Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tài liệu Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình sự ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.73 KB, 26 trang )


Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


97




Nội dung

Giới thiệu một số chế định cơ bản của
ngành luật Luật Hành chính và Luật
Hình sự, bao gồm:
• Vi phạm hành chính và trách
nhiệm hành chính
• Tội phạm và hình phạt

Mục tiêu Hướng dẫn học
• Trang bị cho học viên những kiến thức cơ
bản nhất về vi phạm hành chính, vi phạm
hình sự cũng như các hình thức trách
nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự.


Thời lượng học

• 05 tiết học

Để học tốt bài này, học viên cần:
• Tham dự đầy đủ các buổi học theo


lịch trình.
• Tích cực thảo luận trong quá trình
học tập.
• Đọc các tài liệu sau:
o Giáo trình pháp luật đại cương của
TOPICA
o Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001)
o Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chín
h

năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007)
o Bộ luật Hình sự năm 1999

BÀI 6: LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ LUẬT HÌNH SỰ

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


98
Khởi động
Trước khi học bài này, chúng ta cùng xem xét một tình huống thực tế do chị Nguyễn Thị Nga ở
Phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một đề nghị được Báo Bình Dương tư vấn như sau: “Do
đi vội, nên xe gắn máy của anh B. va vào xe con tôi và cả hai cùng ngã. Không xin lỗi mà anh B.
còn có thái độ hùng hổ. Hai bên cự cãi và anh B. đánh vào mặt con tôi. Con tôi chạy để tránh,
nhưng anh B. đuổi theo đánh tiếp.
Để tự vệ, con tôi chạy vào quán nước bên đường, thấy được con dao nên đã cầm và đâm vào
bụng anh B. Tỷ lệ thương tật của anh B. là 40% và hiện con tôi đã bị tạm giam. Xin cho biết con
tôi phải chịu mức hình phạt gì?
Bằng hiểu biết pháp luật và bằng kiến thức thực tế, bạn sẽ trả lời chị Nga như thế nào?

Sau khi có ý kiến của riêng mình, hãy đối chiếu quan điểm của bạn với quan điểm tư vấn của
luật sư ở phần câu hỏi thường gặp.
Bài học này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn lời tư vấn của luật sư.


























Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s



99
6.1. Luật Hành chính
6.1.1. Khái niệm Luật Hành chính
Theo lý thuyết về phân định ngành luật thì đối tượng điều chình và phương pháp điều
chỉnh là những tiêu chí để xác định sự tồn tại của một ngành luật độc lập.
6.1.1.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính
Luật Hành chính điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện bởi các mối
quan hệ như sau:
• Quan hệ quản lý hành chính nhà nước do các cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện đối với các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hoạt động
quản lý hành chính nhà nước chủ yếu được tiến hành
bởi các cơ quan hành chính nhà nước như Chính phủ,
Ủy ban nhân dân, các Bộ, Sở, Phòng, Ban… Đó là
những hoạt động phát sinh trong quan hệ giữa cơ
quan nhà nước với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế hoặc với công dân, người
nước ngoài, người không quốc tịch… và những quan hệ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước với nhau như quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cơ quan có
thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền chuyên môn, giữa các cơ quan có
thẩm quyền chuyên môn với nhau…
• Quan hệ quản lý hành chính nhà nước do các cá nhân và tổ chức được nhà nước
trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường
hợp nhất định. Bên cạnh chủ thể chủ yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính
nhà nước, trong một số trường hợp nhất định các cá nhân, tổ chức khác cũng được
nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động này, chẳng hạn như thẩm phán khi xét xử
có thể áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với người có hành vi gây mất trật
tự tại phiên toà, mặc dù đã được nhắc nhở nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó.

Thẩm phán làm việc trong cơ quan xét xử, không phải cơ quan quản lý hành chính
nhà nước nhưng trong trường hợp này nhà nước trao cho thẩ
m phán quyền xử phạt
hành chính nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hoạt động xét xử. Khi đó quan hệ
giữa thẩm phán (nhân danh nhà nước) và người bị xử phạt cũng thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật Hành chính.
• Quan hệ quản lý hình thành trong quá trình cơ quan
nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội
bộ. Đây là quan hệ phát sinh trong việc củng cố tổ

chức bộ máy, cơ chế hoạt động và giám sát trong nội
bộ các cơ quan nhà nước chứ không chỉ đối với cơ
quan hành chính. Mối quan hệ này được biểu hiện
thông qua các hoạt động như tuyển dụng cán bộ, công
chức, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên đối với cấp
dưới, các hoạt động đảm bảo kỷ luật nhà nước…
Như vậy, Luậ
t Hành chính là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


