Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề và gợi ý dạng văn nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.45 KB, 23 trang )

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ
Có 2 kiểu đề:
- Kiểu đề đưa ra một nhận định: một câu nói, danh ngôn, châm ngôn, tục ngữ, ca dao…
- Kiểu đề yêu cầu luận về 1 phẩm chất, tính cách, trạng thái tâm lí… của con người.
Dàn ý: (cần viết hàm súc trong khoảng 600 từ)
1. MB: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: cần đảm bảo 2 điều
- Dẫn dắt vấn đề.
- Giới thiệu được luận đề.
2. TB:
a. Giải thích khái niệm (nếu có): Là gì?
b. Lí giải vấn đề: Tại sao?
c. Biểu hiện: Vấn đề đó được thể hiện ntn trong cuộc sống hằng ngày (chứng minh)?
d. Đánh giá, luận bàn vấn đề (đề mở, thể hiện rõ bản lĩnh của người viết, quan niệm của người viết đối với vấn
đề đó là đúng hay sai, có thể lật ngược vấn đề hay không…).
3. KB:
- Rút ra bài học về nhận thức và hành động.
ĐỀ 1: Trong thư gởi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A. Lin-côn (1809 – 1865) viết: “xin
thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi.” (Theo Ngữ văn 10, Tập 2,
NXBGD, 2006, tr.135). Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ
của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống. (Đề thi ĐH khối C năm 2009)
Gợi ý:
1. Giải thích ý kiến: (0.5đ)
- Về nội dung trực tiếp, lời của A. Lin-côn muốn khẳng định: chấp nhận thi rớt một cách trung thực còn vinh dự
hơn thi đỗ nhờ gian dối.
- Về thực chất, ý kiến này đề cập đến đức tính trung thực của con người.
2. Bàn luận về trung thực trong khi thi và trong cuộc sống: (2.0đ)
- Trong khi thi (1.0đ)
+ Trung thực là phải làm bài bằng thực lực và chỉ chấp nhận đỗ đạt bằng thực chất của mình. Còn gian lận là
làm mọi cách để đỗ bằng được, không cần thực chất.
+ Người trung thực phải là người biết rõ: Trung thực trong khi thi dù bị rớt vẫn vinh dự hơn đỗ đạt nhờ gian lận.
Đối với tư cách của một thí sinh, trung thực trong khi thi là điều quan trọng hơn cả.


- Trong cuộc sống (1.0đ)
+ Trung thực là coi trọng thực chất, luôn thành thật với mình, với người, không chấp nhận gian dối trong bất kì
mối quan hệ nào, công việc nào. Trung thực là một phẩm chất cao đẹp làm nên nhân cách con người và là đức
tính cần thiết cho cuộc sống, góp phần tích cực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sống trung thực là một niềm hạnh phúc
cao quý.
+ Thiếu trung thực là làm những điều gian dối, khuất tất. Thiếu trung thực không chỉ biến con người thành đê
tiện mà còn khiến cuộc sống lâm vào tình trạng thực giả bất phân, ngay gian lẫn lộn. Sống trung thực không
phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng không trung thực sẽ là một người thiếu nhân cách và có thể gây ra nhiều nguy
hại cho xã hội.
3. Bài học nhận thức và hành động: (0.5đ)
- Bản thân cần nhận thức sâu sắc trung thực là một giá trị làm nên nhân cách của mình; ngay cả khi đối diện với
thất bại, thua thiệt vẫn cần sống cho trung thực.
- Đồng thời cần không ngừng tu dưỡng để có được phẩm chất trung thực, mà hành động cụ thể lúc này là trung
thực trong khi thi; cần khẳng định và bảo vệ sự trung thực, kiên quyết đấu tranh với mọi hoạt động thiếu trung
thực đang tồn tại khá phổ biến trong xã hội.
ĐỀ 2: Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể ăn mòn cả một xã hội. Từ ý kiến
trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn bàn về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong
cuộc sống hiện nay. (Đề thi ĐH khối C năm 2010)
Gợi ý:
1. Giải thích: (0.5đ)
1
- Về nội dung, ý kiến này đề cập đến mối nguy hại ngấm ngầm rất cần cảnh giác của thói vô trách nhiệm; nó
xuất phát từ mỗi cá nhân nhưng lại gây hậu quả to lớn đối với toàn xã hội.
- Về thực chất, ý kiến này là một sự cảnh báo về vấn nạn đạo đức mang tính thời sự: thói vô trách nhiệm và hậu
quả khôn lương của nó.
2. Luận bàn về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người: (2.0đ)
- Tinh thần trách nhiệm (1.0đ)
+ Tinh thần trách nhiệm là ý thức và nỗ lực nhằm hoàn thành tốt những phận sự của mình. Nó biểu hiện cụ thể,
sống động trong ba mối quan hệ cơ bản: giữa cá nhân với gia đình, cá nhân với toàn xã hội và cá nhân với bản
thân mình.

+ Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cao đẹp, một thước đo giá trị con người; là cơ sở để xây dựng hạnh
phúc của mỗi gia đình; đồng thời tinh thần trách nhiệm cũng góp phần quan trọng tạo nên quan hệ xã hội tốt
đẹp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Thói vô trách nhiệm (1.0đ)
+ Thói vô trách nhiệm là một biểu hiện của lối sống phi đạo đức, thể hiện ở ý thức và hành động không làm tròn
phận sự của mình đối với xã hội, gia đình và bản thân, gây nên những hậu quả tiêu cực. Hiện nay, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, lối sống ấy đang khá phổ biến, trở thành một vấn nạn trong xã hội.
+ Tác hại của thói vô trách nhiệm: làm băng hoại đạo đức con người; gây tổn hại hạnh phúc gia đình; gây tổn
thất cho cộng đồng, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội.
3. Bài học nhận thức và hành động: (0.5đ)
- Bản thân cần nhận thức sâu sắc tinh thần trách nhiệm là thước đo phẩm giá con người; không ngừng nâng cao
ý thức trách nhiệm của mình trong mọi lĩnh vực đời sống.
- Cần ý thức rõ tác hại và có thái độ kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của thói vô trách nhiệm trong xã
hội.
ĐỀ 3: Viết bài văn nghị luận bà về ý kiến: Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan
trọng hơn. (Đề thi ĐH khối C năm 2011)
Gợi ý:
1. GT:
- Biết tự hào về bản thân là thái độ hãnh diện về cái tốt đẹp mà mình có, về những đóng góp của mình cho cuộc
sống; biết xấu hổ là cảm thấy hổ thẹn về sự kém cỏi và những lỗi lầm của mình trước người khác.
- Nội dung ý kiến: Đề cao việc nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản thân, hướng đến sự hoàn thiện mình.
2. Luận bàn ý kiến:
- Khẳng định sự cần thiết của việc biết tự hào: biết tự khẳng định mình, giúp bản thân tự tin hơn trong cuộc
sống và trong công việc, có thêm động lực để vươn tới những ước mơ lớn hơn.
- Phê phán thái độ tự cao, tự đại (tự đánh giá mình quá cao, quá lớn vì thế mà trở nên hợm hĩnh).
- Khẳng định sự cần thiết của việc biết xấu hổ: giúp con người có ý thức điều chỉnh hành vi của mình phù hợp
với những chuẩn mực đạo đức; biết xấu hổ còn quan trọng hơn biết tự hào bởi nó là biểu hiện của ý thức hoàn
toàn tự giác, xuất phát từ lương tâm, giúp con người nâng cao năng lực và hoàn thiện nhân cách.
- Phê phán thái độ tự ti, mặc cảm (tự đánh giá thấp bản thân nên thiếu tự tin).
3. Bài học nhận thức và hành động:

- Nhận thức sâu sắc về những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân.
- Nghiêm khắc đối với chính mình; không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức nhân cách.
ĐỀ 4: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn
lập nên thành tựu. (Đề thi ĐH khối C năm 2012)
Gợi ý:
1. GT:
- Kẻ cơ hội là người lợi dụng thời cơ để mưu cầu lợi ích trước mắt, bất kể việc làm đúng hay sai; người chân
chính là người luôn biết sống đúng với thực chất và phù hợp với những giá trị xã hội; thành tích là những kết
quả được đánh giá tốt; thành tựu là những thành quả có ý nghĩa lớn, đạt được sau một quá trình phấn đấu bền bỉ.
- Về nội dung, ý kiến này chỉ ra sự đối lập về lối sống và cách hành xử trong công việc giữa loại người cơ hội
và người chân chính.
2. Bàn luận:
- Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích:
2
+ Do thói vụ lợi, bất chấp đúng sai nên trong công việc, kẻ cơ hội không cầu “kết quả tốt” mà chỉ cầu “được
đánh giá tốt”. Kẻ càng vụ lợi thì càng nôn nóng có được thành tích. Bởi thế, loại người này thường chỉ tạo ra
thành tích giả.
+ Về thực chất, cách hành xử ấy là lối sống giả dối, là thói ăn gian làm dối khiến cho thật giả bất phân, làm
băng hoại các giá trị trong xã hội; đó chính là sự suy đồi về đạo đức; lối sống cơ hội này đã khiến bệnh thành
tích lan tràn như hiện nay.
- Người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu:
+ Coi trọng chất lượng thật, kết quả thật là đức tính của người chân chính. Bởi thế họ thường kiên nhẫn trong
mọi công việc để làm nên những kết quả thực sự, những thành quả có ý nghĩa lớn. Đối với họ, chỉ có những
thành quả thực mới tạo nên giá trị thực của con người, dù có khi phải trả giá đắt.
+ Về thực chất, cách hành xử ấy thuộc về lối sống chân thực, trung thực, biểu hiện của những phẩm chất cao
quý; giúp tạo nên những thành quả thực, những giá trị đích thực cho mình và cộng đồng, góp phần thúc đẩy xã
hội tiến lên.
3. Bài học nhận thức và hành động:
- Cần nhận thức rõ đây là hai kiểu người đối lập nhau về nhân cách: một loại người tiêu cực thấp hèn cần phê
phán, một mẫu người tích cực cao cả cần trân trọng.

- Cần noi theo lối sống của những người chân chính, luôn coi trọng những kết quả thật và kiên nhẫn phấn đấu
để lập nên những thành tựu; đồng thời lên án lối sống cơ hội, nôn nóng chạy theo thành tích giả.
ĐỀ 5: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh
mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa. (Đề thi ĐH khối D năm 2009)
Gợi ý:
1. GT:
- Về nội dung trực tiếp, câu trích này nói về hậu quả của việc đánh mất niềm tin vào bản thân.
- Về thực chất, ý kiến này đề cập đến vai trò quyết định của lòng tự tin.
2. Bàn luận:
- Người có lòng tự tin luôn khẳng định năng lực và phẩm chất của mình, coi đó là nguồn sức mạnh chân chính,
có ý nghĩa quyết định, giúp con người vững vàng, lạc quan và thành công trong cuộc sống. Do đó tự tin là đức
tính quý báu.
- Khi mất tự tin:
+ Con người không còn tin vào phẩm chất và năng lực của bản thân nên sẽ đánh mất những điều kiện cơ bản và
cần thiết giúp đạt đến những giá trị quý báu: nghị lực và ý chí, hi vọng và lạc quan…
+ Con người không còn khả năng đương đầu với những khó khăn, thử thách, nên dễ dang buông xuôi, bỏ mất
những cơ hội tốt trong cuộc sống.
3. Bài học:
- Trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, đặc biệt những khi gặp khó khăn, thử thách, cần nêu cao bản lĩnh, không
đánh mất niềm tin vào bản thân.
- Luôn sống tự tin nhưng tránh chủ quan. Phải cảnh giác với việc tự tin mù quáng. Phải tỉnh táo để biết lắng
nghe; biết học hỏi, hợp tác; biết tu dưỡng phẩm chất và trau dồi năng lực của bản thân vì đó là cơ sở của lòng tự
tin.
ĐỀ 6: Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng. Từ ý kiến trên, anh/chị hãy
trình bày suy nghĩ của mình về sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và cuộc sống. (Đề thi ĐH khối D
năm 2010)
Gợi ý:
1. GT:
- Đạo đức giả là cách ứng xử giả tạo, dùng vỏ đạo đức bề ngoài nhằm che đậy bản chất vô đạo đức bên trong.
- Về thực chất, đạo đức giả là lối sống giả dối, vì thế nó nguy hại như một căn bệnh chết người nhưng khó nhận

biết.
2. Bàn luận:
- Những biểu hiện của bệnh đạo đức giả:
+ Dùng những lời nói hay ho, đẹp đẽ bề ngoài để che đậy ý nghĩ đen tối và tình cảm thấp hèn bên trong.
+ Dùng những hành động có vẻ tích cực để ngụy trang cho những động cơ xấu xa, đê tiện.
- Tác hại của bệnh đạo đức giả:
3
+ Đối với mỗi người: Vì sống giả dối nên tự đánh mất dần nhân cách, đánh mất niềm tin, sự quý trọng của mọi
người dành cho mình.
+ Đối với xã hội: Làm lẫn lộn những giá trị đạo đức, khiến cho thật giả bất phân; làm suy đồi phong hóa xã hội
và gây nhiều hậu quả khôn lường khác.
3. Bài học:
- Thấy rõ sự cần thiết phải tích cực trau dồi nhân cách, bồi đắp những giá trị đạo đức, sống chân thành, trung
thực.
- Kiên quyết lên án, vạch trần và ngăn chặn thói đạo đức giả.
ĐỀ 7: Suy nghĩ về ý kiến: Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích. (Đề thi
ĐH khối D năm 2011)
Gợi ý:
1. GT:
- Người nổi tiếng được khâm phục, được nhiều người biết đến về tài năng và sự thành công ở một lĩnh vực nào
đó; người có ích là người đem lại lợi ích, giá trị tốt đẹp cho xã hội bằng những việc làm cụ thể của mình.
- Về thực chất, ý kiến này khẳng định giá trị đích thực của mỗi cá nhân thông qua những đóng góp của họ đối
với gia đình và xã hội.
2. Bàn luận: Ý kiến nêu trong đề cần được lật đi lật lại, xem xét từ nhiều phía, thấy được mối quan hệ giữa hai
mệnh đề (đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng và trước hết hãy là người có ích), để luận bàn (theo hướng
khẳng định hay bác bỏ) cho thỏa đáng, thuyết phục. Dưới đây là một số ý cơ bản:
- Khát vọng trở thành người nổi tiếng là chính đáng nhưng không phải ai cũng có năng lực, tố chất và điều kiện
để đạt được.
- Nếu cố gắng bằng mọi cách chỉ để nổi tiếng, con người dễ trở nên mù quáng, ảo tưởng về bản thân, thậm chí
gây tác hại cho xã hội.

