HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH
***
BÀI TIỂU LUẬN
MƠN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ QUAN ĐIỂM CƠ
BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAY.
Giảng viên
Lớp
Sinh viên
: PGS.TS Bùi Thị Kim Hậu
: Báo in
: Lê Thị Hương
MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................1
A. PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................3
Chương 1.................................................................................................................3
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG...................................................................................4
1.1. Quan niệm................................................................................................4
1.2. Đặc điểm..................................................................................................4
1.3. Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay.....................................................5
Chương 2.................................................................................................................6
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG ...................................................................6
Chương 3...............................................................................................................16
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC.........................................16
C. PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................0
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta
đã nhận đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tơn giáo có
những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tơn giáo đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng
một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới
và nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội,
hồn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy
nhiên, đạo đức tơn giáo cũng cịn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến
hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn đề đặt
ra là, cần nhận điện đúng vai trị của đạo đức tơn giáo nhằm phát huy những giá
trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chê những tác động tiêu cực của nó đối với việc
hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Theo thống kê, hiện nay trên cả nước có 13 tôn giáo với 36 tổ chức tôn giáo
và 1 pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận, với gần 24 triệu tín đồ chiếm khoảng 27% dân số cả nước, có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc, 46
cơ sở đào tạo chức sắc tơn giáo, 25 nghìn cơ sở thờ tự (trong đó Phật giáo có
khoảng 11 triệu tín đồ, Cơng giáo gần 7 triệu tín đồ, Cao đài khoảng 2,4 triệu tín
đồ, Tin lành hơn 1 triệu tín đồ,…).
Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những chuyển biến căn bản trong
đời sống kinh tế - xã hội, sự đổi mới trong tư duy lý luận, trong nhận thức về tôn
giáo cũng đã và đang diễn ra.
Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu “Ảnh hưởng của tôn giáo
đến đời sống xã hội Việt Nam”.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1 Quan niệm
Theo định nghĩa của giáo hội (thần học) thì tơn giáo là mối liên hệ của con
người với Thượng đế, với Thần linh, với cái tuyệt đối, với một lực lượng nào đó,
với sự siêu việt hóa,… Nhà thần học và triết học Tin Lành giáo, R. Otto (18691937) cho rằng tôn giáo là “sự thể nghiệm cái thần thánh”.
Theo định nghĩa sinh học và tâm lý học về tôn giáo tìm kiếm cơ sở của tơn
giáo trong các q trình sinh học hay tâm sinh học của con người hoặc tách tôn
giáo ra từ tâm lý cá nhân hay tâm lý nhóm. Một trong những người sáng lập ra
tâm lý học tôn giáo là nhà triết học theo chủ nghĩa thực dụng người Mỹ, V.
Jemes (1842-1910) giải thích tơn giáo nhờ xuất phát từ tâm lý cá thể: “Chúng ta
thỏa thuận gọi tơn giáo là tổng thể những tình cảm, hành vi và kinh nghiệm của
cá nhân riêng biệt vì nội dung của chúng quy định quan hệ với cái mà tôn giáo
tôn sùng - Thượng đế”.
Quan niệm của C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) cho rằng
tôn giáo là rất đa dạng, được phân biệt tùy thuộc vào các nguyên tắc và các
phương pháp xuất phát điểm. Hai ông đã nêu đặc trưng tôn giáo dựa trên quan
niệm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và con người. Các ơng cho rằng tơn
giáo khơng có lịch sử riêng của mình, khơng có bản chất đặc biệt và nội dung
đặc biệt nằm ngồi thế giới. Tơn giáo phát triển trong bối cảnh lịch sử xã hội; sự
tiến hóa của tôn giáo diễn ra tùy thuộc vào sự phát triển của sản xuất xã hội, của
hệ thống quan hệ xã hội. Trong tôn giáo, con người biến thế giới kinh nghiệm
của mình thành một bản chất tưởng tượng, đứng đối lập với nó như một vật xa
lạ.
C. Mác viết: “…tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người
chưa tìm được bản thân mình hoặc đã để mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng
con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngồi thế giới.
Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã
hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược”.
Ph. Ăngghen viết: “…tất cả tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Như vậy, có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về tơn giáo. Dưới góc độ
khoa học, mỗi nhà nghiên cứu đều có cách nhìn nhận vấn đề tơn giáo theo
hướng nghiên cứu của mình. Mỗi khái niệm về tôn giáo đều chưa làm cho các
nhà nghiên cứu hay chính những chức sắc, tín đồ tơn giáo vừa lịng. Bởi tơn giáo
là lĩnh vực tinh thần có nhiều cách hiểu, cách lý giải khác nhau theo quan điểm
3
chủ quan của mỗi người. Trên quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về tơn
giáo, có thể nói rằng, tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo
ra nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần của con người trong xã hội, tôn giáo tạo
cho con người có niềm tin vào thế giới vơ hình nơi hư vô, nhưng con người vẫn
sống trong cuộc sống hữu hình nơi trần thế, đồng thời tơn giáo quy định những
luật lệ, nghi thức mang tính thiêng liêng để con người thực hành, tuân theo.