100
quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt
động quản lý hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ công tác nội
bộ của mình, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội và cá nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính đối với các vấn đề cụ thể do

pháp luật quy định.
6.1.1.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước luôn có một bên chủ thể là nhà nước, do đó
đây là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành. Chính vì vậy, phương pháp điều
chỉnh cơ bản nhất của Luật Hành chính là phương pháp mệnh lệnh quyền uy, theo đó
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bên nhân
danh nhà nước được quyền đơn phương ra quyết định
hành chính và một bên phải phục tùng quyết định ấy.
Hơn nữa, bên nhân danh nhà nước có quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lý phải
thực hiện mệnh lệnh của mình. Luật Hành chính sử dụng
phương pháp điều chỉnh này là do đặc thù của quan hệ xã
hội mà nó điều chỉnh – đó là quan hệ giữa một bên là nhà
nước và một bên là các tổ chức, cá nhân ở vị thế bất bình đẳng, không thể thỏa thuận
về quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
6.1.2. Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính
6.1.2.1. Vi phạm hành chính
• Định nghĩa vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hoặc tổ
chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật bị xử phạt hành chính.
• Cấu thành vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật vì
thế để khẳng định một hành vi có phải là vi phạm
hành chính hay không thì phải xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành, bao gồm mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của vi phạm pháp luật.
o Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Yếu tố này đòi hỏi trước hết phải xác định có hay không hành vi trái pháp luật,

vi phạm quy định về quản lý nhà nước. Ngoài ra trong một số trường hợp nhất
định, pháp luật còn đòi hỏi phải xem xét thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và những thiệt hại đó. Khi xác định hành vi vi
phạm hành chính thì điều quan trọng là phải phân biệt được nó với hành vi bị
coi là tội phạm. Sự khác nhau cơ bản giữa hai hành vi này là ở tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, theo đó vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp
Hình minh họa
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


101
hơn so với tội phạm. Pháp luật hiện hành dựa vào một số tiêu chí sau để đánh
giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, cụ thể là:
 Mức độ tái phạm hoặc số lần vi phạm. Theo tiêu chí này, một hành vi có thể
là vi phạm hành chính nhưng nếu được thực hiện nhiều lần hoặc tái phạm thì bị
coi là vi phạm hình sự. Chẳng hạn như Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 1999
quy định “Người nào trốn thuế với số tiền từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu
đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế, hoặc đã bị kết án về
tội này chưa bị xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ một lần đến
năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm”.
Như vậy, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm pháp lý về tội trốn thuế
nếu trước đó đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị
kết án về tội này.
 Mức độ thiệt hại thực tế. Theo tiêu chí này, pháp luật quy định cụ thể hành vi
trái pháp luật phải gây thiệt hại đến mức độ bao nhiêu thì mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, ngoài ra chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính. Chẳng hạn
như khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người nào cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương

tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm:
Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người
Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.
Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác
không có khả năng tự vệ.
Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Có tổ chức.
Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục.
Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.
Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân’’
Theo quy định này thì hành vi cố ý gây thương tích chỉ bị coi là tội phạm nếu
gây ra thiệt hại về sức khỏe cho người khác ít nhất từ 11% trở lên. Nếu thiệt
hại chưa đến mức này thì bị coi là vi phạm hành chính.
 Công cụ, phương tiện, thủ đoạn sử dụng để thực hiện hành vi. Theo tiêu
chí này, pháp luật xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi dựa trên
việc đánh giá mức độ nguy hiểm của các công cụ, phương tiện mà chủ thể đã
sử dụng nhằm đạt được mục đích của mình. Chẳng hạn đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác như đã nói ở trên thì
ngay cả khi sức khỏe nạn nhân bị tổn hại dưới 11% nhưng nếu chủ thể thực
hiện hành vi này “sử dụng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người” thì vẫn bị coi là tội phạm.

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s



102
Hành vi vi phạm hành chính rất đa dạng, trải
rộng trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội như kinh tế, văn hóa, trật tự công cộng…
Việc xác định hành vi vi phạm phải căn cứ
vào văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước
ban hành.
o Mặt chủ quan của vi phạm hành chính:
Yếu tố quan trọng nhất trong mặt chủ quan của
hành vi vi phạm là dấu hiệu lỗi. Lỗi trong vi phạm
hành chính có thể là cố ý hoặc vô ý, tức là chủ thể nhận thức được hành vi của
mình sẽ gây ra hậu quả cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi đó với thái độ
có thể là mong muốn hậu quả xảy ra, cũng có thể là để mặc cho hậu quả xảy ra
hoặc cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra. Bên cạnh đó, chủ thể thực hiện hành vi
không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải biết hoặc có
thể biết trước điều này thì chủ thể đó vẫn bị coi là có lỗi. Hành vi trái pháp luật
thực hiện trong các hoàn cảnh như tình thế cấp thiết hoặc có sự kiện bất khả
kháng như bão lũ, thiên tai… thì không bị coi là vi phạm pháp luật bởi chủ thể
thực hiện hành vi đó không có lỗi.
Bên cạnh dấu hiệu lỗi, trong nhiều trường hợp cấu thành vi phạm pháp luật
hành chính đòi hỏi phải xác định thêm yếu tố mục đích, động cơ thực hiện
hành vi vi phạm. Dấu hiệu này không xuất hiện trong mọi trường hợp tuy nhiên
nếu pháp luật có yêu cầu thì bắt buộc phải được thỏa mãn khi khẳng định hành
vi là vi phạm pháp luật hành chính.
o Chủ thể của vi phạm hành chính:
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
hành chính là những tổ chức, cá nhân có năng
lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, tổ chức cũng có thể là chủ thể của vi