- Mỗi cá nhân, bằng những suy nghĩ, việc làm bình thường, hoàn toàn có thể khẳng định được giá trị của bản
thân, đóng góp cho cộng đồng, trở thành người có ích mà vẫn có cơ hội nổi tiếng; tuy nhiên, “có ích” là điều
kiện để “nổi tiếng”, vì thế trước khi thành người nổi tiếng thì hãy là người có ích.
- Những người chỉ bằng lòng, an phận với những gì mình đã có, thiếu ý chí và khát vọng thì cuộc sống sẽ mất
dần ý nghĩa và sẽ không còn hi vọng trở thành người nổi tiếng.
3. Bài học:
- Cần xác định rõ mục đích sống, ý thức được điều quan trọng trong cuộc đời là sự khẳng định giá trị của bản
thân bằng những đóng góp tích cực cho xã hội.
- Không ngừng nuôi dưỡng khát vọng vươn lên trong cuộc sống.
ĐỀ 8: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng
là một thảm họa. (Đề thi ĐH khối D năm 2012)
Gợi ý:
1. GT:
- Thần tượng là những hình mẫu lí tưởng hoặc có quyền năng đặc biệt, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với cá
nhân hay cộng đồng. Ngưỡng mộ thần tượng là sự tôn kính, mến phục nồng nhiệt dành cho thần tượng; mê
muội thần tượng là sự say mê, tôn sùng một cách mù quáng, thiếu tỉnh táo trước thần tượng.
- Về nội dung, ý kiến đề cập đến tính hai mặt của việc say mê thần tượng: nếu ngưỡng mộ đúng mức là tích cực
thì ngưỡng mộ quá mức là tiêu cực và có thể còn gây ra hậu quả khôn lường.
2. Bàn luận:
- Ngưỡng mộn thần tượng là một nét đẹp văn hóa:
+ Ngưỡng mộ thần tượng thể hiện nhu cầu văn hóa cao của con người: nhu cầu được sống trong những tình cảm
cao cả, nồng nhiệt; nhu cầu được hướng tới, vươn tới những tầm cao, những đỉnh cao sáng giá của đời sống.
+ Ngưỡng mộ thần tượng là một ứng xử văn hóa, biểu hiện ở các phương diện mến phục; hành động tôn vinh cổ
vũ; ngôn ngữ ca ngợi tán dương.
- Mê muội thần tượng là một thảm họa:
+ Mê muội thần tượng là trạng thái mù quáng trong nhận thức, thái quá trong tình cảm, không còn khả năng suy
xét, phân biệt đúng sai, lẫn lộn về giá trị; mê muội thần tượng còn dẫn đến hành động sai lầm quá khích, gây ra
những hậu quả tệ hại cho bản thân và xã hội.
4
+ Việc mù quáng chạy theo thần tượng hay khuếch trương thần tượng quá mức đều là biểu hiện của sự mê muội

thần tượng, đều là những thái độ và ứng xử thiếu lành mạnh, thậm chí thiếu văn hóa, có thể gây ra những hậu
quả khôn lường.
3. Bài học:
- Cần có nhận thức đúng đắn về việc ngưỡng mộ thần tượng và lường được những hậu quả của sự mê muội để
có thái độ và cách ứng xử phù hợp, làm cho tâm hồn phong phú hơn, nâng tầm văn hóa cho bản thân, từ đó
phấn đấu vươn tới những tầm cao của đời sống.
- Biết chế ngự những cảm xúc say mê thái quá trước thần tượng, không chạy theo thần tượng một cách mù
quáng; phê phán mọi biểu hiện mê muội thần tượng trong cuộc sống hằng ngày, trước hết là trong học đường.
ĐỀ 8: Suy nghĩ về câu nói: Một ngày so với một đời người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại là do
mỗi ngày tạo nên. (Đề thi CĐ khối C, D năm 2009)
Gợi ý:
1. GT:
- Câu nói so sánh sự đối lập giữa thời gian rất dài của đời người và thời gian rất ngắn của một ngày để nhấn
mạnh: giá trị cuộc sống của mỗi ngày là cơ sở để tạo nên chất lượng, ý nghĩa cuộc sống của một đời người.
- Thực chất, ý nghĩa câu nói: trong cuộc đời con người mỗi ngày là rất quan trọng, quý giá; đừng để lãng phí
thời gian.
2. Bàn luận:
- Thời gian là một điều kiện quan trọng để tạo nên cuộc sống của con người. Ai cũng ước được sống lâu để làm
việc, cống hiến, tận hưởng niềm hạnh phúc…
- Một ngày rất ngắn ngủi nhưng con người có thể làm được nhiều việc có ích cho bản thân, cho xã hội: học tập,
lao động; có những phát minh, công trình khoa học được tìm ra trong khoảng thời gian rất ngắn.
- Sự so sánh đối lập giữa một ngày và một đời người còn thể hiện ý nghĩa sâu sắc về mối quan hệ giữa việc nhỏ
và việc lớn; có rất nhiều việc nhỏ xem ra không đáng quan tâm, nhưng là cơ sở để tạo thành những sự việc lớn.
- Phê phán hiện tượng lười biếng trong công việc, hoạt động sống hằng ngày.
3. Bài học:
- Cuộc đời con người là hữu hạn nên phải biết quý trọng thời gian, đừng để thời gian trôi đi một cách lãng phí.
- Biết trân trọng những giá trị của việc làm, những niềm vui, hạnh phúc thường ngày trong cuộc sống.
ĐỀ 9: Bàn về mối quan hệ giữa tài và đức. (Đề thi CĐ khối C, D năm 2010)
Gợi ý:
1. GT:

- Tài là nói tới trình độ, năng lực và khả năng sáng tạo của con người.
- Đức là nói tới phẩm chất và nhân cách của con người.
2. Bàn luận:
- Tài và đức là hai mặt quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách của con người.
- Nếu chỉ chú trọng đến tài mà không quan tâm đến đức sẽ dễ dẫn đến sự lệch lạc trong suy nghĩ và hành động,
thiếu sự phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện bản thân; thậm chí quá coi trọng tài mà không chú ý đến đức sẽ dẫn
đến những suy nghĩ và hành động gây tác hại cho bản thân, cộng đồng và xã hội.
- Nếu chỉ lo phấn đấu, tu dưỡng đức mà không quan tâm đến việc nâng cao trình độ, năng lực và khả năng sáng
tạo của bản thân thì cũng không thể có nhiều đóng góp tốt cho cộng đồng và xã hội.
- Giải quyết tốt mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa tài và đức sẽ giúp con người phát triển toàn diện và có nhiều
đóng góp hữu ích cho xã hội.
3. Bài học: Phải biết trau dồi, rèn luyện bản thân cả về trình độ, năng lực và phẩm chất.
ĐỀ 10: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Khi thói ích kỉ trở thành lối sống của con người thì tinh thần hi sinh vì
cộng đồng, tình thương yêu đồng loại, sự sẻ chia với mọi người chỉ còn là những giá trị lạc lõng. (Đề thi CĐ
khối C, D năm 2011)
Gợi ý:
1. GT:
- Với người có lối sống ích kỉ thì những chuẩn mực đạo đức xã hội (tinh thần hi sinh, lòng nhân ái…) chỉ là
những giá trị xa lạ hoặc không có ý nghĩa gì.
- Thực chất, câu nói nhằm nêu lên những tác hại của lối sống ích kỉ và cảnh báo về một hiện tượng đời sống:
thói ích kỉ đang trở thành lối sống của khá nhiều người trong xã hội.
5
2. Bàn luận:
- Ích kỉ là chỉ biết vì lợi ích của riêng mình. Người sống ích kỉ luôn nghĩ về bản thân, lấy lợi ích cá nhân làm
thước đo mọi giá trị, bất chấp quyền lợi của người khác.
- Khi thói ích kỉ trở thành lối sống của con người thì sẽ dẫn đến sự tha hóa về nhân cách. Khi lối sống ích kỉ trở
nên phổ biến trong đời sống thì những giá trị đạo đức truyền thống sẽ trở nên xa lạ, lạc lõng.
- Người có lối sống ích kỉ thường xem nhẹ trách nhiệm của mình đối với xã hội, thờ ơ trước niềm vui, nỗi buồn
của những người xung quanh; đồng thời, họ cũng không coi trọng tinh thần hi sinh vì cộng đồng, tình thương
yêu đồng loại, sự sẻ chia của người khác.

- Lối sống ích kỉ đang tồn tại trong một bộ phận của đời sống xã hội và đôi khi được che đậy bằng nhiều hình
thức bóng bẩy, giả tạo. Khi con người không dám đấu tranh với nó nghĩa là đang dung túng, tạo môi trường và
điều kiện cho lối sống đó lên ngôi.
3. Bài học:
- Cần lên án và đấu tranh chống lại lối sống ích kỉ.
- Phải biết sống vị tha, có tinh thần trách nhiệm, kết hợp hài hòa giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích cộng đồng.
ĐỀ 11: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Nghề nghiệp không làm nên sự cao quý cho con người mà chính con
người mới làm nên sự cao quý cho nghề nghiệp. (Đề thi CĐ khối C, D năm 2012)
Gợi ý:
1. GT:
- Nghề nghiệp là cách nói khái quát về ngành nghề, công việc của mỗi người trong xã hội; cao quý là có giá trị
lớn về mặt tinh thần, rất đáng trân trọng.
- Ý kiến nhằm khẳng định mọi ngành nghề trong xã hội đều quan trọng; giá trị cao quý của nghề nghiệp là do
con người tạo ra chứ không phải do bản thân nghề nghiệp đó.
2. BL:
- Nghề nghiệp không làm nên sự cao quý cho con người:
+ Bản thân nghề nghiệp không làm nên sự cao quý cho con người; sự cao quý ấy phải do bản thân con người
làm nên trong quá trình thực hiện nghề nghiệp của mình.
+ Trong xã hội, không có nghề tầm thường; bất cứ nghề nào mang lại lợi ích cho con người và cộng đồng đều
đáng được trân trọng, tôn vinh.
- Chính con người mới làm nên sự cao quý cho nghề nghiệp:
+ Thước đo giá trị nghề nghiệp là hiệu quả và phẩm chất đạo đức của người lao động trong công việc.
+ Sự cao quý của nghề nghiệp là do con người biết đem hết tài năng, sức lực và phẩm chất đạo đức của mình để
làm nên các giá trị vật chất hoặc tinh thần, giúp cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
- Phê phán một số quan niệm lệch lạc trong xã hội hiện nay khi cho rằng có nghề cao quý, có nghề tầm thường
và chạy theo những ngành nghề chỉ đem lại lợi ích trước mắt cho cá nhân.
3. Bài học:
- Cần phải biết chọn nghề phù hợp với năng lực và trình độ của bản thân.
- Cần nuôi dưỡng niềm đam mê, tình yêu nghề để có thể tận tâm và cống hiến được nhiều nhất cho xã hội.
ĐỀ 12: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác” - Auguste de

Comte.
Gợi ý:
1. GT:
- Sống có bổn phận là cốt sống cho người khác: nghĩa là một trong những trách nhiệm của mình là phải sống
cho người khác, người có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vị trí và bổn phận của mình chính là sống cho người
khác: người khác ở đây được hiểu là những người thân trong gia đình, anh chị em, bà con họ hàng thân thích,
những người xung quanh, những người ngoài xã hội.
- Hạnh phúc là sống cho người khác: sống cho người khác trước hết là bổn phận - mang tính trách nhiệm -
nhưng cao hơn bổn phận là hạnh phúc. Được sống cho người khác là niềm vui, niềm hạnh phúc của chính mình.
Đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác cũng chính là đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho chính
mình.
- Vậy “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác” có thể nói cách khác là: sống cho người khác chính
là bổn phận và hạnh phúc của chính mình.
2. Bàn luận:
6
- Đây là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn và tích cực, mang tinh thần nhân ái, nhân văn, nhân đạo cao cả.
- Trước hết, sống cho người khác là một bổn phận, là trách nhiệm mà ta cần thực hiện, vì có sống cho người
khác, hy sinh cho người khác, mang đến những điều tốt đẹp cho người khác, thì người khác cũng sẽ sống cho
mình, đem lai những điều tốt đẹp cho mình. Chúng ta thường nói: một người vì mọi người và mọi người vì một
người cũng chính là thực hiện tinh thần câu nói của Auguste de Comte.
- Sau đó, sống cho người khác là niềm vui, hạnh phúc của chính mình, điều này còn cao hơn cả bổn phận.
Trong cuộc sống, chúng ta được sống cho người mà mình yêu thương chính là điều hạnh phúc của con người.
Thật bất hạnh và đau khổ thay cho những ai không có người thương yêu để mà sống cho họ, sống vì họ,
3. Bài học:
- Đây là câu nói có ý nghĩa giáo dục rất tích cực đối với chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay. Cần phát huy
những tác động tốt ấy đến với mọi người xung quanh.
- Tuy vậy vẫn còn có nhiều người trong cuộc sống, lao động, học tập và công tác lại chỉ sống cho riêng mình.
Đó là lối sống ích kỉ cần phê phán, cần phải thay đổi.
ĐỀ 13: Trình bày suy nghĩ về câu nói: “Những điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước. Những điều chúng ta
không biết là cả một đại dương” (Newton).

