá cả, tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng cao loại thị trường, thực
hiện giao lưu hàng hố thơng suốt cả nước, lành mạnh hố thị trường, khắc phục
tình trạng kinh tế ngầm, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vi phạm thị trường.
4.
Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh
tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm
18
tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới
của cách mạng khoa học - công nghệ vào sản xuất và lưu thơng, đảm bảo cho
hàng hố đủ sức cạnh tranh trên thị trường tiếnhành cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá để tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển.
5.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng
vai trị - quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục
đổi mới các cơng cụ, chính sách vĩ mơ, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng
lưu thơng tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh
tế xã hội. Việc đổi mới này vừa phải theo quy tắc phù hợp với những phương
thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển theo định hướng mà Đảng đã chọn.
6.
Giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới
chính sách tài chính tiền tệ giá cả
Đây là những nhân tố quan trọng để phát tiển KTTT, để các nhà sản xuất
kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Nhà nước cần hạn chế can thiệp
trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt
các chức năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để
doanh nghiệp phát triển. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là
công cụ rất quan trọng để quản lý nền KTTT nhiều thành phần tạo hành lang
pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong
và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có thể làm
giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
7.
Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi
Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất
tăng trưởng kinh tế với cơng bằng và tiến bộ xã hội. Con người bao giờ cũng là
lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quả, vừa là điều
19
kiện để sản xuất phát triển. Mỗi cơ chế quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh
doanh tương ứng. Chúng ta cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế, kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong
thời kỳ mới. Cần sử dụng bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ cán bộ nhằm
nâng cao nghiệp vụ của họ. Cơ cấu đội ngũ cán bộ cần chú trọng đảm bảo cán
bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô.
8.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, phải đa dạng hoá hình thức, đa
phương hố đối tác, phải qn triệt ngun tắc đơi bên cùng có lợi, khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau và phân không biệt chế độ chính trị - xã hội
phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế nhằm
khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất nước, tăng xuất
khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải
pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Việc
đó khơng nhằm ngồi mục tiêu giải phóng sức sản xuất, động viên tới mức cao
nhất mọi nguồn lực bên trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, trên cơ sở đó mà nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh
tế xã hội nhằm mục tiêu tối thượng là cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thực hiện
mục tiêu đó chính là giữ vững định hướng XHCN trong công cuộc đổi mới nền
kinh tế nước nhà.
20
Kết luận
Mơ hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở việt nam đã và đang
đem lại những thành tựu đáng kể: cải thiện đời sống nhân dân, từng bước tạo
điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. sự khắc phục này dần khắc phục được những
khuyết tật của kinh tế thị trường, tăng cường ảnh hưởng tích cực địng thời đảm
bảo được hiệu quả kinh tế và cơng bằng xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã
xuất hiện nhiều khó khăn, phức tạp và tác động đến mặt xã hội nói chung. Để
hạn chế những tác động tiêu cực này ta cần định hướng cho nề kinh tế về phát
triển, buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn là CNXH. Chính vì
vậy chính sách phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự định
hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lí của quy luật phát triển, nó thể
hiện tư tưởng tiến bộ, sáng suốt của Đảng. đó cũng chính là vai trị của lí luận
Mác- Lenin về kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và sự vận dụng nó ở
việt nam.
Như vậy, một lần nữa khẳng định được rằng các lí luận của chủ nghĩa MácLênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng nó nào nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN ở Việt Nam thực sự có vai trị quan trọng, cần được tuân thủ
và áp dụng một cách linh hoạt vào thị trường Việt Nam, đảm bảo cho nền kinh tế
nước ta đạt được những thành cơng mong đợi, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết này của nhóm 6 sẽ khó tránh đựơc
những sai sót. Kính mong được cô chỉ bảo để bài viết thêm phần sâu sắc. Em xin
chân thành cảm ơn
21