1.2 Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo. Hiện nay, ở nước ta có
sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức là: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hồ Hảo với khoảng 20 triệu tín đồ.
Ngồi ra cịn hàng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngướng dân gian, truyền
thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Tín ngướng, tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo.
Nhiều tín đồ tơn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập đạo
phần nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn giáo ở
phần lớn tín đồ khơng thật sâu sắc.
Hai là, các tơn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hồ đồng, khơng
có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo. Các tín ngưỡng truyền thống và tàn
dư tơn giáo ngun thuỷ in dấu ấn khá sâu đậm vào đời sống tinh thần của người
Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử, đó là cái nền tâm linh để dễ dàng đón
nhận sự du nhập của các tôn giáo khác. Sự khoan dung, lòng độ lượng,
nhân ái của dân tộc Việt Nam, cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để
bảo vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn
giáo khác nhau một cách tự nhiên, miễn là nó khơng trái với lợi ích dân tộc –
quốc gia và truyền thống văn hố, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các tôn giáo
thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng đồng tơn
giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong một làng, xã cũng có
các nhóm tín đồ của các tơn giáo khác nhau sống đan xen, hoà hợp nhau, hoặc
xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
Ba là, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều du nhập
từ bên ngồi, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt Nam.
Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự nhiên qua
giao lưu kinh tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp đặt song hành
với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
4
Cơng giáo, Tin lành… Q trình giao du, gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm
nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tơn giáo đều có sự biến đổi
phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Bốn là, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tơn giáo với tín ngưỡng truyền
thống và tình cảm, phong tục tập qn và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ cúng tổ tiên,
đã dung hợp với các tơn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm tình cảm, tâm hồn, tính
cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tơn giáo với tín
ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh
thần người Việt Nam, làm cho một bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất
dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý thức tơn giáo mới.
1.3 Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ và tác động
chính trị – xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáo đã góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn thanh niên
có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều tín đồ và
giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của Nhà nước, làm tốt cả “việc
đạo” và “việc đời”. Tình hình kinh tế, an ninh chính trị và trật tự xã hội ở nhiều
vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ
phận đồng bào có tín ngưỡng tơn giáo cịn băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và
phần đời.
Những năm gần đây, sinh hoạt tơn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình chùa,
miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài liệu, đào tạo
các chức sắc… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Những hoạt
động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu sắc khác nhau, cũng
xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh
nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ khi đổi mới và dân chủ hố
tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện, đáp ứng nguyện vọng của một bộ
phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lên điều khơng bình thường vì trong đó
khơng chỉ có sự sinh hoạt tơn giáo thuần t, mà cịn biểu hiện lợi dụng tín
ngưỡng tơn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
CHƯƠNG 2
5
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG
Q TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TƠN GIÁO HIỆN NAY
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng Cộng sản Việt
Nam (CSVN) đã từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác
tôn giáo. Bước ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề
tơn giáo được đánh dấu bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, ngày
16/10/1990 về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới.
Về nhận thức lí luận, Nghị quyết 24 nêu lên “3 luận đề” cơ bản về vấn đề tơn
giáo, tín ngưỡng: Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; hai là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và ba là, đạo đức tơn
giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Để có được
những tư tưởng đổi mới có tính “đột phá” nêu trên, Đảng CSVN tìm tịi, trăn trở
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề tơn giáo vào tình hình tơn giáo ở Việt Nam. Trong q trình đổi mới, tư
duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo tiếp tục được bổ sung, hoàn
thiện, nhất là Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7
(khóa IX), ngày 12/3/2003. Điều đó được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau
đây:
Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đây
là khâu đột phá đầu tiên trong nhận thức tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn
đề tơn giáo. Quan điểm này đã đi vào vấn đề có tính “bản thể luận” của tơn giáo
vì đã nêu lên và trả lời cho câu hỏi: Tơn giáo là gì? Trước đây, tơn giáo thường
được tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị với hai định nghĩa
mang tính kinh điển: “tơn giáo là hình thái ý thức xã hội” và “tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân”. Đây là hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan
điểm mới của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo. Bởi vì, tơn giáo khơng chỉ là triết
học (một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới quan, nhân sinh
quan), khơng chỉ là vấn đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi dụng), mà
tơn giáo cịn là lịch sử (phản ánh tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức
(giải thích về thế giới và con người), là văn hóa (góp phần hình thành nên những
nền văn minh và nếp sống văn hóa của lồi người), là đạo đức (góp phần điều
chỉnh hành vi của con người hướng tới những giá trị chân, thiện, mĩ), là lối sống
(góp phần hình thành lối sống của những người có đạo) và tơn giáo là một thực
thể xã hội (có lực lượng tín đồ hùng hậu, có tổ chức giáo hội, tơn giáo chân
chính góp phần vào củng cố cộng đồng và sự ổn định xã hội), v.v...