Gợi ý:
1. GT:
- “Những điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước”: những hiểu biết của chúng ta về những gì nhân loại đã khám
phá, tìm hiểu về vũ trụ, tự nhiên, xã hội loài người cũng chỉ bằng một giọt nước trong đại dương bao la. Một
giọt nước là quá nhỏ bé so với cả đại dương mênh mông bao la. Vậy những điều mà chúng ta biết là vô cùng
hạn chế, ít ỏi so với những điều ta chưa biết.
“Những điều chúng ta không biết là cả một đại dương”: những gì mà chúng ta chưa biết, không biết về vũ trụ,
trái đất, tự nhiên và xã hội còn rất nhiều như là cả một đại dương mênh mông bao la. So với một giọt nước thì
đại dương là quá to lớn. Vậy những điều mà chúng ta chưa biết, không biết còn rất nhiều so với những gì mà
chúng ta đã biết.
- Sự đối lập giữa điều đã biết chỉ là 1 giọt nước còn những điều chưa biết là cả một đại dương bao la đã là một
động lực rất lớn để thôi thúc chúng ta khám phá, tìm hiểu về vũ trụ, tự nhiên và xã hội. Đây là một vấn đề lớn
mà chúng ta cần phải nhìn nhận thật rõ ràng và để có những hành động cụ thể như học tập, nghiên cứu, tìm hiểu
trong các ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội.
2. Bàn luận:
- Trong thực tiễn học tập, nghiên cứu và công tác, khi ta càng học tập, khám phá ra những điều mới mẻ trong
đại dương bao la kiến thức của nhân loại thì ta lại càng thấy những điều ấy còn quá nhỏ bé, ít ỏi và hạn chế.
- Tác động của câu nói đó với việc học tập của học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, giảng đường
đại học là rất tích cực, nó giúp cho mọi người nhìn nhận lại chính mình, về những hiểu biết của mình còn hạn
chế. Để từ đó có hành động cụ thể để luôn luôn nâng cao những hiểu biết của mình và những người khác.
3. Bài học:
- Cần có ý thức nâng cao kiến thức như câu nói của Lê-nin: “Học, học nữa, học mãi.”
- Cần có thái độ khiêm tốn, tránh tự mãn, tự kiêu về vốn kiến thức mà mình có được.
ĐỀ 14: Trình bày suy nghĩ về câu:“Học cho rộng. Hỏi cho thật kỹ. Suy nghĩ cho thật cẩn thận. Phân biệt cho
rõ ràng. Làm việc cho hết sức. Như thế mới thành người” (Sách Trung Dung).
Gợi ý:
1. GT:
- Học cho rộng: vì kiến thức là bao la như biển cả đại dương, cho nên đã học là phải tìm hiểu thật nhiều, biết
cho rộng thì mới đáp ứng được việc trở thành người hiểu biết rộng.
- Hỏi cho thật kỹ: khi học không những cần học cho rộng mà còn phải học cho sâu sắc những điều mình biết,

như thế mới là học, tránh cái gì cũng biết một cách hời hợt, chỉ biết cái bề ngoài mà không hiểu cho kỹ, cho sâu
sắc cái bên trong.
- Suy nghĩ cho thật cẩn thận: trên tinh thần học cho kỹ, cho sâu thì cần phải suy nghĩ cho thật kĩ, thật cẩn thận,
sâu sắc vấn đề mình học.
- Phân biệt cho rõ ràng: biết phân biệt rõ ràng giữa đúng – sai, tốt – xấu, thiện - ác, điều gì nên nói, điều gì
không cần nói, việc gì nên làm, việc gì không nên làm.
7
- Làm việc cho hết sức: khi ta đã học rộng, học kĩ, suy nghĩ cẩn thận, phân biệt rõ ràng thì cần phải làm việc cho
hết sức, cho toàn vẹn, cho chu đáo. Đem hết những hiểu biết của mình mà làm việc thì hiệu quả công việc sẽ
cao.
→ Nếu làm được như vậy thì “Như thế mới thành người”.
2. Bàn luận.
- Trong xã hội ngày nay vẫn còn nhiều người trong quá trình học tập và thực hành (học → hành) đã: học chưa
rộng, hỏi chưa thật kỹ, suy nghĩ chưa cẩn thận vì thế không phân biệt được rõ đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tốt,
đâu là xấu, cho nên khi làm việc, khi hành động sẽ không hết sức, không đạt hiệu quả mong muốn. Và vì thế
cũng chưa thành người (tức là người đã trưởng thành về nhân cách, năng lực).
- Tất nhiên, cũng đã có nhiều người trong xã hội xưa - nay đã làm được như vậy.
3. Bài học: Cần ý thức rõ tác động của lời dạy trên trong quá trình học tập, lao động, công tác
ĐỀ 15: Trình bày suy nghĩ về câu nói: “Trên bước đường thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”
(Lỗ Tấn).
Gợi ý:
1. GT:
Trên con đường đi đến thành công thì những kẻ lười biếng không thể đi được đến đích mà chỉ có những con
người luôn chăm chỉ học tập, lao động để vượt qua mọi khó khăn thử thách, những chông gai trên đường đi,
mới đạt được vinh quang. Nói cách khác, cái đích cuối cùng trên con đường đi của những kẻ lười biếng, không
chăm chỉ học tập, nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, lao động, chính là thất bại.
2. Bàn luận:
- Nếu học sinh, sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu lại lười biếng, ham chơi, không học tập một cách
nghiêm túc, chăm chỉ, vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần thì không thể có kết
quả tốt được. Ngược lại, nếu học sinh, sinh viên mà vượt qua được những khó khăn, thử thách, chăm chỉ lao

động, học tập, nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo thì chắc chắn sẽ đi đến được thành công.
- Nhiều người cho rằng mình thông minh, tài năng không cần học chăm chỉ mà chỉ cần học lướt qua, không rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo trong học tập. Đến khi vào công việc, bài học cụ thể thì không giải quyết được đúng quy
trình dẫn đến sai kết quả. Cần luôn biết rằng, để trở thành thiên tài thì chỉ có 1% là tài năng bẩm sinh, còn 99%
là sự lao động, mồ hôi và công sức đổ ra mới có được.
- Trong xã hội ngày nay, thế hệ trẻ có rất nhiều người đã thành công trong học tập, lao động, công tác trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là nhờ quá trình chăm chỉ học tập, lao động, nghiên cứu, Nhưng cũng có
không ít người vì quá ham chơi mà sa ngã vào các tệ nạn xã hội, nhiều người đã phải trả giá rất đắt cho sự lười
biếng, không chăm chỉ học tập, lao động, của mình.
3. Bài học:
- Cần có ý thức chăm chỉ, vượt khó vươn lên trong quá trình học tập, nghiên cứu, lao động.
- Cần có khát vọng vươn đến thành công.
ĐỀ 16: Trình bày suy nghĩ về câu thành ngữ: “Tôn sư trọng đạo”.
Gợi ý:
1. GT:
- “Tôn sư” là tôn trọng, kính trọng, đề cao vai trò của người thầy trong quá trình học tập và trong cuộc sống.
“Trọng đạo” là xem trọng những đạo lí tốt đẹp của con người đã được thầy truyền dạy.
- Nói cách khác, thành ngữ nhằm nhấn mạnh kẻ làm trò phải biết tôn trọng, lễ phép người thầy vì chính thầy đã
truyền dạy kiến thức và cả đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người.
2. Bàn luận:
- Đây chính là truyền thống tốt đẹp của đạo học Việt Nam. Truyền thống này có từ lâu đời khi có nhu cầu
truyền dạy và học tập của con người.
- Ngày nay có rất nhiều người học trò đang ngồi trên ghế nhà trường, được học nhiều bộ môn của các thầy cô
giảng dạy nhưng họ không ý thức được vấn đề cần phải tôn trọng, kính trọng, lễ phép với người thầy và coi
trọng đạo học mà thầy truyền giảng. Điều ấy có nghĩa là đạo lí truyền thống không được tôn trọng, học tập
Nhưng cũng có rất nhiều người học trò đã và đang hiểu và thực hành câu thành ngữ và cũng đang bước trên con
đường thành đạt trong cuộc sống, trong khoa học,…
3. Bài học:
- Cần biết tôn trọng, lễ phép đối với thầy.
8

- Có ý thức nhân rộng truyền thống tốt đẹp này của dân tộc.
ĐỀ 17: Trình bày suy nghĩ về vấn đề mà Thân Nhân Trung đã nêu trong “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm
Tuất, niên hiệu Bảo Đại thứ ba – 1442”: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Gợi ý:
1. GT:
- Hiền tài là những người tài cao học rộng, có đạo đức. Nguyên khí là khí chất làm nên sự sống ban đầu. Quốc
gia là đất nước, xét về mặt lãnh thổ, chủ quyền.
- Mối quan hệ giữa hiền tài và quốc gia: Hiền tài là khí chất làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội, đất
nước. Hiền tài dồi dào thì đất nước hưng thịnh, hiền tài cạn kiệt thì đất nước suy yếu. Cho nên, muốn nguyên
khí thịnh, đất nước phát triển thì phải chăm lo bồi dưỡng hiền tài → Nhấn mạnh vai trò của hiền tài trong xã
hội.
2. Bàn luận:
- Vai trò của người hiền tài tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, góp phần tạo nên sự cường thịnh của một
quốc gia, một dân tộc; nhìn ra quy luật vận động, vạch ra hướng đi tất yếu, tích cực để thúc đẩy xã hội đi lên;
qui tụ sức mạnh của hiền tài sẽ tạo nên nội lực vững chắc cho quốc gia. (Kể tên những người có thể coi là bậc
hiền tài của quốc gia như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh…).
- Hiện nay, đất nước đang chuyển mình vươn lên những tầm cao mới, đòi hỏi nhiều thực lực và nội lực. Vì vậy,
việc cần một nền giáo dục chất lượng cao, một chính sách sử dụng nhân tài hợp lí để họ có điều kiện phát huy
hết khả năng của mình, phục vụ đất nước hiệu quả là một vấn đề cấp bách và đúng đắn mà Đảng và Nhà nước
đang quan tâm (lấy dẫn chứng từ chính sách thu hút hiền tài, ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”). Đồng
thời, nó cũng đặt ra cho mỗi người, nhất là thế hệ trẻ, ý thức tự rèn luyện tài năng và đạo đức của bản thân để có
thể trở thành công dân có ích cho xã hội.
- Phê phán những người có tài mà không có đức, những người tài năng nhưng có lối sống cá nhân, ích kỉ, không
cống hiến, đóng góp sức mình cho cộng đồng, một bộ phận thanh niên hiện nay ăn chơi sa đọa, hủy hoại nhân
cách, làm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
3. Bài học: Cần nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí và trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất
nước, để luôn trau dồi, rèn luyện trở thành người “vừa hồng vừa chuyên” như lời Bác Hồ đã dạy.
ĐỀ 18: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Sai lầm lớn nhất mà bạn mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm”
(Elbert Hubhard)