phạm hành chính. Chẳng hạn như doanh nghiệp đổ
nước thải công nghiệp chưa qua xử lý vào sông,
suối… bị xử phạt vi phạm hành chính do vi phạm
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Tổ
chức là chủ thể của vi phạm hành chính rất đa dạng, có thể là cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân…
Đối với cá nhân, năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp
luật hiện hành được xác định dựa trên hai yếu tố là độ tuổi và khả năng nhận
thức. Về độ tuổi, năng lực chịu trách nhiệm hành chính của cá nhân được xác
định như sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính trong
trường hợp thực hiện hành vi vi phạm hành chính với lỗi cố ý.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi hành vi
vi phạm của mình.
Hình minh họa
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


103
Tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng là chủ thể của vi phạm hành chính nếu thỏa
mãn các điều kiện nói trên trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia có quy định khác.
o Khách thể của vi phạm hành chính
Dấu hiệu này đòi hỏi phải xác định những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nhưng bị xâm hại. Nếu một hành vi tác động đến một quan hệ xã hội nhưng
quan hệ đó không phải là đối tượng được pháp luật bảo vệ thì không bị coi là vi
phạm pháp luật. Đối với vi phạm hành chính, khách thể bị xâm hại là trật tự
quản lý hành chính nhà nước, được quy định trong các văn bản quy phạm pháp

luật. Vì hoạt động quản lý hành chính nhà nước diễn ra trên nhiều lĩnh vực nên quan
hệ pháp luật hành chính rất đa dạng và thường xuyên thay đổi. Chính vì vậy, các
quan hệ này thường được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật như Nghị định,
Thông tư, Quyết định… Tuy nhiên, dù các quan hệ pháp luật này tồn tại ở
nhiều văn bả
n khác nhau thì vẫn là yếu tố bắt buộc phải được xác định khi xem
xét các dấu hiệu cấu thành vi phạm pháp luật hành chính.
6.1.2.2. Trách nhiệm hành chính
• Định nghĩa trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là những hậu quả pháp
lý bất lợi mà nhà nước buộc các tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu.
• Đặc điểm của trách nhiệm hành chính
o Thứ nhất, trách nhiệm hành chính chỉ áp
dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật hành chính, tức là chỉ phát sinh sau khi
có hành vi vi phạm hành chính xảy ra trên
thực tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp nhà
nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành
chính nhưng các biện pháp này chỉ mang tính chất phòng ngừa hoặc ngăn chặn,
tức là được thực hiện trước khi có hành vi vi phạm hành chính xảy ra thì không
được coi là trách nhiệm hành chính. Trong thực tế có các biện pháp phòng ngừa
như Chính phủ quyết định đóng cửa biên giới trong một thời gian nhằm bảo
đảm an ninh, chống buôn lậu, ngăn chặn dịch bệnh, hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành kiểm tra chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hoặc
buộc những người làm các công việc trong các lĩnh vực dịch vụ ăn uống, trông
giữ trẻ phải kiểm tra sức khỏe định kỳ… Bên cạnh các biện pháp phòng ngừa,
có những biện pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật hành chính như khám người,
tạm giữ người, khám nơi cất giấu tang vật… Đây là những biện pháp cưỡng chế
mang tính phòng ngừa, ngăn chặn nhưng không phải là trách nhiệm pháp lý bởi

được áp dụng khi chưa có hành vi vi phạm hành chính xảy ra.
o Thứ hai, trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính trước nhà nước. Vi phạm hành chính là hành vi không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định về trật tự quản lý
do pháp luật quy định do vậy truy cứu trách nhiệm hành chính là việc buộc các
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


104
chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước nhà nước. Chẳng
hạn như một người có hành vi đánh người gây thương tích nhưng chưa đến
mức xử lý hình sự mà chỉ bị xử phạt hành chính thì người này một mặt có thể bị
xử phạt hành chính về hành vi “đánh nhau” theo quy định tại khoản 2 Điều 7
Nghị định số 150/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/12/2005 về quy định xử
phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, đồng thời có thể
phải bồi thường cho người bị hại. Trong trường hợp này, phạt tiền là hình thức
trách nhiệm pháp lý mà người đó đã phải gánh chịu trước nhà nước do có hành
vi gây mất trật tự công cộng còn việc bồi thường cho người bị hại thể hiện trách
nhiệm dân sự giữa bên vi phạm và bên bị hại, nhà nước chỉ là người bảo đảm
cho trách nhiệm dân sự giữa các bên được thi hành.
• Truy cứu trách nhiệm hành chính và cưỡng chế hành chính
Truy cứu trách nhiệm hành chính là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính
đối với người có hành vi vi phạm hành chính.
Cưỡng chế hành chính là việc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền quyến
định áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử phạt các chủ thể có hành vi vi phạm
hành chính hoặc để ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính vì lý do anh ninh,
quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia.
Như vậy, truy cứu trách nhiệm hành chính là một dạng của cưỡng chế hành chính.