6
Như vậy, với quan điểm nhìn nhận mới, Đảng CSVN khơng chỉ bó hẹp tơn giáo
trong khn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà đa diện hơn, đúng với sự
tồn tại và phản ánh của nó. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, thể
hiện tầm sâu trong tư duy nhận thức lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tơn giáo.
Điều đó đã khẳng định rõ thái độ của những người CSVN về sự tôn trọng nhu
cầu đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần
chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của
đồng bào các tơn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống
tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo vệ các quyền
lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân quyền,dân
chủ, v.v...
Hai là, từ việc khẳng định tơn giáo cịn “tồn tại lâu dài” đến xác định rõ tơn giáo,
tín ngưỡng “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta”. Nếu như luận đề thứ nhất của Nghị quyết 24 đi vào vấn đề có
tính “bản thể luận” của tơn giáo, thì luận đề thứ hai này lại đề cập tới “nguồn
gốc và sự tồn tại” của tơn giáo. Trước đây, khi giải thích về sự ra đời, tồn tại và
phát triển của tôn giáo, chúng ta thường chỉ nhấn mạnh đến hai nguồn gốc: tự
nhiên và xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, do trình độ hiểu biết của con người cịn
hạn chế, khơng giải thích được thế giới tự nhiên, bất lực, sợ hãi trước thiên
nhiên nên con người gán cho những hiện tượng tự nhiên là thần thánh, như
Lênin đã chỉ rõ: sự sợ hãi đẻ ra thần thánh. Về nguồn gốc xã hội, khi xã hội hình
thành đối kháng giai cấp và có sự áp bức bóc lột, thì “Sự bất lực của giai cấp bị
bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lịng tin vào cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã
man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma
quỷ, vào những phép màu”, tức là người ta tìm đến với tơn giáo để được che chở
và cứu vớt. Với quan điểm nhìn nhận mới, nguồn gốc tự nhiên và xã hội của tôn
giáo vẫn đúng, nhưng chưa đủ.
Do đó, chừng nào con người chưa khắc phục được cái bi kịch lớn nhất của cuộc
đời về cái chết thì tơn giáo vẫn cịn cơ sở để tồn tại. Đó là chưa kể trong cuộc
sống thường ngày, dù xã hội có phát triển cao đến mấy, con người cũng khó có
thể tránh khỏi hết những rủi ro, bất trắc,… cơ sở cho tôn giáo tồn tại và phát
triển. Hơn nữa, con người đến với tơn giáo cịn là sự biểu lộ niềm kính trọng,
lịng biết ơn cơng sinh thành đối với ông bà tổ tiên, những người đã khuất, biết
ơn những người có cơng với làng, với nước, v.v…Như vậy, với quan điểm nhìn
nhận mới, Đảng CSVN cho rằng tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, khơng thể đơn giản
7
cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều khi con người có thể khám phá,
chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật chất được nâng cao, tức là đã giải
quyết được nguồn gốc tự nhiên. Luận điểm này đã cụ thể hóa quan điểm “tồn tại
lâu dài” của tôn giáo do Nghị quyết 24 nêu ra, nhưng phát triển rõ hơn trong mối
quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận
thức, quan điểm này tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề
tôn giáo sẽ tồn tại đến khi nào? Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan,
duy ý trí, nóng vội cho rằng tơn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ sở
kinh tế-xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lí, nhận thức cho sự tồn tại của nó khơng
cịn nữa. Nghĩa là khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tơn giáo “khơng cịn gì
để phản ánh nữa”, như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tơn giáo sẽ mất đi.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với thế giới tự nhiên cịn nhiều điều chưa
thể đạt đến sự hợp lí, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều tội phạm, sự
phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, mơi trường sinh thái bị hủy hoại,
v.v… vẫn cịn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn tại và phát triển trên những
phạm vi nhất định.