Gợi ý:
1. GT:
- Sai lầm là hậu quả không hay do làm điều gì đó không theo quy luật của nó. Trong cuộc sống, sau mỗi lần thất
bại, ta nhìn lại và nhận ra mình đã sai lầm một bước nào đó, nhưng đó chỉ là sai lầm trong những hoàn cảnh cụ
thể. Còn luôn sợ sai lầm mới là sai lầm lớn nhất trong cuộc sống.
- Về thực chất, chúng ta nên đối diện với sai lầm của mình để làm lại từ đầu chứ không nên vội vàng đầu hàng,
buông xuôi, bất lực. Sợ sai lầm chính là căn nguyên sâu xa của mọi thất bại trong cuộc sống.
2. Bàn luận:
- Cuộc sống vốn nhiều khó khăn, thử thách nên ta không dễ dàng đạt được thành công ngay lập tức. Vì vậy, việc
vấp phải sai lầm là điều không ai muốn nhưng khó có thể tránh khỏi. Điều quan trọng là thái độ ứng xử của ta
trước mỗi lần vấp ngã.
- Trải qua những sai lầm, vấp ngã, con người sẽ trưởng thành hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu sợ sai lầm tức là ta đã
khước từ những bài học kinh nghiệm quý báu để làm giàu vốn sống cho bản thân.
- Sợ sai lầm cũng đồng nghĩa với việc tự ta đã đánh mất đi những cơ hội để hoàn thành công việc, để kiểm
nghiệm khả năng của bản thân và làm ta trở nên mạnh mẽ hơn. Thái độ sợ hãi sẽ biến bạn thành một con ốc chỉ
dám co mình lại trong cái vỏ chật hẹp của tư tưởng, trở thành kẻ hèn nhát và tụt hậu.
3. Bài học:
- Trang bị cho mình kiến thức, kĩ năng để có thể nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc, thấu đáo, tìm ra những
hướng đi đúng đắn và tự tin thực hiện nó.
- Mạnh dạn đối mặt với thử thách, chấp nhận sai lầm và thất bại để thay đổi chúng.
ĐỀ 19: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Mọi tiết kiệm suy cho cùng là tiết kiệm thời gian (C. Mác)
Gợi ý:
9
1. GT:
- Tiết kiệm là sử dụng một cách hợp lí, đúng mức và có hiệu quả của cải vật chất, thời gian, công sức của bản
thân. Đây là một trong những phẩm chất cơ bản của con người.
- Tiết kiệm thời gian nghĩa là sử dụng thời gian một cách hợp lí, hiệu quả. Xét đến cùng, mọi sự tiết kiệm đều
xuất phát từ sự tiết kiệm thời gian và nhằm để tiết kiệm thời gian.
2. Bàn luận:
- Thời gian là yếu tố chi phối đến tất cả các hoạt động sống của con người, không có thời gian thì không thể tồn

tại, không thể làm các công việc dù lớn dù nhỏ.
- Có thời gian là có tất cả. Thời gian qua đi không thể lấy lại được. Mỗi con người chỉ có một quỹ thời gian nhất
định để sống, học tập, lao động, vui chơi, vì vậy cần phải biết quý từng giây phút mà mình đang có.
- Nhờ tiết kiệm thời gian, con người sẽ tiết kiệm được sức lực và của cải.
- Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quá trình tiết kiệm thời gian. Khi con người không ngừng cải tiến, phát
minh các công cụ lao động, khoa học kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động, tức là đã mang đến cho con
người một thứ vô giá đó là thời gian.
- Tiết kiệm là biểu hiện của người văn minh, có hiểu biết. Tiết kiệm không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn có
ích cho xã hội.
- Làm thế nào để tiết kiệm được thời gian?: quý trọng thời gian mà mình đang có, sử dụng thời gian đó một
cách ý nghĩa, cần thiết và có ích cho mình, cho người thân và cho xã hội
- Phê phán những người không ý thức được giá trị của thời gian, dùng thời gian vào những công việc vô bổ, vô
ích.
3. Bài học:
- Có kế hoạch khoa học trong sắp xếp thời gian và sử dụng thời gian hiệu quả. Biết quý trọng thời gian sống của
đời người, nhất là những phút giây tuổi trẻ, để “không phải tiếc nuối vì những năm tháng sống hoài, sống phí”.
- Biến hành động tiết kiệm thời gian thành hành động mang tính phổ quát, một lối sống lành mạnh.
ĐỀ 20: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động (Xi-xê-rông)
Gợi ý:
1. GT:
- Đức hạnh là đạo đức, là phẩm chất, là những đức tính tốt đẹp của con người, có sẵn hay phải trải qua quá trình
rèn luyện mới có được. Hành động là những việc làm cụ thể, được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự
thể hiện của đức hạnh.
- Về thực chất, câu nói đó có ý nghĩa khẳng định cái làm nên giá trị của một con người là những việc làm có ý
thức cụ thể.
2. Bàn luận:
- Câu nói thể hiện một quan niệm đúng đắn về một trong những thước đo bản chất tốt đẹp của con người là
hành động. Bởi vì, suy nghĩ và nhận thức đúng đắn là biểu hiện bản chất, giá trị của con người ở dạng tiềm ẩn,
trừu tượng, khó nhận biết. Chỉ hành động mới biểu hiện rõ nhất, có sức thuyết phục hơn cả về giá trị, bản chất
con người. Những hành động tuy nhỏ nhưng xuất phát từ tâm hồn trong sáng, chân thành, hướng về cái đẹp, cái

thiện đều là sự thể hiện của đức hạnh.
- Phê phán những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì
thực chất, hành động của họ xuất phát từ lòng ích kỉ.
3. Bài học:
- Biết tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn, phẩm chất tốt đẹp.
- Có ý thức trong hành động, hướng đến những việc làm tốt, có ý nghĩa.
ĐỀ 21: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Sự thoả mãn nằm trong nỗ lực, chứ không phải nằm trong mục đích đạt
được. Nỗ lực càng nhiều, chiến thắng càng vẻ vang. (Mahatma Gandhi)
Gợi ý:
1. GT:
- “Sự thoả mãn nằm trong nỗ lực, chứ không phải nằm trong mục đích đạt được” có nghĩa là, trong cuộc sống,
con người đều muốn đạt được mục đích của mình. Nhưng sự thoả mãn lại không nằm trong kết quả đạt được mà
ở trong sự cố gắng, nỗ lực của chúng ta để có được kết quả đó. Nếu không có sự cố gắng, nỗ lực vượt qua mọi
khó khăn của công việc thì không thể có được thành quả.
10
- “Nỗ lực càng nhiều, chiến thắng càng vẻ vang” có nghĩa là khi gặp khó khăn, thử thách càng nhiều thì đòi hỏi
chúng ta càng phải nỗ lực phấn đấu vươn lên. Và ta vượt qua thử thách lớn bao nhiêu thì chiến thắng của ta lại
càng vẻ vang bấy nhiêu. Đương nhiên nếu không nỗ lực thì sẽ chẳng có sự chiến thắng vẻ vang nào hết.
2. Bàn luận:
- Cuộc sống là một quá trình chinh phục và khẳng định mình. Nếu đứng trước một khó khăn nào đó mà ta chùn
bước thì ta sẽ chẳng bao giờ đi đến đích. Còn nếu có ý thức kiên trì, phấn đấu vượt khó khăn và cố gắng chinh
phục những nấc thang cao hơn thì kết quả mà ta gặt hái được sẽ rất có giá trị. Lúc đó, ta sẽ cảm thấy thỏa mãn,
hạnh phúc khi nhìn lại chặng đường mà ta đã vượt qua bằng tất cả sự nỗ lực.
- Phê phán những kẻ luôn bi quan, chán nản, không có quyết tâm và lòng kiên trì để tạo cho mình một cuộc
sống có ý nghĩa hơn.
- Tuy nhiên, chỉ có những nỗ lực để hướng tới mục đích tốt đẹp thì mới đem lại hạnh phúc, sự thỏa mãn thật sự;
còn bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của bản thân thì chiến thắng đó sẽ không hề vẻ vang và cũng
không đem lại sự thỏa mãn.
3. Bài học:
- Có ý thức luôn nỗ lực vươn lên, vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống để hoàn thiện bản thân và đạt được

thành công.
- Có ý thức xây dựng cho mình những mục đích cao đẹp và tìm hướng đi đúng đắn để đạt được kết quả.
ĐỀ 22: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Thất bại đơn giản chỉ là cơ hội để bắt đầu lại mọi thứ một cách thông
minh hơn” (Henry Ford)
Gợi ý:
1. GT:
- Thất bại nghĩa là ta không đạt được mục đích đề ra. Cơ hội là điều may mắn, sự thuận lợi mà ta có được trong
một thời điểm nào đó.
- Về thực chất, thất bại không có nghĩa là mất tất cả, mà đó là cơ hội tốt để ta bắt đầu làm lại khi đã có kinh
nghiệm hơn, và sẽ không lặp lại sai lầm như trước nữa. Đó là sự khởi đầu thông minh.
2. Bàn luận:
- Cuộc sống vốn nhiều khó khăn, thử thách nên ta không dễ dàng đạt được thành công ngay lập tức. Vì vậy, việc
thất bại là điều không ai muốn nhưng khó có thể tránh khỏi. Điều quan trọng là thái độ ứng xử của ta trước mỗi
lần thất bại. Nếu ta bi quan, thất vọng, buông xuôi thì chắc chắn ta sẽ không bao giờ biết thế nào là thành công.
Còn nếu biết đứng lên từ thất bại, biến nó thành cơ hội tốt để ta sửa chữa, khắc phục những nguyên nhân khiến
ta sai lầm thì có nghĩa ta đã có sự bắt đầu lại thông minh nhất.
- Trải qua những thất bại, vấp ngã, con người sẽ trưởng thành hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu sợ thất bại tức là ta đã
khước từ những cơ hội để có được bài học kinh nghiệm quý báu.
- Đứng lên từ thất bại, ta đã thể hiện rõ hơn bản lĩnh của bản thân.
- Phê phán những người có tư tưởng tiêu cực, sợ thất bại.
3. Bài học:
- Trang bị cho mình kiến thức, kĩ năng để có thể nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc, thấu đáo, tìm ra những
hướng đi đúng đắn và tự tin thực hiện nó.
- Mạnh dạn đối mặt với thử thách, chấp nhận sai lầm và thất bại để thay đổi chúng.
ĐỀ 23: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới” (Gorki).
Gợi ý:
1. GT:
- Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người, kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Chân trởi mới là
những điều mới mẻ, những kiến thức sâu rộng khác mà ta chưa biết đến.
- Về thực chất, ý kiến nhằm nhấn mạnh vai trò to lớn, quan trọng của sách đối với con người.

2. Bàn luận:
- Sách giúp ta làm giàu trí tuệ và tâm hồn:
+ Sách cung cấp những hiểu biết về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước, miền đất xa xôi
trên thế giới.
+ Sách giúp ta hiểu biết về cuộc sống và con người qua các thời kì khác nhau, hiểu biết về đời sống văn hoá,
tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người ở những nơi xa xôi nhất mà chúng ta khó có điều kiện để đi tới đó.
11
+ Sách giúp con người tự khám phá dân tộc mình, bản thân mình và chắp cách những ước mơ, nuôi dưỡng
những khát khao của chúng ta.
- Cần có thái độ đúng đắn với sách và việc đọc sách:
+ Đọc sách mang lại nhiều lợi ích, ý nghĩa nên phải biết chọn sách mà đọc, biết học hỏi và làm theo những điều
tốt đẹp trong sách.
+ Sách rất quan trọng nhưng chỉ học trong sách vở thì vẫn chưa đủ mà phải biết học cả trong thực tế, lúc đó
thực tế là một cuốn sách vĩ đại nhất không có trang cuối.
3. Bài học: Tạo thói quen và đam mê đọc sách để nâng cao kiến thức và làm giàu tâm hồn. Cần trân trọng
những cuốn sách tốt, sách hay, bài trừ những cuốn sách xấu, sách dở.
ĐỀ 24: Tục ngữ Việt Nam có câu: "Không thầy đố mày làm nên" và lại có câu: "Học thầy không tày học bạn".
Anh (chị) hiểu và vận dụng hai câu tục ngữ ấy trong việc học của mình như thế nào?
Gợi ý:
1. GT:
- Câu "Không thầy đố mày làm nên": Bằng giọng như thách thức, câu tục ngữ khẳng định tác động, vai trò
không thể thiếu được của người thầy trong sự thành đạt của mỗi người.
- Câu "Học thầy không tày học bạn": Bằng kết cấu so sánh, "không tày" nối 2 vế câu "học thầy" và "học bạn",
câu tục ngữ này nhằm đề cao tác động của học bạn so với học thầy.
2. Bàn luận:
- Thầy là khái niệm dùng để chỉ người hướng dẫn, người chỉ bảo cho ta những tri thức, những hiểu biết về văn
hoá và nghề nghiệp và nhiều mặt khác trong đời sống. Không có người đầu tiên ấy, con người khó có thể đi đến
thành công.
- Đặt trong hoàn cảnh ra đời, ta thừa nhận ý của câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên" là có cơ sở:
+ Ngày xưa, việc học tập chưa phát triển, nhiều người cả đời chỉ học chữ với một người thầy và phương tiện

duy nhất để mở mang kiến thức là người thầy truyền cho học sinh.
+ Lối học xưa là lối học từ chương, nhồi nhét và con đường tiến thân duy nhất của người học là khoa cử. Người
học trò nói lại, viết lại những điều đã học thuộc lòng từ thầy giáo, từ quyển sách mà thầy dùng để dạy để đỗ
đạt và ra làm quan. Người chưa đỗ đạt, không ra làm quan coi như chưa thành đạt, chưa có sự nghiệp.