Xử phạt vi phạm hành chính:
o Nguyên tắc xử phạt hành chính : Theo quy
định tại Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2007) việc xử phạt vi phạm hành chính phải
đảm bảo các nguyên tắc sau:
 Việc xử phạt vi phạm hành chính do
người có thẩm quyền tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật.
 Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt khi có
hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định.
 Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ
ngay. Việc xử lý phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để, mọi
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng
pháp luật.
 Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi. Nhiều
người cùng thực hiện một hành vi thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.
 Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để
quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.
 Không xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp thuộc tình thế cấp
thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi
đang mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s



105
o Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Hiện nay pháp luật quy định những chủ thể sau có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính: Ủy ban nhân dân các cấp, Cơ quan công an nhân dân, Bộ đội biên
phòng, Cơ quan cảnh sát biển, Cơ quan hải quan, Cơ quan kiểm lâm, Cơ quan
thuế, Cơ quan quản lý thị trường, Cơ quan thanh tra chuyên ngành, Giám đốc
cảng vụ hàng hải, cảng vụ thủy nội địa, cảng vụ hàng không, Tòa án nhân dân
và Cơ quan thi hành án dân sự.
Trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật quy định, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ áp dụng các hình thức xử phạt đối với chủ thể vi phạm hành
chính. Có hai hình thức xử phạt là hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt
bổ sung. Đối với mỗi vi phạm hành chính, chủ thể có hành vi vi phạm chỉ phải
chịu một hình thức x
ử phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình
thức xử phạt bổ sung. Hơn nữa, hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng
kèm theo hình thức xử phạt chính, tức là chủ thể vi phạm hành chính nhất thiết
phải bị áp dụng hình thức xử phạt chính và tùy từng trường hợp mà có thể bị áp
dụng hình thức xử phạt bổ sung hoặc không bị
áp dụng.
o Các hình thức xử phạt chính bao gồm cảnh cáo, phạt tiền và trục xuất:
 Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính nhưng
chỉ áp dụng trong các trường hợp sau:
 Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
có hành vi vi phạm hành chính.
 Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên và với
các tổ chức có hành vi vi phạm với điều kiện
đó là hành vi vi phạm lần đầu, có tình tiết
giảm nhẹ và theo quy định của pháp luật có
thể áp dụng hình thức cảnh cáo.
 Cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục nhưng không đơn thuần chỉ

là nhắc nhở nên quyết định xử phạt vẫn phải được thể hiện bằng văn bản.
 Phạt tiền là hình thức xử phạt chính nhưng không áp dụng đối với ngườ
i từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi vi phạm hành chính. Người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng hình thức xử phạt này nhưng mức phạt
không quá 2/3 mức phạt áp dụng đối với người đã thành niên. Nếu những
người này không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp
phạt thay.
 Theo quy định của pháp luật hiệ
n hành, mức
phạt tiền đối với vi phạm hành chính tối
thiểu là năm nghìn đồng và tối đa là năm
trăm triệu đồng. Các văn bản quy phạm pháp
luật có quy định cụ thể về mức tiền phạt đối
với từng hành vi vi phạm. Việc áp dụng mức
tiền phạt được tiến hành theo cách lấy mức
trung bình của khung tiền phạt đã được pháp
luật quy
định. Nếu có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng thì giảm hoặc tăng
mức phạt nhưng phải đảm bảo giới hạn tối thiểu và tối đa của khung tiền phạt.
Hình minh họa
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


106
 Trục xuất vừa là hình thức xử phạt chính vừa là hình thức xử phạt bổ sung.
Nếu là hình thức xử phạt chính thì khi xử phạt trục xuất có thể đồng thời áp
dụng các biện pháp xử phạt bổ sung. Trong trường hợp trục xuất được áp dụng

cùng với hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền thì nó được coi là hình thức xử phạt
bổ sung. Chủ thể bị xử phạt trục xuất thì buộc phải rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
o Các hình thức xử phạt bổ sung bao gồm tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính.
 Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử phạt
bổ sung theo đó buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính không được
tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành ngh
ề trong một
khoảng thời gian nhất định hoặc không thời hạn. Hình thức xử phạt này được
áp dụng khi có các điều kiện sau:
 Có quy định của pháp luật về việc áp dụng hình thức này.
 Có hành vi vi phạm trực tiếp quy tắc sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề.
 Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là
hình thứ
c xử phạt bổ sung theo đó chủ thể có thẩm quyền xử phạt áp dụng các
biện pháp tịch thu, xung quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền
bạc… đã sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc có được từ
hành vi đó.
 Cưỡng chế hành chính
 Trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có thể áp dụng các biện pháp buộc chủ thể vi phạm phải khắc phục hậu quả đã
gây ra hoặc các biện pháp nhằm ngăn chặn và bảo đảm cho việc xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác.
o Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra bao gồm:
 Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
 Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan

dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.
 Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm,
phương tiệ
n.
 Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và
văn hóa phẩm độc hại.
o Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính
bao gồm:
 Tạm giữ người.
 Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm.
 Khám người.
 Khám phương tiện vận tải, đồ vật.
 Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm.
 Bảo lãnh hành chính.