Tôn giáo trong quá trình tồn tại và phát triển ln bộc lộ hai mặt: tích cực và
tiêu cực. Trước đây do yêu cầu của cách mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ
đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch thường lợi
dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên chúng ta thường nhấn mạnh đến mặt
tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru ngủ con người. Nhưng
quan điểm đổi mới của Đảng, bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, cần trân
trọng và phát huy những giá trị tích cực của tơn giáo, trong đó có mặt tích cực
về đạo đức gắn với chủ nghĩa nhân văn. Tơn giáo có chức năng điều chỉnh hành
vi xã hội của con người, hướng con người đến cái chân, thiện, mĩ. Tín đồ các tơn
giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết, lo sợ bị
trừng phạt hoặc bị “quả báo” nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên đã có hành vi
đạo đức hướng thiện.
Giáo lí, giáo luật và những lời răn dạy của tôn giáo đã tạo ra những quy phạm
đạo đức hướng con người làm các việc thiện lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức
để được giải thoát (theo quan niệm của Phật giáo), được lên Thiên Đàng (theo
quan niệm của Kitô giáo, Islam giáo). Các tơn giáo khơng chỉ “thiêng hóa” các
quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ
8
hướng về cái thiện, bài trừ cái ác. Như vậy, đạo đức tơn giáo góp phần điều
chỉnh hành vi xã hội của con người. Không dừng lại ở việc thừa nhận tính “phù
hợp” của đạo đức tơn giáo với cơng cuộc xây dựng xã hội mới, trong quá trình
đổi mới, tư duy lí luận của Đảng càng phát triển sâu sắc hơn khi khẳng định tôn
giáo là một thành tố của văn hóa. Thực ra, quan điểm tơn giáo là một bộ phận
của văn hóa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ đầu những năm 40
của thế kỉ XX. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa” .
Tuy nhiên, do phải tập trung cho nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc nên
những ý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có điều kiện để thực hiện. Khi bước
vào thời kì đổi mới, tư tưởng của Người về tơn giáo nói chung, phát huy các giá
trị văn hóa, đạo đức của tơn giáo nói riêng, đã được Đảng CSVN phát triển và
làm rõ hơn. Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị (2/7/1998) chỉ rõ: “Những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc (16/7/1998), dành
quan điểm thứ 8 về “Chính sách văn hóa đối với tơn giáo”, khẳng định: “Khuyến
khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện… trong tôn giáo”.
Tôn giáo, tín ngưỡng khơng đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh,
tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống. Trên tinh thần ấy, Đảng
CSVN coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa, có những giá trị mà cơng cuộc
xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Điều ấy thể hiện một cách sâu sắc quan
điểm thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Tôn
giáo bên cạnh những hạn chế cũng chứa đựng nhiều yếu tố hợp lí bởi tính nhân
bản, nhân văn, tính hướng thiện của nó, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới, góp
phần bổ sung hồn thiện cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, mọi tơn giáo chân chính đều răn dạy tín đồ hướng
tới cái chân, thiện, mĩ. Đó chính là điểm tương đồng, gặp gỡ với cơng cuộc đổi
mới vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh”.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với chủ trương, đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta, các tơn giáo đã và sẽ có sự điều chỉnh để thích ứng
9
với xã hội mới. Đồng bào các tôn giáo ngày càng tham gia tích cực hơn vào
phong trào thi đua yêu nước xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Quan điểm
nêu trên của Đảng đã góp phần khơi dậy, động viên được những giá trị tốt đẹp,
phát huy tính tích cực, điểm tương đồng của tơn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát
huy tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh
chống lại những luận điệu xuyên tạc, âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực
thù địch chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là điểm tương đồng, là mạch
kết nối, nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân văn của
chủ nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đồn kết dân tộc
trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
Tín ngưỡng hay khơng tín ngưỡng là quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân.
Đấu tranh cho sự phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân là lí tưởng
thiêng liêng chung cho mọi người, là mục tiêu mà công cuộc xây dựng xã hội
mới của chúng ta đang hướng tới, đồng thời cũng chính là ước vọng mà các tơn
giáo theo đuổi. Đó chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tơn giáo với
tồn thể nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích Ca
và Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới
đại đồng”. Cịn “Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và
tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như
thế, những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm”.
Trong mỗi tơn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lí, có giá trị nhân văn
sâu sắc, như đức “từ bi” của Phật giáo, lòng “nhân nghĩa” của đạo Cao Đài và
Phật giáo Hòa Hảo, tư tưởng “bác ái” của đạo Kitô, truyền thống uống nước nhớ
nguồn, lịng tự hào, tự tơn dân tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, là mẫu số
chung điểm tương đồng giữa văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tơn giáo với văn
hóa dân tộc. Đó cũng chính là chân giá trị mà nhân loại cũng như dân tộc ta luôn
hướng tới. Hồ Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những giá trị đạo đức của
các tôn giáo lớn. Người viết: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca
dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. Đại đa số đồng
bào tơn giáo ở nước ta đều có tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc trong
quá trình chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước, tham gia vào xây dựng và
giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ nghĩa yêu nước, dân tộc và quốc gia có chủ
quyền.