Câu nói này còn có ý: Nhắc nhở công lao to lớn của người thầy và sự thành đạt của mỗi người.
- Trong câu "Học thầy không tày học bạn", chữ học được dùng rất cô đọng, nhiều nghĩa, không chỉ giới hạn
trong việc học chữ. Học còn có nghĩa là bắt chước và làm theo. Về phương diện này, ảnh hưởng của bạn nhiều
hơn thầy vì bạn cùng tâm lý, lứa tuổi, lại có thời gian gần gũi nhiều hơn. Ngày xưa, trò và thầy ít có quan hệ
thân mật, gần gũi nên người học khó chịu ảnh hưởng của thầy hơn bạn.
- Như vậy, hai câu tục ngữ này không có gì mâu thuẫn nhau mà còn bổ sung ý nghĩa cho nhau.
3. Bài học:
- Thầy là người có tri thức sâu rộng, nhân cách mẫu mực vì thế những điều thầy truyền đạt phải cố gắng hết sức
tiếp thu vì nó sẽ góp phần lớn lao trong sự thành công của chúng ta trong cuộc sống.
- Bạn là người gần gũi dễ dàng cảm thông. Vì thế, phải biết tận dụng để học những mặt tốt của bạn; không nên
mặc cảm, sĩ diện. Và ngược lại, phải biết đề phòng, tránh giao du nhiều với bạn xấu vì như thế ta cũng chịu ảnh
hưởng thói xấu của bạn.
- Điều gì ta chưa tiếp thu đầy đủ ở thầy thì ta cần trao đổi với các bạn khác để hiểu kĩ càng hơn, bổ sung vào
những chỗ khiếm khuyết khi học với thầy.
ĐỀ 25: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Hạnh phúc của mỗi người có được khi người ấy mang lại niềm vui cho
người khác.
Gợi ý:
1. GT:
- Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu
tượng. Đó là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường
chịu tác động của lý trí.
- Về nội dung trực tiếp, câu nói có ý nghĩa khi ta mang lại niềm vui cho người khác là ta có hạnh phúc. Về thực
chất, câu nói là lời nhắn nhủ: Cần thiết mang lại niềm vui cho người khác, xem đó là hạnh phúc của chính mình.
2. Bàn luận:
12

- Quan niệm này phù hợp với lẽ sống và đạo lý ở đời, có ý nghĩa thức tỉnh lương tâm của con người: cần có
lòng nhân ái và đức hi sinh.
- Mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác có thể bằng nhiều hình thức: từ lời nói, cách đối xử hành
động ; từ những điều đơn giản, nhỏ nhặt đến điều lớn lao. Tuy nhiên, niềm vui đó phải thật sự có ý nghĩa, thực
sự đem lại hạnh phúc cho người khác chứ không phải là niềm vui giả tạo để tương lai họ phải chịu bất hạnh.
- Để niềm hạnh phúc được trọn vẹn nhất, ta vừa phải biết mang lại niềm vui cho người khác, vừa phải biết bảo
vệ hạnh phúc của chính mình trong khả năng có thể. Vì rằng, một khi ta mang lại niềm vui cho người khác mà
ta chịu nhiều thiệt thòi thì người được mang đến niềm vui cũng không thể nào thanh thản trong tâm hồn.
- Kiên quyết lên án, chống lại những kẻ xấu chỉ biết hưởng hạnh phúc trên nỗi đau của người khác.
3. Bài học:
- Cần ý thức đem lại niềm vui cho người khác là phương châm sống và thước đo phẩm chất của bản thân. Hiểu
rộng hơn là đừng mang đến cho người khác những điều mình không muốn mang đến cho mình.
- Phê phán những kẻ ích kỉ, hẹp hòi chỉ biết chăm lo cho hạnh phúc của bản thân.
ĐỀ 26: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát
lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống" (Noóc-man Ku-sin)
Gợi ý:
1. GT:
- Chết là chấm dứt sự sống, chấm dứt sự tồn tại hữu hình của con người. Chết là phải xa rời mãi mãi
những gì mình gắn bó, yêu thương; là chìm vào hư vô, quên lãng Vì thế, con người vẫn coi cái chết là mất mát
lớn nhất.
- Tâm hồn là nét đẹp bên trong, thể hiện phẩm chất và tính cách của mỗi cá nhân, là tiêu chuẩn đánh giá về một
con người.
- Tâm hồn tàn lụi là trạng thái sống vô cảm, không còn biết đau khổ, hạnh phúc hay khao khát điều gì; không
còn ước mong sáng tạo và niềm hy vọng ở tương lai Họ đã đánh mất cuộc đời ngay khi cái chết còn chưa tới.
- Như vậy, về thực chất, câu nói nhấn mạnh, đề cao cách sống có mục đích, lí tưởng, có cách ứng xử tốt đẹp.
2. Bàn luận:
- Chết không phải là mất mát lớn nhất vì ai cuối cùng cũng sẽ phải chết - đó là quy luật. Nhưng cái chết không
phải là dấu chấm hết, không phải là điều đáng sợ với tất cả mọi người. Có nhiều người đã xa khuất chúng ta cả
trăm năm, ngàn năm mà vẫn không chìm vào quên lãng. Trái lại, họ vẫn sống trong niềm ngưỡng mộ và biết ơn
của nhân dân, đất nước, gia đình, người thân.

- Sự tàn lụi của tâm hồn còn đáng sợ hơn cái chết vì trạng thái tàn lụi ấy giết chết con người ngay khi họ còn
đang sống. Có những con người vẫn đi lại, ăn uống, hít thở khí trời; vẫn làm việc nhưng tâm hồn trống rỗng:
không niềm vui, nỗi khổ; không có sự bất bình; không ước mơ, hi vọng Nhiều người có khả năng tạo lập cho
mình một cuộc sống thoải mái, đầy đủ tiện nghi nhưng chỉ biết đến mình. Họ thờ ơ, dửng dưng trước mọi sự
xung quanh. Và khi ra đi, họ chẳng để lại dấu ấn nào trong tâm hồn những người còn đang sống. Những con
người như thế đã đánh mất cuộc sống quý giá của mình ngay khi cái chết vẫn chưa chạm đến họ
- Phê phán lối sống tiêu cực của một bộ phận giới trẻ hiện nay: dửng dưng, vô càm trước cuộc sống, thiếu trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, chìm đắm trong những thú vui làm tha hóa con người
3. Bài học:
- Có ý thức làm giàu thế giới tâm hồn của mình, biết trân trọng những giá trị của cuộc sống.
- Cần tu dưỡng đạo đức, biết sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
ĐỀ 27: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Trang bị quý nhất của con người là khiêm tốn và giản dị (Ăng-ghen).
Gợi ý:
1. GT:
- Khiêm tốn là biết đánh giá cái hay của mình một cách vừa phải, có chừng mực và luôn đề cao tinh thần học
hỏi.
- Giản dị là cách sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội, nghĩa là không xa hoa,
lãng phí, không cầu kì, chuộng hình thức.
- Về thực chất, câu nói đó đã khẳng định ý nghĩa quan trọng của đức tính khiêm tốn và giản dị trong cách ứng
xử.
2. Bàn luận:
13
- Khiêm tốn và giản dị là những đức tính quý báu và cần thiết của con người có lối sống văn minh, tiến bộ.
Khiêm tốn giúp chúng ta tiến bộ, giản dị giúp chúng ta hòa nhập tự nhiên.
- Con người cần có sự khiêm tốn vì kiến thức là một biển mênh mông, bất tận và luôn đổi mới mà sự hiểu biết
của mỗi người thì có mức độ, hạn chế như giọt nước giữa đại dương.
- Biết khiêm tốn là đã tự nâng cao giá trị con người trong xã hội, ngày càng trưởng thành và sẽ thành công trong
nhiều lĩnh vực, nhất là trong giao tiếp vì tạo được sự thân thiện, cởi mở, được nhiều người giúp đỡ, hỗ trợ.
- Phê phán những kẻ tự cao tự đại, kiêu căng hợm hĩnh hoặc tự ti, mặc cảm.
- Sống giản dị là cách sống khoa học, giúp chúng ta tránh khỏi phiền toái, khiến mọi người xung quanh tôn

trọng ta vì cách ứng xử gần gũi, chan hòa.
- Giản dị thể hiện ở nhiều khía cạnh: cách ăn nói cẩn thận, không khoa trương, lời nói đơn giản, ngắn gọn dễ
hiểu, không quan trọng hóa vấn đề, xem xét vấn đề dưới cái nhìn khoa học, cách ăn mặc giản dị, hợp hoàn
cảnh
- Phê phán những kẻ sống xa hoa, lãng phí, đua đòi, chuộng hình thức. Nhưng giản dị cũng không phải là qua
loa, đại khái, xuề xòa, giản dị chứ không được giản đơn.
3. Bài học:
- Cần rèn luyện đức tính khiêm tốn và tạo cho mình lối sống giản dị.
- Biết phê phán những kẻ chuộng hình thức, đánh bóng danh tiếng nhưng không có thực chất.
ĐỀ 28: Suy nghĩ về lòng khoan dung.
Gợi ý:
1. GT:
- Khoan dung là biết tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác đã gây ra cho mình; là biết
chấp nhận những yếu đuối, sai phạm của người khác và giúp họ đứng lên sau vấp ngã.
- Khoan dung là một phẩm chất đáng trân trọng của con người.
2. Bàn luận:
- Khoan dung là sự hiểu biết của một nhân cách cao đẹp, thể hiện một tâm hồn rộng mở, giàu lòng yêu thương.
Bởi, chỉ khi biết mở rộng tấm lòng, chỉ khi tình yêu được nhân ái hoá, con người ta mới có thể quên đi những
thiệt hại, những tổn thất của mình mà tha thứ cho người khác.
- Khoan dung với người khác cũng chính là khoan dung với bản thân mình. Vì con người không bao giờ là hoàn
hảo, sẽ có lúc ta phạm sai lầm. Nếu hôm nay ta không tha thứ cho người khác, thì sau này, nếu ta gây ra điều có
lỗi, ai sẽ tha thứ cho ta?
- Khoan dung giúp cảm hóa được lỗi lầm, là động lực khuyến khích họ nhận ra sai lầm và sửa chữa. Điều đó sẽ
khiến xã hội ngày càng tốt đẹp, văn minh, tiến bộ hơn.
- Người khoan dung luôn được người khác yêu mến, kính phục.
- Phê phán thái độ thờ ơ lạnh nhạt, ích kỉ của một số thanh niên hiện nay. Cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa
khoan dung và bao che.
3. Bài học: Cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa của lòng khoan dung trong việc hoàn thiện nhân cách.
ĐỀ 29: Bàn về tinh thần tự học.
Gợi ý:

1. GT:
Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng do người khác truyền lại và tự học là việc con
người phát huy những kiến thức, kĩ năng đã được truyền lại bằng chính sức lực, khả năng của riêng mình.
2. Bàn luận:
- Tinh thần tự học là một ý thức rất quan trọng, cần có ở mỗi chúng ta. Tự học là chủ động suy nghĩ, tìm tòi,
khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề; từ đó, tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều
nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh
nghiệm sống của nhân dân… Tự học chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp
ta thành công trong học tập.
- Tự học giúp chúng ta tiếp thu và nắm chắc một lượng kiến thức lớn rồi biến nó thành tri thức của riêng mình
qua việc chủ động thực hành; từ đó, ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng. Như vậy, tự học giúp ta tìm ra
được phương pháp học tập tốt nhất, phù hợp nhất cho chính bản thân mình.
- Cần thay đổi lối “học vẹt”, thụ động, thiếu suy nghĩ và sáng tạo.
3. Bài học:
14
- Hiểu rõ tầm quan trọng của tinh thần tự học để kiên trì rèn luyện.
- Cần ý thức rõ học là để có kiến thức và kĩ năng chứ không phải để chạy theo thành tích.
ĐỀ 30: Trình bày suy nghĩ về câu tục ngữ “Một điều nhịn, chín điều lành”.
Gợi ý:
1. GT:
- Nhịn là đức tính nhẫn nại, nhún nhường, luôn giữ hòa khí trong giao tiếp, ứng xử.
- Lành là kết quả tốt đẹp, thỏa đáng, đúng như mong muốn.
- Câu tục ngữ nhằm khuyên ta biết nhẫn nhịn, nhường nhịn thì sẽ gặp được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống.
2. Bàn luận:
- Nhường nhịn là một đức tính tốt đẹp giúp ta có được thành công. Cuộc sống vốn đa dạng, phức tạp, còn con
người thì lại có rất nhiều mối quan hệ khác nhau trong gia đình và ngoài xã hội. Nếu ta biết nhường nhịn, nhẫn
nhịn trong ứng xử, ta sẽ làm cho các mối quan hệ trở nên tốt đẹp, lâu dài. Nhưng nếu đi ngược lại, ta sẽ khó
tránh khỏi những xung đột, căng thẳng, khiến mối quan hệ bị rạn nứt, thậm chí là xảy ra nhiều hậu quả khôn
lường.
- Nhường nhịn không phải là đầu hàng, thất bại, không phải là nhịn nhục. Những ai cho rằng nhường nhịn là