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


107
 Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật
Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.
 Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn.
Cần lưu ý rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm xử phạt hành chính là một hình
thứ
c cưỡng chế nhưng không phải là truy cứu
trách nhiệm hành chính bởi biện pháp này được
diễn ra trước khi có kết luận về việc chủ thể có

hành vi vi phạm hành chính hay không. Mục đích của biện pháp này không
phải là xử phạt, buộc một tổ chức, cá nhân nào đó phải gánh chịu hậu quả mà
chỉ là cưỡng chế mang tính ngăn chặn và bảo đảm cho việc xử phạt (nếu có).
o Các biện pháp xử lý hành chính khác
Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với công dân Việt Nam
vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải
xử lý hình sự. Biện pháp này thường được áp dụng với các đối tượng có hành
vi như cờ bạc, mại dâm, ma túy, gây rối trật tự công cộng với mục đích nhằm
giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa họ tái phạm. Điều cần lưu ý là chỉ có một loại
chủ thể duy nhất có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác, đó là
cá nhân công dân Việt Nam. Người nước ngoài hoặc các tổ chức không bị áp
dụng biện pháp này. Cá nhân công dân Việt Nam bị áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính khác chủ yếu là những đối tượng thường xuyên vi phạm pháp
luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và đã nhiều lần bị
xử phạt hành chính nhưng vẫn tái phạm. Chính vì đặc điểm này nên trong một
số trường hợp nhất định hành vi của họ chưa đủ yếu tố cấu thành vi phạm hành
chính nhưng vẫn có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý khác. Người có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp. Theo quy định của pháp luật, các biện pháp xử lý hành chính khác
bao gồm: giáo dụ
c tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở chữa bệnh và đưa vào cơ sở giáo dục.
o Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp này do chủ tịch ủy ban nhân dân
xã áp dụng với thời hạn từ 3 đến 6 tháng cho các đối tượng sau đây:
 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự.
 Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhi
ều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ,
đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng.
 Người từ đủ 18 tuổi trở lên nghiện ma túy hoặc người từ đủ 14 tuổi trở lên có

hành vi bán dâm thường xuyên và có nơi cư trú nhất định.
 Người trên 55 tuổi (với nữ) và trên 60 tuổi (với nam) thường xuyên có hành
vi xâm phạm tài sản của tổ chức, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người
khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
o Đưa vào trường giáo dưỡng. Biện pháp này do chủ tịch ủy ban nhân dân huyện
áp dụng với thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm cho các đối tượng chưa thành niên
thuộc các trường hợp sau đây:
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


108
 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật
Hình sự.
 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình
sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc
chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.
 Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi nhiều lần có hành vi trộm cắp
vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện
pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.
o Đưa vào cơ sở chữa bệnh. Biện pháp này do chủ tịch ủy ban nhân huyện áp
dụng với thời hạn từ 1 năm đến 2 năm cho đối tượng từ đủ 18 tuổi trở lên
nghiện ma túy trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định
và cho đối tượng
từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bán dâm thường xuyên, trước

đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp
dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Đối với người bán
dâm dưới 16 tuổi hoặc trên 55 tuổi thì không áp dụng biện pháp này.
o Đưa vào cơ sở giáo dục. Biện pháp này do chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh áp
dụng với thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm cho các đối tượng thành niên dưới 55
tuổi (với nữ) và dưới 60 tuổi (với nam) thường xuyên có hành vi xâm phạm tài
sản của tổ chức, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người khác nhưng chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không
có nơi cư trú nhất định.
6.2. Luật Hình sự
6.2.1. Khái niệm Luật Hình sự
Luật Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam quy định về tội phạm và hình phạt. Luật
Hình sự có đối tượng điều chỉnh riêng và sử dụng phương
pháp điều chỉnh đặc thù để tác động lên những quan hệ xã
hội là đối tượng điều chỉnh của nó.
6.2.1.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật Hình sự điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa nhà nước và người phạm tội
khi người này thực hiện một tội phạm. Như vậy, nhà nước luôn là một bên chủ thể
trong quan hệ pháp luật hình sự. Ngay cả khi có hành vi phạm tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác thì quan hệ pháp luật hình sự
phát sinh vẫn là quan hệ giữa nhà nước và người có hành vi phạm tội ch
ứ không phải
quan hệ phát sinh giữa người thực hiện hành vi phạm tội với người bị hại. Sở dĩ nhà
nước luôn là một bên trong quan hệ pháp luật hình sự bởi vì hành vi phạm tội có mức
độ nguy hiểm cao, xâm phạm các điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước, của chế