10
Để phát huy được những điểm tương đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một cách biện
chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nước với lợi ích cụ thể của đồng
bào có tín ngưỡng, tơn giáo trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, trong đó có nhu cầu về đời sống tơn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy
phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội và thực hiện phương châm, đường hướng hành đạo gắn bó
với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy những điểm tương
đồng, hướng về mục tiêu chung của cơng cuộc đổi mới đất nước có tác dụng huy
động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, giúp đồng bào các tôn giáo đấu tranh chống các thế lực lợi
dụng tín ngưỡng, tơn giáo gây mất đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo.
Đảng CSVN khẳng định, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách
rời trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trước khi trở thành tín đồ của một tơn
giáo, họ là cơng dân của nước Việt Nam, cùng chung lo tới vận mệnh của dân
tộc. Trên cơ sở thừa nhận tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đồn kết
tồn dân tộc, Đảng CSVN cịn khẳng định thực hiện nhất qn chính sách tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền được sinh hoạt tơn giáo bình
thường theo đúng pháp luật của đồng bào có đạo và sự bình đẳng giữa các tơn
giáo. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo trước hết là tạo điều kiện, đảm
bảo cho quần chúng có đạo được tham gia sinh hoạt tơn giáo bình thường theo
đúng pháp luật.
Mặt khác, phải chăm lo đến lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng đặc thù
này. Nghĩa là phải chủ động giải quyết một cách kịp thời những nhu cầu sinh
hoạt tín ngưỡng chính đáng của đồng bào có đạo đúng với pháp luật. Trong đó,
quan trọng nhất là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Bốn
là, việc khẳng định “giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân” là một
luận điểm mang ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lí luận và thực tiễn. Quan điểm này
hồn tồn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề
tín ngưỡng, tơn giáo. Lần đầu tiên nội hàm của tín ngưỡng được Đảng CSVN đề
cập tới một cách chính thức trong văn kiện của mình.
Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh
những người có cơng với làng, với nước của nhân dân Việt Nam. Trong tâm thức
11
của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có cơng với dân, với nước
khơng đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà cao hơn đó cịn là một đạo
lí “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đó là một truyền thống lâu đời đã ăn sâu
trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa, tinh thần của mỗi người dân Việt
Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật thể đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện
lịng tự tơn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy, các tơn giáo ngoại nhập, kể cả những
tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp thu
loại hình tín ngưỡng truyền thống này.
Mặt khác, việc phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên
cịn là nhân tố để khắc phục sự hẫng hụt, thiếu vắng trong đời sống tâm linh, văn
hóa, tinh thần vốn là khoảng trống để các hiện tượng tôn giáo mới phát triển.
Đồn kết đồng bào các tơn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc và
nhân dân, đồng thời phải nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lí do
tín ngưỡng, tơn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là những quan điểm mang tính
biện chứng sâu sắc trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo, giữa xây dựng khối đoàn
kết toàn dân với việc chống sự phân biệt, đối xử, chống âm mưu chia rẽ dân tộc,
kích động gây rối; giữa giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với đấu
tranh loại trừ các tệ nạn mê tín hủ tục nhằm bảo đảm cho mơi trường sinh hoạt
tín ngưỡng, tơn giáo lành mạnh.
Quan điểm của ĐCSVN về công tác tôn giáo: Từ những quan điểm nhận thức
mới về vấn đề tôn giáo, Nghị quyết 24 nêu lên “3 quan điểm” mới về công tác
tôn giáo: Một là, vừa quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại
cách mạng.
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
và ba là, công tác tơn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị.
Các quan điểm mới đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện qua các Đại hội, hội
nghị, chỉ thị tiếp theo của Đảng, nhất là Nghị quyết số 25 ra ngày 12/3/2003 về
công tác tôn giáo. Một là, cơng tác tơn giáo vừa phải quan tâm hợp lí nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn
giáo để phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng CSVN nhấn mạnh đến
2 nội dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tơn
12
giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù
địch. Trên cơ sở xác định tơn giáo là tình cảm, nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, Đảng CSVN chủ trương thực hiện nhất qn chính sách tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân.