thua thiệt, mất mặt tức là họ chưa hiểu hết bài học về lễ nghĩa trong việc xử thế.
3. Bài học:
- Cần ý thức rõ sự nhẫn nhịn là điều cần thiết để tạo lập và duy trì những mối quan hệ trong xã hội.
- Có thái độ sống ôn hòa trong giao tiếp, biết sống đúng với truyền thống ứng xử tốt đẹp của dân tộc.
ĐỀ 31: Trình bày suy nghĩ về câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
Gợi ý:
1. GT:
- Gỗ là chất liệu để đóng nên những vật dụng như giường, tủ, bàn ghế. Còn nước sơn là chất liệu để quét ohur
lên bề mặt bên ngoài của đồ dùng ấy để thêm bền, thêm đẹp. Với cấu trúc so sánh, câu tục ngữ nhằm khẳng
định nên chọn chất liệu gỗ tốt hơn là chọn lớp nước sơn bóng nhoáng.
- Về thực chất, câu tục ngữ là một lời khuyên về việc nhìn nhận, đánh giá một sự vật, một con người không nên
để vỏ hình thức bên ngoài hào nhoáng mê hoặc mà phải coi trọng thực chất bên trong. Ngoài ra, đó còn là lời
khuyên về một cách sống đúng bản chất của mình, không dùng cái mã bên ngoài để che đậy cái sơ sài bên
trong.
2. Bàn luận:
- Khi nhìn nhận, đánh giá một sự vật, đôi khi ta thấy giữa hình thức và nội dung không có sự thống nhất với
nhau. Nhiều vật dụng được phủ lớp sơn rất mướt nhưng thực chất lại làm bằng gỗ tạp. Lớp sơn kia sẽ nhanh
chóng bị bong tróc, còn đồ vật thì mối mọt, hư hỏng. Tương tự, những kẻ vô tài nhưng tỏ ra lịch thiệp, học đòi
làm sang vẫn còn đầy rẫy trong xã hội. Do đó, trong khi tiếp xúc với sự vật, con người nào đó, ta cần tỉnh táo để
biết chú trọng vào chất lượng bên trong của sự vật, vào vẻ đẹp tâm hồn của con người. Và suy cho kĩ, cái gốc
chân giá trị của con người chính là đạo đức, tài năng và trí tuệ.
- Nhưng cũng không chỉ xem trọng nội dung mà xem thường, quên lãng hình thức. Một món đồ được làm từ
chất liệu tốt lại được thiết kế xinh xắn, đẹp đẽ thì giá trị của vật dụng ấy càng được nâng thêm lên rất nhiều lần.
Một con người cũng vậy, có học vấn, đạo đức lại thêm nói năng lịch sự thanh nhã, ăn mặc gọn gàng, sạch đẹp
dễ làm ta thêm quý trọng hơn hẳn người tuy cũng có tài năng, đạo đức nhưng ăn nói thô lỗ, cọc cằn, áo quần
xộc xệch. Đúng là cái đẹp lí tưởng phải là hài hòa giữa nội dung và hình thức.
3. Bài học:
- Cần xem xét sự vật, con người ở cả hai phương diện nội dung và hình thức, trong đó chú trọng về mặt nội
dung.
- Có ý thức tu dưỡng đạo đức, trí tuệ, tài năng.

ĐỀ 32: Trình bày suy nghĩ về ý kiến “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Gợi ý:
1. GT:
- Bạn, hiểu đơn giản, là người mà ta quen biết. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai quen ta cũng là bạn ta. Khi coi
ai đó là bạn tức là ta phải có quan hệ thân thiết, gần gũi ở một mức độ nào đó, là người biết đồng cảm và chia sẻ
với ta, là người ta yêu quý và tin tưởng.
15
- Câu nói có ý nghĩa: Bạn là người luôn đồng hành, chia sẻ với ta khi ta khó khăn nhất, cô đơn nhất, đau khổ
nhất.
- Về thực chất, câu nói nhằm nhấn mạnh vai trò của tình bạn.
2. Bàn luận:
- Trong cuộc sống, có thể ta có nhiều mối quan hệ, nhưng bạn, hay đúng hơn bạn thân, thì rất ít. Bởi tìm được
một người luôn lắng nghe khi ta có chuyện rắc rối, luôn bên ta lúc ta khó khăn và giúp ta vượt qua cơn hoạn nạn
không phải là dễ. Chỉ có người bạn thân thật sự mới là người ta có thể cùng sẻ chia cuộc sống. Đó là người ta
yêu quý, quan tâm và thường xuyên chia sẻ với họ những vui buồn và ngược lại. Đó là một người bạn khiến ta
cảm thấy an tâm khi ở bên cạnh. Đó cũng là người ngăn ta mắc sai lầm hoặc giúp ta sửa chữa khi ta phạm lỗi.
Đó là người luôn gắn bó và ủng hộ ta. Họ nắm lấy tay ta để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin.
- Tình bạn là vô giá. Nó không được xây dựng bằng vật chất mà là bằng tinh thần, tâm hồn. Nếu ta kết bạn
nhưng lại không xuất phát từ sự chân thành mà dựa trên sự toan tính, ích kỉ, lợi dụng thì tình cảm đó sẽ nhanh
chóng tàn lụi, không những vậy lại còn gây nhiều tổn thất về mặt tinh thần cho cả ta và người đó.
- Làm thế nào để có một tình bạn đẹp? “Cách duy nhất để có bạn là chính bản thân mình phải là một người bạn”
(Ê-méc-xơn). Ta hãy đối xử với bạn bè, yêu thương, quan tâm đến họ như chính bản thân mình. Có được một
người bạn thân đã khó, giữ được tình bạn ấy còn khó hơn. Vì vậy ta cần trân trọng và nâng niu tình bạn bằng
tình cảm của mình.
3. Bài học: Có ý thức tạo nên tình bạn tốt. Biết giữ gìn, trân trọng tình bạn.
ĐỀ 33: Trình bày suy nghĩ về ý kiến “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà chính là nơi không có tình
thương”.
Gợi ý:
1. GT:
- Bắc Cực là một vùng đất ở cực bắc của trái đất, khí hậu khắc nghiệt, quanh năm băng giá, mọi sinh vật đều

khó tồn tại và phát triển. Vì thế mà nó được coi là nơi lạnh nhất.
- Tình thương là một tình cảm thiêng liêng tạo sự gắn bó và ý thức trách nhiệm của con người với nhau. Vì thế
mà nơi không có tình thương là nơi con người sống với nhau không có sự gắn bó, hòa hợp về tình cảm và không
có trách nhiễm xuất phát từ tình cảm.
- Cái lạnh ở Bắc Cực hoàn toàn khắc hẳn với cái lạnh ở nơi không có tình thương. Lạnh thực tế là cảm giác của
con người khi nhiệt độ thời tiết hạ thấp xuống, nó cũng là cảm nhận của con người khi không tìm được mối liên
hệ giữa mình và mọi người xung quanh. Tình thương chính là hơi ấm xua tan giá lạnh, giúp con người chống
chọi lại mọi điều kiện khắc nghiệt của cuộc sống, để con người không chỉ sống mà còn hạnh phúc trong chính
cuộc sống đó.
- Về ý nghĩa câu nói là cái lạnh thể xác không đáng sợ bằng cái lạnh nơi tâm hồn không có tình thương. Về thực
chất, câu nói nhằm khẳng định giá trị của tình thương trong cuộc sống.
2. Bàn luận:
- Con người luôn có khả năng chịu đựng và chống chọi với mọi điều kiện lạnh giá của thời tiết, có khả năng
thích ứng với mọi điều kiện thời tiết. Vì thế cho nên Bắc Cực vẫn chưa là nơi lạnh nhất. Nhưng không có tình
thương thì khác. Cảm giác lạnh mà nó mang tới không gì chống đỡ được. Nếu ta sống ở nơi không có tình
thương, khi ấy trái tim con người sẽ thành băng tuyết trong cô đơn, cằn cỗi, khô khan, ích kỉ. Vì việc thiếu tình
thương sẽ nới lỏng mối quan hệ giữa con người với con người, làm sự sống trở nên mong manh, yếu ớt trước tai
họa, trước những điều bất trắc có thể xảy ra. Không có tình thương, con người sẽ sống vô tình, thờ ơ trước đau
khổ của người khác, không nhận ra ý nghĩa nhân văn của cuộc sống. Lúc ấy cuộc đời thật đáng buồn và vô
nghĩa.
- Ta có thể bắt gặp nhiều biểu hiện của tình yêu thương trong cuộc sống. Song để tình yêu thương tồn tại bền
lâu, mỗi con người không chỉ là con người được yêu thương mà còn phải là người biết yêu thương “Sống là cho
đâu chỉ nhận riêng mình”. Khi đem tình yêu thương đến cho người khác một cách thật lòng, ta sẽ trở nên Người
hơn, vị tha, độ lượng, vô tư trong việc làm và suy nghĩ.
- Câu nói trên là một lời khẳng định đúng đắn. Nó xuất phát từ hiểu biết đầy đủ về vai trò và khái niệm của tình
thương, từ tiêu chí cuộc sống con người văn minh. Con người văn minh không chỉ được đảm bảo về đời sống
vật chất mà còn cần một đời sống tinh thần phong phú, giàu tính nhân văn và điều làm nên cuộc sông nhân văn
không thể thiếu vai trò của tình thương con người.
- Phê phán những kẻ ích kỉ, thiếu tình thương.
16

3. Bài học: Biết yêu thương và tìm cho mình một tình yêu thương chân thành. Điều đó sẽ vun đắp cho chúng ta
một cuộc đời tươi đẹp, tràn ngập niềm vui và niềm tin yêu, hy vọng.
ĐỀ 34: Trình bày suy nghĩ về ý kiến “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời” (Hồ Chí Minh).
Gợi ý:
1. GT:
- Học hỏi là tiếp thu tri thức của nhân loại từ sách vở, từ cuộc sống, từ những người xung quanh ta. Học hỏi là
một quá trình lâu dài chứ không thể trong một thời gian ngắn bởi vậy Bác Hồ nói đó là việc phải tiếp tục suốt
đời, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi.
- Về thực chất, câu nói là một lời khuyên đầy giá trị về tinh thần, ý thức học hỏi.
2. Bàn luận:
- Cuộc sống ngày càng phát triển không ngừng và tri thức nhân loại thì vô tận, luôn đổi mới. Vì vậy, nếu không
chịu học hỏi nâng cao tầm hiểu biết của mình thì sớm muộn gì cũng sẽ bị tụt hậu và bị đào thải khỏi cuộc sống
hiện đại.
- Học phải đi đôi với hỏi để hiểu sâu sắc kiến thức, biến tri thức thành của mình chứ không phải là sự tiếp nhận
thụ động. Trong cách học thì "lấy tự học làm cốt".
- Phê phán những kẻ tự cao tự đại, cho rằng đã đủ kiến thức, không cần phải học nữa. Đồng thời nhắc nhở
những ai có ý nghĩ không còn điều kiện để tiếp thu kiến thức nữa là một điều sai lầm.
3. Bài học: Nhận thức sâu sắc giá trị câu nói của Bác để học theo lời dạy của Người.
ĐỀ 35: Trình bày suy nghĩ về câu ca dao: “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Gợi ý:
1. GT:
- Lời nói là phương tiện để trao đổi thông tin, diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư, tình cảm của
mình.
- Lựa lời là chọn lời hay ý đẹp, khéo léo để giao tiếp và ứng xử.
- Như vậy, câu tục ngữ là một lời khuyên về cách ứng xử, giao tiếp trong các mối quan hệ.
2. Bàn luận:
- Trong giao tiếp, nếu ta biết lựa lời mà nói thì người nghe sẽ vừa lòng và dễ dàng tiếp thu ý kiến của ta; đồng
thời còn thể hiện ta là người văn minh, lịch sự, khiến người khác yêu mến, cảm phục. Như vậy, những lời nói
tốt đẹp không làm chúng ta tốn kém tiền bạc hay hao tổn sức lực mà lại còn đem lại nhiều ích lợi.
- Tuy lời nói không mất tiền mua nhưng nó lại vô giá, một lời nói ra là không thể lấy lại được. Cho nên trước