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s



109
độ và lợi ích của nhân dân, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước. Vì thế, tội phạm là người có hành vi phạm tội
đối với nhà nước chứ không phải đối với người bị
hại. Đại diện cho nhà nước trong quan hệ pháp luật
hình sự là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như
cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án.
Từ đối tượng điều chỉnh như trên cho thấy Luật Hình
sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành, xác định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và quy
định hình phạt đối với những tội phạm ấy.
6.2.1.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Quan hệ pháp luật hình sự luôn có một bên là nhà nước và nhà nước xuất hiện trong
quan hệ pháp luật này là để bảo vệ trật tự xã hội thông qua việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Với đặc điểm như vậy nên Luật Hình sự sử
dụng phương pháp quyền uy để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nội dung
của phương pháp này thể hi
ện ở việc nhà nước sử dụng quyền lực của mình để áp
dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người phạm tội phải
phục tùng các quyết định của nhà nước mà không thể thỏa thuận hoặc mặc cả như các
chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
6.2.2. Tội phạm
6.2.2.1. Khái niệm tội phạm
• Khái niệm tội phạm
Trong thực tế có nhiều loại hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ khác nhau. Tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
chủ thể vi phạm pháp luật có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Cơ quan

nhà nước có thẩm quyền chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm
pháp luật là tội phạm.
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì tội phạm được hiểu là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
• Đặc điểm của tội phạm
o Thứ nhất, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đặc điểm này cho thấy
tội phạm luôn tồn tại dưới dạng hành vi, có thể là hành động hoặc không hành
động. Những gì còn trong suy nghĩ, chưa biểu hiện thành hành vi cụ thể thì
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


110
không được coi là tội phạm. Hơn nữa, tội phạm cũng là một dạng vi phạm pháp
luật nên nó phải là hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ, tức là chứa đựng tính gây nguy hiểm cho xã hội.
o Thứ hai, tội phạm là hành vi có lỗi. Lỗi trong vi phạm pháp luật hình sự có thể
là cố ý hoặc vô ý và là yếu tố không thể thiếu khi xác định cấu thành tội phạm.
Việc xác định lỗi là để tránh tình trạng quy tội khách quan, chỉ căn cứ vào biểu
hiện của hành vi mà không xét đến thái độ chủ quan của người có hành vi đó.
o Thứ ba, tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Một người chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt nếu thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Những hành vi này xâm phạm khách thể

được luật hình sự bảo vệ như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, t
ổ chức Những hành vi nguy hiểm cho xã
hội không được hoặc chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự thì không bị
coi là tội phạm.
6.2.2.2. Cấu thành tội phạm
Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao nhất
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Giống như các vi phạm pháp luật khác, việc xác
định hành vi có phải là tội phạm hay không phải dựa trên các yếu tố cấu thành vi
phạm pháp luật. Những yếu tố này bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
• Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, bao
gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
nguy hiểm với hậu quả đã xảy ra. Bên cạnh đó còn có các yếu tố biểu hiện khác
như công cụ, phương tiện, thời gian, không gian, địa điểm phạm tội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là yếu tố bắt buộc phải xác định khi xem xét cấu
thành tội ph
ạm, có thể tồn tại dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành
động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể thông qua việc thực
hiện những điều bị luật hình sự cấm. Chẳng hạn như hành động cố ý gây thương
tích, hành động giết người, hành động mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy
Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể thông qua
việc chủ thể không thực hiện công việc theo yêu cầu của pháp luật mặc dù có đủ
điều kiện để thực hiện. Chẳng hạn như Điều 102 Bộ luật Hình sự quy định “Người
nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều
kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Như vậy,

việc không hành động cứu người trong trường hợp này có thể cấu thành tội không
cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Bên cạnh hành vi nguy hiểm cho xã hội, trong những trường hợp nhất định còn
phải xác định hậu quả mà hành vi đó đã gây ra cho xã hội. Hậu quả chính là những
thiệt hại đã xảy ra trên thực tế biểu hiện dưới các dạng như thiệt hại về vật chất

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


111
(như tài sản bị phá hủy hoặc bị chiếm đoạt), thể chất (như tính mạng, sức khỏe bị
xâm hại), tinh thần (như xâm hại danh dự, nhân phẩm) Tuy nhiên, không phải
mọi trường hợp khi xác định cấu thành tội phạm đều phải xem xét hậu quả do hành
vi nguy hiểm gây ra. Đối với những tội pháp luật không xác định hậu quả là một
yếu tố cấu thành vi phạm thì được coi là tội phạm có cấu thành hình thức. Trong
trường hợp bắt buộc phải xác định có hậu quả thực tế xảy ra thì gọi là tội phạm có
cấu thành vật chất.
Trong thực tế, việc xác định những hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội có ý
nghĩa như sau:
o Đối với tội có cấu thành vật chất thì hậu quả là một yếu tố bắt buộc phải xem
xét để định tội.
o Đối với tội có cấu thành hình thức thì hậu quả là yếu tố có thể được xác định
khi định khung hình phạt (khi khung hình phạt có quy định hậu quả là tình tiết
tăng nặng) hoặc để quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội.
Ngoài hai yếu tố hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi gây ra,
mặt khách quan của tội phạm còn bao gồm một số yếu tố khác như phương tiện,
thời gian, địa điểm phạm tội. Những yếu tố này không phải là dấu hiệu bắt buộc
của tất cả các cấu thành tội phạm mà chỉ yêu cầu đối với một số tội nhất định.
Chẳng hạn như địa điểm phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của tội hoạt động phỉ
được quy định tại Điều 83 Bộ luật Hình sự, cụ thể như sau: “Người nào nhằm