Mọi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, khắc phục nhận
thức thiển cận đối với tơn giáo và thái độ hẹp hịi, thành kiến, phân biệt đối xử
với đồng bào có đạo. Tín đồ các tôn giáo được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia
đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, có kinh sách để tu học, có chức sắc
hướng dẫn việc đạo. Đặc biệt, Nghị quyết 24 đã mở ra việc giải quyết, công
nhận về mặt tổ chức các tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện: có đường hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, có tơn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật
pháp, chuẩn bị tốt về mặt nhân sự,… Sau khi đã được công nhận, tổ chức tôn
giáo được thực hiện đầy đủ theo Hiến chương, Điều lệ (hoặc giáo luật), như tổ
chức đại hội, hội nghị, đào tạo, phong chức, bổ nhiệm chức sắc, xuất bản kinh
sách, sản xuất đồ dùng việc đạo, xây sửa cơ sở thờ tự, quan hệ đối ngoại, v.v…
Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng để ứng xử cụ thể đối với từng tôn
giáo, một mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp chăm lo đời sống sinh
hoạt của tín đồ, mặt khác đưa sinh hoạt tơn giáo vào khn khổ quản lí nhà
nước, góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tơn giáo.
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, cần đấu
tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự
nghiệp cách mạng.
Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta, các thế
lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tơn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị
của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn
giáo để chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, trong khi tơn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng CSVN chủ trương phải
cảnh giác đấu tranh với những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù
địch. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải
quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo chính đáng của quần
chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn lợi dụng
tôn giáo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ tự giác đấu tranh
chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn
giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi dụng để
13
quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư duy lí luận sâu sắc
của Đảng CSVN về cơng tác quần chúng nói chung, cơng tác tơn giáo nói riêng.
Khi nói nội dung cốt lõi của cơng tác tơn giáo là công tác vận động quần chúng,
Đảng CSVN muốn nhấn mạnh đến bản chất và vai trò quyết định của công tác
vận động quần chúng trong công tác tôn giáo. Suy cho cùng, cơng tác vận động
quần chúng tín đồ là cơng tác đối với con người, đó là những con người cơng
dân tín đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm giống, nhưng cũng
có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ, giữa con người cơng
dân với con người tín đồ ln quyện chặt vào nhau, bổ sung cho nhau không thể
tách rời và luôn hướng tới “tốt đời, đẹp đạo”.
Trong họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người cơng dân có quyền
lợi, nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo,
với giáo hội của mình. Bởi vậy, cơng tác vận động quần chúng tín đồ khơng đơn
thuần chỉ là cơng tác tun truyền giáo dục mà cịn là cơng tác tập hợp tín đồ các
tơn giáo trong các đồn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công tác đối
với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sĩ trí thức trong các tơn giáo. Cơng tác
vận động quần chúng cịn là “tăng cường cơng tác giáo dục, y tế, văn hóa, khoa
học, kĩ thuật, nâng cao dân trí, nhất là ở những vùng đơng đồng bào có đạo”, tức
là phải chăm lo việc ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục, y tế, hưởng thụ văn hóa, v.v…
để nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho quần chúng. Về khía cạnh
tơn giáo, cơng tác vận động quần chúng tín đồ phải thực hiện tốt chính sách tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, chứ không phải là tuyên
truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng để “giải phóng” quần
chúng khỏi “đám mây mù” tôn giáo; cũng không phải tốn thời gian vào các cuộc
tranh luận vơ bổ có hay khơng có Đấng tối cao, có hay khơng có Thiên Đường
mà là vận động quần chúng tín đồ các tơn giáo xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc ngay trên thế gian này. Nói tóm lại, cơng tác vận động quần chúng có đạo
là làm cho đồng bào được “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Làm được
điều đó cũng chính là đã tạo điều kiện để đồng bào có đạo tích cực tham gia xây
dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần cùng tồn dân thực hiện thắng lợi
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh”.
Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét đặc thù với sự
tinh tế trong nhiều mối quan hệ, khơng chỉ là giải quyết chính sách đối với tín
đồ, ứng xử với chức sắc và tổ chức giáo hội mà cịn là cơng tác đấu tranh chống
địch lợi dụng tơn giáo, liên quan đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và
14
Nhà nước. Do vậy, Đảng CSVN xác định lực lượng làm cơng tác tơn giáo trong
thời kì mới là tồn bộ hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ
quốc, các đồn thể chính trị,… Tồn bộ hệ thống chính trị tham gia làm cơng tác
tơn giáo, nhưng mỗi ngành tùy theo chức năng có những nhiệm vụ cụ thể. Đảng
giữ vai trị lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác tơn giáo thơng qua chủ trương, đường lối
mang tính định hướng đối với tơn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ
thể. Đồng thời, thông qua mặt trận và các đồn thể thực hiện cơng tác vận động
quần chúng, xây dựng lực lượng cốt cán trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính
quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy
phạm pháp luật về tơn giáo; thực hiện quản lí các hoạt động tôn giáo, đưa các
hoạt động tôn giáo tuân thủ các quy định của pháp luật. Mặt khác, các cấp chính
quyền cịn phải chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ các tơn
giáo bằng các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống
các hoạt động lợi dụng tơn giáo nhằm làm lành mạnh hóa các sinh hoạt tơn giáo,
tín ngưỡng. Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể tun truyền, vận động quần
chúng, tín đồ các tơn giáo theo từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đồn thể
chính trị - xã hội và các đồn thể nghề nghiệp khác.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt quan trọng
phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta ngày càng được
mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhưng đồng
thời cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp trong đời sống sinh hoạt tôn giáo cần
được chấn chỉnh. Cùng với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tơn giáo của
tín đồ và các tổ chức tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân
chưa được nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc
lợi dụng hoạt động tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
trục lợi cá nhân hay ép buộc người khác theo đạo. Vì vậy, bất cứ một quốc gia
nào với những hình thức khác nhau đều có các chính sách hay pháp luật để quản
lí các hoạt động tôn giáo, nhất là hoạt động truyền giáo nhằm giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của mình. Tóm lại, cùng với
cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống xã hội, Đảng và
Nhà nước ta cũng từng bước xây dựng hồn thiện chính sách đổi mới về cơng
tác tơn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Qua đó, nhận
thức duy lí luận và khả năng tổng kết thực tiễn về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo
của Đảng CSVN ngày càng phát triển. Đó là điều kiện quan trọng có tính quyết
định đến sự thành cơng của cơng tác tơn giáo, góp phần vào sự ổn định và phát
triển của đất nước trong thời gian vừa qua./
15
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƠN GIÁO VIỆT NAM
Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra chính
sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề khó khăn,
phức tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng và Nhà nước
phải dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
căn cứ vào những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra các chủ trương,
chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo. Xác định rõ vai trị của tơn
giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn
tại lâu dài, đồng thời tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Những vấn
đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và
nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để khắc phục những yếu tố tiêu cực
của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng
tuyên truyền, vận động giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp
luận khoa học cho quần chúng nhân dân và các tín đồ. Nội dung cốt lõi của công
tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Đồng bào có đạo hay khơng có
đạo đều là cơng dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước
pháp luật.
Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong những năm qua, về cơ
bản các chính sách tơn giáo ngày càng được cụ thể hoá, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nguyện vọng của chức sắc và tín đồ. Nhờ chính sách phát triển kinh tế phù
hợp đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của chức sắc, tín đồ được nâng
lên, hoạt động của các tôn giáo sôi nổi hơn trước; việc xây mới, sửa chũa cơ sở
thờ tự đã được nhà nước quan tâm. Chúng ta đã củng cố khối đồn kết những
người có tín ngưỡng, tơn giáo với nhau. Chức sắc, tín đồ ngày càng tin tưởng
vào chính sách của Đảng, vào công cuộc đổi mới ở nước ta. Đồng thời chúng ta
đã ngăn chặn, phá vỡ được những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tơn
giáo vì mục đích kinh tế, chính trị…
Trong khi thấy rõ ưu điểm, thành tựu như vậy, chúng ta cũng thấy một số hạn
chế, đó là: Các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng tôn giáo để thục hiện âm
mưu “DBHB” đối với nước ta. Chính sách tơn giáo của ta vẫn còn chung chung,
chậm được cụ thể hố, một số cán bộ đảng viên cịn hạn chế trong việc nhận
thức, đánh giá thấp tầm quan trọng của công tác tôn giáo. Việc giải quyết vấn đề
tô giáo ở nơi này hay nơi khác còn nhiều bất cập và đã tác động tiêu cực đến
việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Một bộ phận khơng nhỏ
chức sắc, tín đồ các tơn giáo có biểu hiện suy thối đạo đức, lợi dụng tơn giáo để
16
tuyên truyền mê tín dị đoan, kiếm tiền bất chính. Nhiều vụ việc nổi cộm liên
quan đến tín ngưỡng, tơn giáo cịn xảy ra, và có những lúc chúng ta vẫn bị động
hoặc xử lý vụ việc liên quan đến tơn giáo thiếu tế nhị - làm mất lịng tin của
chức sắc, tín đồ, là kẻ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Từ những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tơn giáo trong thời gian qua, cho nên,
việc nắm vững những quan điểm chỉ đạo cũa Đảng, chính sách của nhà nước
trên lĩnh vực tơn giáo nhằm phát huy tính tích cực và tự giác của tồn dân, trong
đó có đồng bào theo đạo vào q trình đổi mới là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp bách ở nước ta hiện nay. Vì vậy Đảng ta đã xác định: tín ngưỡng,
tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta thực
hiện nhất qn chính sách đại đồn kết tồn dân tộc. Nội dung cốt lõi của cơng
tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. công tác tơn giáo là trách nhiệm
của hệ thống chính trị và việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn
giáo khác đều phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Với nhận thức như vậy, theo
tôi để làm tốt cơng tác vận động quần chúng nhân dân nói chung và các tín đồ
tơn giáo nói riêng, chúng ta cần lưu ý và thực hiện tốt một số nội dung sau:
1- đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về cơng tác tơn giáo trong các tín đồ tơn giáo để họ hiểu, thực hiện đúng
quan điểm của chúng ta đối với tơn giáo.