khi nói phải uốn lưỡi bảy lần, phải đắn đo, cân nhắc trước sau để không phải hối tiếc vì nói lầm nói lỡ.
- Tuy nhiên, lựa lời mà nói không phải là nói những điều dối trá chỉ để làm đẹp lòng người khác, cũng không
phải là nhún nhường, sợ sệt, vị nể, “chín bỏ làm mười” khi không dám góp ý về những sai lầm của người khác
hoặc không dám nói thật. Lời nói hay và đẹp phải xuất phát từ tấm lòng chân thành và từ mục đích tốt đẹp.
- Phê phán những kẻ coi rẻ giá trị của lời nói mà dùng lời lẽ thô tục, thiếu thiện chí. Như vậy là họ đã tự đánh
mất đi nếp sống văn minh, coi thường đạo đức xã hội.
3. Bài học: Có ý thức hoàn thiện cách giao tiếp, ứng xử phù hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng.
ĐỀ 35: Trình bày suy nghĩ về câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”.
Gợi ý:
1. GT:
- Nghĩa đen: Nguồn là nơi xuất phát của dòng nước, mạch nước từ núi, từ rừng để đổ ra sông, từ sông đổ ra
biển. Thứ nước khởi thủy đó rất trong lành, ngọt mát, tinh khiết. Câu tục ngữ có nghĩa đen là khi ta uống dòng
nước làm vơi đi cơn khát thì phải biết nhớ đến nơi phát xuất dòng nước ấy.
- Nghĩa bóng: Nguồn có thể được hiểu là những người đã tạo ra thành quả về vật chất và tinh thần cho xã hội.
Còn uống nước là hưởng thụ thành quả ấy. Câu tục ngữ nhằm khuyên ta phải biết ơn những người đã tạo dựng
thành quả cho mình trong cuộc sống.
2. BL:
- Trong cuộc sống, không phải hiện tượng nào, sự vật nào cũng tự nhiên mà có. Tất cả đều có nguồn gốc của nó,
và phần lớn là do sức lao động của con người tạo nên. Không những vậy, họ còn phải đổ mồ hôi công sức, thậm
chí phải chịu sự mất mát hi sinh để tạo nên thành quả. Còn người thụ hưởng thường không phải bỏ ra công sức
nào cả, nên lẽ tất yếu phải biết ơn người tạo dựng thành quả ấy. Đó là lẽ công bằng trong xã hội.
17
- Lòng nhớ ơn, biết ơn là một tình cảm đạo đức cao đẹp mà ông cha ta rất coi trọng. Người sống ân nghĩa sẽ
được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh. Ngược lại, nếu sống phụ nghĩa quên ơn, con người sẽ trở nên
ích kỉ, vô trách nhiệm. Những kẻ ấy sẽ bị người đời chê trách, mỉa mai, bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm
của chính họ sẽ kết tội.
- Lòng biết ơn có thể được thể hiện bằng nhiều cách, từ nhận thức đến hành động.
- Phê phán những kẻ đi ngược lại lẽ sống cao đẹp đó.
3. BH:
- Có ý thức kế thừa và phát huy truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc.

- Phê phán những kẻ vô ơn, “ăn cháo đá bát”.
ĐỀ 36: Trình bày suy nghĩ về câu nói: “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những
chùm hoa thật đẹp”.
Gợi ý:
1. GT:
- Vùng sỏi đá khô cằn chỉ sự khắc nghiệt của môi trường sống; loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật
đẹp: sự thích nghi, sức chịu đựng, sức sống, vẻ đẹp.
- Về ý nghĩa trực tiếp: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi tả sức chịu đựng, sức sống kỳ diệu của
những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp ngay trong một vùng sỏi đá khô cằn.
- Về thực chất, câu nói nhằm nhấn mạnh nghị lực của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
2. BL:
- Cuộc sống vốn không phải màu hồng mà có rất nhiều thử thách khắc nghiệt ta phải đương đầu. Đôi lúc ta sẽ
thấy kiệt quệ, chùn bước, mệt mỏi, mất ý chí, thậm chí muốn buông xuôi, từ bỏ. Chính lúc ấy, bản lĩnh, nghị lực
được thể hiện rõ nhất. Nếu ta buông xuôi, ta sẽ mất tất cả. Còn nếu xem những khắc nghiệt của hoàn cảnh ấy
chính là môi trường tôi luyện tốt nhất, ta sẽ cứng rắn, mạnh mẽ hơn để vượt qua chông gai và chạm tới đỉnh
vinh quang.
- Bên cạnh đó, vẫn tồn tại không ít những người dù sống trong môi trường tốt đẹp, là những loài cây được chăm
sóc chở che trên mảnh đất màu mỡ mà vẫn không bao giờ biết nở hoa thậm chí còn héo rũ và chết, cũng có
những cây phát triển tốt trong môi trường đó nhưng chỉ cần chịu nắng, phơi sương, một chút điều kiện khó khăn
là chết rũ, không còn sức sống. Sự yếu đuối, hèn nhát khiến họ trở nên nhạt nhòa, vô vị và vô nghĩa trong cuộc
đời.
3. BH:
- Cần ý thức về giá trị của bản thân.
- Luôn tôi luyện nghị lực, bản lĩnh để đương đầu và khẳng định mình trước những khó khăn thử thách của cuộc
sống.
ĐỀ 37: Trình bày suy nghĩ về câu nói: “Người chê mình mà chê phải, ấy là thầy của mình; người khen mình mà
khen đúng, ấy là bạn của mình. Còn người nào nịnh bợ mình ấy là kẻ thù làm hại mình đó” (Tuân Tử)
Gợi ý:
1. GT:
- “Chê” – tỏ ra không thích, không vừa ý vì cho là kém, là xấu; “chê phải”: chê đúng; “thầy”: người có trình độ

dạy bảo, hướng dẫn (hàm ý coi trọng).
→ Người chê mình mà chê đúng là người muốn chỉ ra cho mình thấy những điều chưa tốt, chưa đẹp với mong
muốn mình sẽ nhận rõ và khắc phục những điều đó.
- “Khen”: nói lên sự đánh giá tốt về ai, về cái gì, việc gì với ý hài lòng; “khen phải”: đánh giá đúng trên cơ sở
phát hiện chính xác điểm tốt, tiến bộ của ai đó; “bạn”: người quen biết có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang
hàng, do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động…
→ Người khen mình mà khen đúng là người hiểu mình, thật lòng, có những nhận định tốt và khách quan về
những gì mình đã làm được. Đó là người mình có thể tin tưởng được và những lời khen ấy sẽ động viên, khuyến
khích mình làm việc tốt hơn.
- “Nịnh bợ”: tự hạ mình, nịnh nọt một cách hèn hạ để cầu lợi hoặc tỏ vẻ quan tâm, thông cảm hoặc ngợi khen
thái quá bằng thái độ giả dối cốt lấy lòng, lôi kéo, mua chuộc để cầu lợi; “kẻ thù”: kẻ có quan hệ thù địch.
→ Người nào nịnh nọt mình một cách hèn hạ là kẻ thù làm hại mình, bởi họ đưa ra lời khen chê không khách
quan, chỉ để làm mình hài lòng, mãn nguyện. Những lời khen chê giả dối đó có thể làm hại mình.
18
- Về thực chất, câu nói nhấn mạnh cần coi trọng những người giúp ta nhận ra sai sót, khuyết điểm; trân trọng
những người phát hiện ra đúng điểm tốt, thế mạnh của ta và cần đề cao cảnh giác với những kẻ tìm cách lôi kéo,
mua chuộc, lấy lòng ta vì những mục đích không rõ ràng.
2. BL:
- Người biết khen chê đúng là người có hiểu biết sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về đối tượng, thực sự có
thiện chí muốn giúp đỡ người khác hạn chế những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm để sống và làm việc
tốt hơn. Vì vậy, họ là người đáng tin cậy.
- Người hay nịnh bợ chỉ muốn cầu lợi cho mình nên dùng những lời nói ngọt ngào, tâng bốc đối phương chứ
thật sự không xuất phát từ thiện chí. Vì vậy, nghe và tin những lời nịnh bợ sẽ không giúp cho chúng ta hiểu
đúng về những việc mà chúng ta làm trong đời sống và công việc, từ đó không thu được những kể quả mà
chúng ta mong muốn. Có khi, chúng ta phải trả giá quá đắt cho việc nghe và tin theo những lời xu nịnh ấy.
3. BH:
- Cần tỉnh táo để phân biệt đâu là những lời khen, chê đúng, đâu là những lời nịnh bợ. Từ đó, hiểu được ai là
thầy để tin tưởng và làm theo; ai là kẻ thù để tránh xa hoặc đấu tranh lại.
- Bản thân mình khi đánh giá người khác cũng phải thực lòng, khách quan và thiện chí.
- Rèn luyện bản lĩnh để vượt lên mọi cám dỗ đời thường, sống đàng hoàng ngay thẳng.

ĐỀ 38: Trình bày suy nghĩ về câu hát: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc
hôm nay”.
Gợi ý:
1. GT:
- “Tổ quốc” là quốc gia, là quê hương xứ sở, nơi ta sinh ra và lớn lên.
- “Đừng hỏi Tq đã làm gì cho ta”: quyền lợi mà mỗi công dân được hưởng.
- “Ta đã làm gì cho Tq”: nghĩa vụ của mỗi công dân đối với đất nước.
→ Mỗi người hãy cống hiến, làm tròn bổn phận, nghĩa vụ của mình để góp phần xây dựng một quốc gia, xã hội
giàu mạnh, rồi từ đó chính họ sẽ được hưởng những quyền lợi mà sự giàu mạnh ấy mang lại.
2. BL:
- Tổ quốc là do nhiều yếu tố, nhiều thành phần tự nhiên, xã hội cũng như nhiều cá nhân con người tạo nên. Vẻ
đẹp và sự thiêng liêng của Tổ quốc là do công sức, trí tuệ, máu xương của bao thế hệ tạo nên và phải trải qua
nhiều tháng năm lịch sử… Có thể nói, mỗi con người khi sinh ra đã chịu ơn Tổ quốc, đã phải có trách nhiệm với
Tổ quốc.
- Mang ơn thì phải trả, có trách nhiệm thì phải hành động, nhất là tuổi trẻ đang dồi dào sức lực và trí tuệ - là
những người phải nghĩ đến cống hiến trước, hưởng thụ sau; phải nghĩ đến trách nhiệm với Tổ quốc trước đã,
không thể ngồi tính toán thiệt hơn.
3. BH:
- Có ý thức hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của cái tôi công dân đối với đất nước.
- Rèn luyện kiến thức, kĩ năng, bồi dưỡng tâm hồn để trở thành một công dân tốt đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh hơn.
ĐỀ 39: Trình bày suy nghĩ về câu nói: “Học vấn không có quê hương những người học vấn phải có Tổ quốc”
(L. Pa-xtơ).
Gợi ý:
1. GT:
- “Học vấn” là những hiểu biết, tri thức nhờ học tập mà có. Người học vấn là người có học và có trình độ
chuyên môn, có khả năng thu hút, tập hợp, thuyết phục người khác.
- “Học vấn không có quê hương”: Những tri thức về cuộc sống không thuộc riêng một cá nhân hay quốc gia
nào. Nó là sản phẩm của quá trình khám phá và nhận thức về thế giới tự nhiên và con người của cả nhân loại.
- “Người học vấn phải có Tổ quốc”: Người có trình độ, có hiểu biết phải biết yêu Tổ quốc và quê hương của

mình, phải có ý thức cống hiến, dựng xây đất nước của mình dù ở đâu và làm gì.
→ Khuyên mỗi người nên nâng cao trình độ học vấn của mình bằng việc học từ nhiều người, nhiều nơi song
phải biết cống hiến cho quê hương, đất nước mình. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước.
2. BL:
- Trong thời đại toàn cầu hóa như hiện nay, mỗi tri thức mới ra đời đều trở thành tài sản chung của cả nhân loại.
Vì vậy, chúng ta không chỉ nâng cao hiểu biết của mình bằng cách học hỏi từ những người thầy, người bạn cùng
19
dân tộc mà còn có thể học hỏi từ những người ở các vùng miền khác nhau trên thế giới. Mở rộng không gian
học tập sẽ giúp chúng ta mở mang tầm nhìn và nâng cao được trình độ học vấn của mình.
- Tổ quốc là quê hương, xứ sở của mỗi người, được thế hệ trước dựng xây bằng cả công sức, trí tuệ, máu xương.
Bất kì ai cũng có một Tổ quốc, một quê hương. Người có học vấn lại càng phải biết yêu Tổ quốc và quê hương
mình.
- Tuy nhiên, không nên cho rằng mỗi người đều phải làm việc ở trong nước mình, đóng góp trực tiếp cho đất
nước của mình mới là “có Tổ quốc”. Dù ở đâu và làm gì, mỗi người nên hướng về Tổ quốc và làm rạng danh
cho đất nước mình.
3. BH:
- Cần ham học hỏi để nâng cao trình độ, mở rộng tầm nhìn của mình, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa.
- Cần cống hiến và đóng góp sức mình cho việc dựng xây đất nước.
ĐỀ 40: Trình bày suy nghĩ về tục ngữ: “Lá lành đùm lá rách”.
Gợi ý:
1. GT:
- “Lá”: hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho con người.
- “Lành”: nghĩa đen là còn nguyên, không bị sứt mẻ, rách hoặc tổn thương; nghĩa bóng là đầy đủ, giàu có, sung
sướng…
- “Rách”: đối lập với lành.
- “Đùm”: nghĩa đen là bọc tạm hoặc buộc túm lại; nghĩa bóng là bao bọc, che chở, giúp đỡ.
→ Cần biết quan tâm, chia sẻ, đùm bọc giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh.
2. BL:
- Đây là truyền thống nhân đạo hay tinh thần tương thân tương ái của dân ta.
- Trong xã hội luôn có sự phân hóa giàu nghèo. Bên cạnh những người giàu có nhưng ích kỉ, có nhiều người có