2- để cơng tác vận động quần chúng có kết quả, địi hỏi cán bộ làm cơng tác vận
động phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng; được trang bị đầy đủ kiến
thức về tơn giáo; có kỷ năng, gọi đúng chức sắc và biết tôn trọng họ, gần gủi họ
nhưng phải giữ vị thế của mình; phải tụt đối tơn trọng những sinh hoạt tín
ngưỡng, tơn giáo trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Đồng thời cần kiên trì
thuyết phục, tránh những hành vi thơ bạo và không được gợi lại những gam màu
tối, đặc biệt không được tranh luận (đấu tranh) những lĩnh vực nhạy cảm…
thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất lẫn tinh thần cho họ.
3- để tránh bị các thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo, chúng ta cần chú trọng vận
động quần chúng nêu cao cảnh giác trước những âm mưu “DBHB” của các thế
lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần phân biệt rõ tín đồ tơn giáo với người lợi dụng tơn
giáo, phân biệt rõ phần tử phản động lợi dụng tôn giáo với những chức sắc, nhà
tu hành và quần chúng tốt để tuyên truyền, vận động. Khi giải quyết vấn đề tơn
giáo phải thật sự khéo léo, có chứng cứ rõ ràng, có sức thuyết phục, khơng nóng
vội, chủ quan. Chính vì vậy, các chức sắc, tín đồ có những vi phạm pháp luật rõ
17
ràng và bị xử lý theo pháp luật nhưng tín đồ các tơn giáo đã đồng tình với cách
xử lý của Nhà nước ta, như vụ Nguyễn Văn Lý, Thích Trí Tựu tại Huế.
Thứ tư, thường xuyên quán triệt các quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tơn
giáo của Đảng, nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người làm
công tác vận động quần chúng nhằm nâng cao nhận thức về công tác tôn giáo.
Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức cơng tác
vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có
nhu cầu ln gắn bó với sinh hoạt tơn giáo và tổ chức tôn giáo.
Thứ năm, củng cố, kiện tồn bộ máy tổ chức làm cơng tác tơn giáo của Đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đồn thể nhân dân; xây dựng qui chế phối hợp phát
huy sức mạnh và hiệu quả cơng tác của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn
giáo vùng dân tộc thiểu số phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết phong
tục tập quán, tiếng nói của dân tộc nơi mình cơng tác.
Những giải pháp nêu trên, theo tơi, đó là những giải pháp cơ bản trong cơng tác
vận động quần chúng tín đồ và chức sắc các tơn giáo, nó góp phần cùng với hệ
thống các giải pháp trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị, văn hố, quốc phịng, an
ninh để từng bước xây dựng một xã hội mới ngày càng tự do, ấm no, hạnh phúc
hơn, góp phần hạn chế những tiêu cực của các tôn giáo./.
C. PHẦN KẾT LUẬN
18
Như trên đã phân tích, đạo đức tơn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã
hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tụt đối hóa đạo
đức tơn giáo, thổi phồng vai trị của nó. Ph.Ăngghen từng khẳng định rằng, ngay
cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới
của chúng ta về mặt hình thức mà thơi. Vì vậy, mặc dù tơn giáo "là sự phản
kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực" nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một
sự phản kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người mà thơi.
Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trị của đạo đức tơn giáo
để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra
những ảnh hưởng tiêu che của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng
ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức
tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc
và hữu ích trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới.
Tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra chính
sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề khó khăn,
phức tạp, phải hết sức thận trọng.
.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng “Địa lý nhân văn”, TS. Nguyễn Tưởng, ĐHSP Huế.
19
2. Giáo trình nhập mơn Địa lý nhân văn dành cho hệ đào tạo Thạc sĩ chuyên
ngành ĐLKT-GDDS, PGS.TS Lê Thông, Hà Nội, 1996
3. Bài giảng Lý luận khoa học về tín ngưỡng và tơn giáo, TS Nguyễn Đức Lữ
chủ biên, Học viện chính trị quốc gia, 2001.
4. Thuật ngữ địa lý dùng trong nhà trường, Nguyễn Minh Tuệ, NXB Giáo dục
Việt Nam.
5. Nguồn tài liệu từ các trang web trên internet:
Bách khoa wikipedia www.wikipedia.vn
Ban tơn giáo chính phủ />Tơn giáo và dân tộc />
20