cuộc sống giàu sang, phú quý nhưng luôn biết chia sẻ đối với những người kém may mắn, nghèo khó để giúp họ
có cái ăn cái mặc hoặc vững tin để vượt qua những giai đoạn khó khăn trong đời sống, vươn tới cuộc sống no
đủ.
- Sự chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ… về vật chất và tinh thần (dù ít ỏi) đối với những người sa cơ lỡ vận hoặc khó
khăn luôn là nguồn động viên, an ủi, khích lệ để họ tiếp tục duy trì cuộc sống và vươn lên. Hơn nữa, việc chia
sẻ, giúp đỡ người khác cũng khiến “người cho đi” nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc của mình lên nhiều lần.
- Phê phán thái độ thờ ơ, vô cảm, lạnh lùng, ích kỉ trước những cảnh đời bất hạnh, nghèo khổ.
3. BH:
- Có ý thức phát huy truyền thống đạo lí tốt đẹp đó của dân tộc.
- Phê phán, đấu tranh đối với thái độ đi ngược lại đạo lí đó.
ĐỀ 41: Suy nghĩ về ý kiến: “Con người đồng thời phải tạo ra và chế ngự niềm đam mê”.
Gợi ý:
1. GT:
- “Đam mê”: là sự yêu thích, sự hứng thú đến cao độ của chúng ta đối với một đối tượng nào đó trong cuộc sống
như công việc, phong cảnh, thú vui, con người…
- “Tạo ra” và “chế ngự” là hai khái niệm có sự tương phản. “Tạo ra” là sự xây dựng, vun đắp, khơi gợi, nuôi
dưỡng. “Chế ngự” là khống chế, kiềm chế.
2. BL:
- Tạo ra đam mê giúp ta tạo ra hứng thú trong cuộc sống, tạo ra nội lực bên trong để công việc đạt kết quả cao
nhất. Từ đó, chất lượng cuộc sống của ta sẽ được nâng cao và ta có thể có hạnh phúc.
- Nhưng nếu như không biết chế ngự đam mê trước một đối tượng nào đó thì cuộc sống của ta sẽ mất đi sự cân
bằng. Từ đó, ta mất đi khả năng cảm nhận, tận hưởng những điều tốt đẹp khác xung quanh
ĐỀ 42: “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại/ Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần” (Tố Hữu). Dựa vào hai câu
thơ trên, em hãy bàn về thắng và bại, khôn và dại trong cuộc sống.
Gợi ý:
1. GT:
ĐỀ 43: Suy nghĩ về lời dạy của Đức Phật: “Sai lầm lớn nhất của đời người là tự đánh mất chính mình”.
Gợi ý:
1. GT:
20

- “Tự đánh mất chính mình” là khi con người không giữ được phẩm chất vốn có của mình, sống và hành động
theo sự sai khiến của người khác mà không tự nhận thức được đúng/ sai, phải/ trái trong những hành động của
mình.
- Về thực chất, lời dạy nhằm khẳng định việc mỗi người cần giữ bản tính tự nhiên của mình là điều quan trọng
nhất.
2. BL:
- Khi tự đánh mất chính mình, con người sẽ dễ bị lôi kéo, bị lung lạc, không giữ được mình trước những cám dỗ
tầm thường của cuộc sống.
- Đối với mỗi người, phẩm giá là tài sản quý báu nhất để con người khẳng định được vị trí thật sự của mình
trong cuộc sống. Vì vậy, con người cần làm chủ bản thân trước mọi tình huống trong cuộc sống để tránh xảy ra
những sai lầm đáng tiếc.
3. BH:
- Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải khẳng định những phẩm chất, cá tính, bản lĩnh của mỗi người trong
cuộc sống.
- Có những phương hướng cụ thể để trau dồi cho mình những phẩm chất trên và rèn luyện bản lĩnh ngay từ khi
còn là học sinh.
ĐỀ 44: Suy nghĩ về câu nói của Huy-gô: “Trên đời này chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài
năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt”.
Gợi ý:
1. GT:
- “Tài năng” là khả năng đặc biệt, sự khéo léo hơn người, trí sáng tạo vượt bậc của mỗi con người.
- “Lòng tốt” là tấm lòng vị tha, khoan dung và nhân hậu đối với con người và cuộc sống xung quanh.
Đây là hai phẩm chất đặc biệt quý giá ở con người, thuộc hai lĩnh vực trí tuệ và tâm hồn.
- “Cúi đầu thán phục” và “quý gối tôn trọng” là những cách nói hình ảnh thể hiện thái độ đánh giá cao nhất đối
với những phẩm chất quý giá của con người đồng thời cũng bộc lộ một quan điểm về cách đánh giá con người:
chỉ đề cao, coi trọng, tôn vinh những gì đẹp đẽ, có giá trị trong trí tuệ và phẩm cách của con người – coi đó là
cái duy nhất đáng coi trọng, ngưỡng mộ.
- Câu nói đề xuất một cách đáng giá và một thái độ đúng đối với những giá trị tốt đẹp của con người. Tài năng
bao giờ cũng cần được đề cao và lòng tốt bao giờ cũng cần được coi trọng.
2. BL:

- “Tài năng” là biểu hiện cao nhất của khả năng trí tuệ ở con người, là điều kiện tốt nhất để con người khẳng
định giá trị bản thân và đóng góp cho cuộc sống chung của cả cộng đồng. Đối diện với người tài năng, ta không
chỉ được chiêm ngưỡng, thán phục mà còn được mở rông tầm hiểu biết, nâng cao nhận thức đêt tự hoàn thiện
bản thân.
- “Lòng tốt” xét đến cùng là sự hi sinh, dâng hiến cho con người, cho đời trên cơ sở của tinh thần nhân đạo. Để
tốt với người, với đời, mỗi người cần biết vượt qua những nhu cầu cá nhân ích kỉ, biết đứng cao hơn chính bản
thân mình để có thể yêu thương thật lòng, giúp đỡ chân tình, tha thứ thật sự. Những nỗ lực vì người khác xuất
phát từ lòng tốt luôn xứng đáng để tôn vinh.
- Cần lên án, phê phán mọi biểu thị miệt thị lòng tốt và phủ nhận tài năng.
3. BH: Đề xuất phương hướng hành động của bản thân để phát triển tài năng và hoàn thiện lòng tốt.
ĐỀ 45: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Những bài học vô giá về đạo đức không đến với ta qua sách vở mà qua
những kinh nghiệm sống của ta ở trong đời” (Mác Tuên).
Gợi ý:
1. GT:
- “Những bài học vô giá về đạo đức” là những bài học về cách sống, cách làm người, cách đối nhân xử thế trong
cuộc sống,… Đó là những bài học hết sức quý báu đối với mỗi người trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, mỗi
hoàn cảnh sống.
- Về thực chất, câu nói của Mác Tuên không có ý định hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của sách vở trong việc
giáo dục con người mà chủ yếu nhấn mạnh vai trò của những kinh nghiệm sống.
2. BL:
- Bài học thấm thía nhất chính là cbài học trải nghiệm. Chỉ qua thực tiễn, qua những kinh nghiệm sống, qua sự
nếm trải, mỗi người mới phát huy được năng lực tự nhận thức về bản thân, để nhận ra được thế nào là cách sống
21
đẹp, thế nào là cách ứng xử phù hợp, có văn hóa, thế nào là cái thiện, cái ác trong cuộc đời,… Chỉ có nếm trải
trong thực tiễn, mỗi người mới kiểm nghiệm được chính bản thân mình.
- Sách vở thực chất cũng là một phần của cuộc sống, từ cuộc sống đúc kết nên. Bài học từ sách vở cũng rất quan
trọng, tuy nhiên, quan trọng hơn vẫn là bài học từ chính những trải nghiệm cuộc đời.
3. BH: Có ý thức tích lũy được những bài học đạo đức để biết sống đẹp hơn trong cuộc đời.
ĐỀ 46: Trình bày suy nghĩ của anh chị về câu ngạn ngữ: “Đừng sống theo điều ta ước muốn. Hãy sống theo
điều ta có thể”.

Gợi ý:
1. GT:
- “Điều ta ước muốn”: là những khát khao, mong mỏi, chưa xảy ra trong hiện tại.
- “Điều ta có thể”: là những gì nằm trong khả năng của bản thân, có thể thực hiện được.
- Ý nghĩa câu ngạn ngữ: nên chọn cách sống thực tế, tránh sa vào mơ mộng viển vông, ngoài khả năng.
2. BL:
- Tính đúng đắn của luận đề: những ước muốn quá cao xa, vượt quá năng lực của bản thân sẽ không thực hiện
được, khiến con người dễ gặp bất hạnh. Cần tỉnh táo chọn lựa cách sống phù hợp hoàn cảnh, năng lực để tạo
dựng cuộc sống hạnh phúc từ cái mình đang có, nằm trong tầm tay.
- Bàn bạc mở rộng: Sống không có ước mơ, luôn vừa lòng với thực tại cũng dễ dẫn đến trì trệ, lạc hậu. Mơ ước,
khát vọng của cá nhân còn là động lực cho sự phát triển và sáng tạo.
3. BH:
- Xác định rõ quan niệm, thái độ sống phù hợp cho từng cá nhân, hài hòa với hoàn cảnh môi trường xung quanh.
- “Điều ta ước muốn” phải thích ứng với “điều ta có thể”, để nuôi dưỡng ước mơ chính đáng làm động lực vươn
lên.
- Cần phải rèn luyện không ngừng để nuôi dưỡng ước mơ và nâng cao năng lực hành động.
ĐỀ 47: Trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi thứ đã sẵn sàng, chúng ta sẽ chẳng bao
giờ bắt đầu” (I.Turgeniev).
Gợi ý:
1. GT:
- Nếu chỉ khoanh tay ngồi chờ thời cơ đến rồi mới hành động thì ta sẽ chẳng bao giờ làm được gì cả.
- Về thực chất, câu nói nhằm phủ định lối sống ỷ lại, thụ động, chờ thời, ngại khó.
2. BL:
- Hoàn cảnh khách quan chỉ là thứ yếu. Thời cơ thực sự không tự nhiên đến, cuộc sống không phải bao giờ cũng
dọn sẵn cho ta những điều thuận lợi để thực hiện thành công một dự định gì.
- Nếu không nỗ lực hành động, không chủ động thúc đẩy tạo cơ hội cho chính mình thì con người sẽ chẳng bao
giờ “bắt đầu”, chẳng bao giờ “khởi nghiệp” được.
- Biểu hiện: CMT8 đã diễn ra và nhanh chóng thành công không chỉ nhờ vào hoàn cảnh khách quan thuận lợi
mà quan trọng nhất là nhờ vào sự nỗ lực chuẩn bị tích cực trong 15 năm ròng rã của Đảng và nhân dân ta.
- Ý kiến của Turgeniev đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày nay – một thời đại đòi hỏi cao về tính chủ động,

sáng tạo, khả năng “đi tắt đón đầu” của mỗi con người, mỗi quốc gia.
- Phê phán lối sống ỷ lại, thụ động, chờ thời, thậm chí lấy đó làm sự ngụy biện cho thái độ ngại khó của bản
thân.
3. BH:
- Có ý thức từ bỏ lối sống thụ động.
- Luôn chủ động hành động, dám đương đầu với thách thức, vượt lên trên hoàn cảnh.
ĐỀ 48: “Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao, nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ
những điều rất nhỏ” (Frank A.Clark)
Hãy viết một bài nghị luận ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
1. Giải thích ý kiến:
- Ai cũng muốn làm điều gì đó rất lớn lao: Khát vọng vươn tới những cái đích lớn của mỗi con người, làm thay
đổi cuộc sống theo hướng đi lên, tốt đẹp hơn.
- nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều rất nhỏ: song không ý thức được những
việc lớn bao giờ cũng phải bắt đầu từ những việc nhỏ, như dòng sông được tạo từ nhiều con suối…
22
=> Ý cả câu: con người luôn có khát khao làm những điều lớn lao, kì vĩ mà lại quên rằng phải bắt đầu từ những
điều rất nhỏ bé, bình thường.
2. Bình luận ý kiến:
- Mơ ước làm điều lớn lao là nguyện vọng chính đáng, cần thiết của mỗi người, cần được hoan nghênh, khuyến
khích.(hs lí giải lấy dẫn chứng)
- Nhưng phải luôn ý thức được rằng:
+ Cuộc sống con người vốn là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nhân cách con người cũng được tạo nên bởi sự
kết hợp mọi bình diện từ nhỏ đến lớn những hành vi, đạo đức, lối sống,…ý nghĩa, hạnh phúc của cuộc sống
cũng được kiến tạo từ những điều đơn sơ, bình dị.(hs lấy dẫn chứng thực tế)
- Phê phán lối nghĩ, cách nói ngụy biện: vì việc lớn mà quên việc nhỏ, muốn trở thành vĩ nhân mà quên mình
cũng là một con người bình thường.
3. Bài học nhận thức và hành động:
- Con người phải luôn có ý thức kiểm soát hành động và nhận thức rằng việc gì nhỏ mấy mà có ích kiên quyết
làm…
- Thường xuyên rèn luyện đức tính kiên nhẫn, bắt đầu từ những việc làm nhỏ để có thể hướng tới những điều

lớn lao.
23

×