chống chính quyền nhân dân mà hoạt động vũ trang ở vùng rừng núi, vùng biển,
vùng hiểm yếu khác, giết người, cướp phá tài sản, thì bị phạt như sau: Người tổ
chức, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình; Người đồng phạm
khác thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”. Đối với những hành vi cấu
thành tội phạm có quy định dấu hiệu như vậy thì bắt buộc phải xác định khi xem
xét những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đó có phải là tội phạm hay không.
• Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố
như lỗi, mục đích, động cơ thực hiện hành vi
phạm tội.
o Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Khoa học pháp lý xác định 4 loại lỗi sau: lỗi
cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do
quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
o Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy kẻ phạm tội thực hiện tội
phạm. Mục đích phạm tội là mong muốn trong tư duy của kẻ phạm tội khi thực
hiện hành vi phạm tội. Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu
bắt buộc của mọi cấu thành tội phạm. Chẳng hạn như đối với những tội có lỗi vô
ý hoặc cố ý gián tiếp thì yếu tố mục đích không đặt ra vì người thực hiện hành vi
phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra do đó dấu hiệu này không cần thiết
Hình minh họa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


112
phải xác định. Tuy nhiên, trong trường hợp động cơ và mục đích phạm tội là dấu

hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì phải xác định dấu hiệu đó khi định tội.
• Chủ thể của tội phạm
Luật Hình sự Việt Nam hiện nay chỉ thừa nhận chủ thể của tội phạm là cá nhân. Tổ
chức, pháp nhân không được coi là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, cá nhân chỉ
có thể trở thành chủ thể của tội phạm nếu có năng lực trách nhiệm hình sự. Năng
lực trách nhiệm hình sự được xác định dựa trên hai yếu tố độ tuổi và khả năng
nhận thức.
o Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy
định như sau: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự quy định về các loại tội phạm như sau:
 Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù.
 Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình.
o Về khả năng nhận thức, Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 1999 xác định những
người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi thì được coi là không có năng lực trách nhiệm hình
sự. Như vậy, pháp luật không loại trừ những người thực hiện hành vi phạm tội
khi đang say rượu hoặc say các chất kích thích mạnh khác. Những người này
hoàn toàn có năng lực trách nhiệm hình sự trước khi rơi vào trạng thái say, pháp
luật buộc họ phải nhận thức được rằng nếu dùng quá mức rượu hoặc các chất
kích thích mạnh sẽ không thể làm chủ được hành vi của mình. Một người nhận
thức được điều đó nhưng vẫn tự đưa mình vào trạng thái say thì vẫn phải chịu
trách nhiệ
m hình sự nếu thực hiện những hành vi phạm tội.
• Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ
nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội này được quy
định tại Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 1999, bao gồm:
o Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
o Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức.
o Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân.
o Những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Cần phân biệt khách thể của tội phạm với đối tượng tác động của tội phạm. Hành vi
phạm tội có thể tác động đến các đối tượng như con người, tài sản hoặc các hoạt
động của con người Những đối tượng này là yếu tố cấu thành các quan hệ xã hội

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


113
được Luật Hình sự bảo vệ, tức là những bộ phận cấu thành khách thể của tội phạm.
Từ đó cho thấy đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của
tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
6.2.2.3. Những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
Tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là những tình tiết mà sự xuất
hiện của chúng làm cho hành vi trái pháp luật hình sự bị mất tính nguy hiểm cho xã
hội và do đó không bị coi là tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội là một trong những yếu tố quan trọng nhất để xác định
hành vi có phải là tội phạm hay không. Trong trường hợp hành vi có dấu hiệu của tội
phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng tính nguy hiểm của nó không có do
xuất hiện những tình tiết nhất định thì hành vi đó không bị coi là tội phạm. Theo quy
định của pháp luật hình sự, tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi tồn

tại dưới hai hình thức phòng vệ chính đáng và tình thế
cấp thiết.
• Phòng vệ chính đáng
o Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo
vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của
người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói
trên. Với tính chất là tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi nên hành vi thực hiện
trong trường hợp phòng vệ chính đáng không bị coi
là tội phạm. Hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng nếu thỏa mãn các điều
kiện sau:
 Phòng vệ chính đáng xảy ra đồng thời hoặc đi liền ngay sau sự tấn công nhằm
khắc phục thiệt hại do hành vi tấn công gây ra. Nếu xảy ra trước hành vi tấn
công hoặc trước khi có hành vi đe dọa tấn công ngay tức khắc thì không được
coi là phòng vệ chính đáng. Nếu xảy ra sau khi hành vi tấn công đã kết thúc thì
bị coi là phòng vệ quá muộn, và vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
 Sự chống trả trong phòng vệ phải tương xứng với sự tấn công. Việc xác định
mức độ tương xứng của hành vi chống trả với hành vi tấn công là rất phức tạp.
Tuy nhiên, trong thực tế Tòa án thường dựa vào các căn cứ sau để xác định
mức độ tương xứng:
 Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra
 Sức mạnh và sự mãnh liệt của hành vi tấn công
 Sức mạnh và khả năng chống đỡ của người phòng vệ
Trong trường hợp hành vi chống trả không tương xứng thì gọi là vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng và người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hình minh họa


Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


114
• Tình thế cấp thiết
Bên cạnh phòng vệ chính đáng còn có một tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi đó là tình thế cấp thiết. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì
muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của nhà nước, của tổ chức,
quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào
khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt
hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết,
thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
• Phân biệt tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi với trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự
Nghiên cứu phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết cần phải phân biệt với
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.
Việc miễn trách nhiệm hình sự xảy ra trong các trường hợp sau:
o Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy
tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
o Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự
thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội
phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể
được miễn trách nhiệm hình sự.
o Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.
6.2.3. Hình phạt
6.2.3.1. Khái niệm hình phạt
• Định nghĩa
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc

nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt
được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Toà
án quyết định.
• Đặc điểm
o Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính nghiêm khắc
nhất so với các loại trách nhiệm pháp lý khác. Đặc điểm này xuất phát từ lý do
tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cao nhất trong số
các vi phạm pháp luật.
o Thứ hai, hình phạt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Đặc điểm này cho thấy trong quá trình xét xử hình sự Tòa án chỉ được áp
dụng các loại hình phạt đã được quy định trong Bộ luật Hình sự mà không
được thay đổi hoặc bổ sung thêm loại hình phạt hoặc khung hình phạt.
o Thứ ba, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người có
hành vi phạm tội.

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


115
6.2.3.2. Các loại hình phạt
Toàn bộ các loại hình phạt được quy định trong Luật Hình sự và sắp xếp theo thứ tự
tăng dần từ nhẹ đến nặng gọi là hệ thống hình phạt. Hệ thống hình phạt bao gồm hai
nhóm là hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
• Hình phạt chính
o Hình phạt chính là hình phạt được tuyên một cách độc lập, không phụ thuộc
vào hình phạt khác. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một
hình phạt chính. Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
o Nhóm hình phạt chính:

 Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của nhà nước do tòa án tuyên đối với
người bị kết án. Đây là loại hình phạt chính nhẹ nhất nên chỉ được áp dụng đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa
đến mức miễn hình phạt .
 Phạt tiền là hình thức tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định xung
công quỹ nhà nước. Hình phạt này chỉ được áp dụng đối với tội phạm ít
nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản
lý hành chính và một số tội phạm khác theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Mức phạt tiền không được thấp hơn 1 triệu đồng.
 Cải tạo không giam giữ là hình phạt buộc người bị kết án phải chịu sự giám
sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa
phương người đó thường trú đồng thời có thể bị khấu trừ một phần thu nhập từ
5% đến 20% để xung quỹ nhà nước. Loại hình phạt này áp dụng đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng và đang có nơi làm việc
ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.
Trong trường hợp người phạm tội bị kết án về nhiều tội và bị tuyên nhiều
hình phạt bao gồm cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn thì sau đó phải
tổng hợp hình phạt. Nguyên tắc tổng hợp trong trường hợp này là chuyển
hình phạt cải tạo không giam giữ thành tù có thời hạn theo tỷ lệ một ngày tù
có th
ời hạn bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ mà trước đó đã bị tạm giam
thì áp dụng tỷ lệ quy đổi một ngày tạm giam bằng ba ngày cải tạo không
giam giữ.
Không phải mọi trường hợp cải tạo không giam giữ đều bị khấu trừ thu
nhập mà việc có hay không sự khấu trừ phụ thuộc vào từng trườ
ng hợp cụ
thể, do Tòa án quyết định.
 Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ
Việt Nam. Như vậy, hình phạt trục xuất chỉ áp dụng đối với người nước ngoài

phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Khi trục xuất được sử dụng là hình phạt
chính thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung
đi kèm.
 Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội bằng
cách chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời gian nhất định. Đây là
loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc trung bình, thể hiện tối đa được sự kết

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


116
hợp giữa trừng trị với giáo dục, cải tạo nên được áp dụng đối với mọi loại tội
phạm. Mức tù có thời hạn tối thiểu là 3 tháng và tối đa là 20 năm. Nếu người
phạm tội trước khi kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam tính vào thời
gian chấp hành hình phạt tù theo tỷ lệ một ngày tạm giam bằng một ngày tù.
Điều cần lưu ý là nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội và
mỗi tội bị kết án một thời hạn tù nhất định thì sẽ tiến hành tổng hợp hình
phạt bằng cách cộng các hình phạt đã tuyên thành hình phạt chung. Tuy
nhiên, hình phạt chung không được vượt mức tối đa là 30 năm. Pháp luật
quy định như vậy để đảm bảo rằng thời hạn tù là khoảng thời gian hợp lý để
người phạm tội có thể cải tạo và tái hòa nhập được với xã hội.
 Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
Người bị án tù chung thân bị cách ly khỏi xã hội suốt phần đời còn lại kể từ
khi bị tuyên án. Tuy nhiên, nếu người phạm tộ
i cải tạo tốt có thể được giảm
hình phạt theo quy định của pháp luật. Người được giảm hình phạt tù chung
thân xuống hình phạt tù có thời hạn thì thời hạn tù được xác định là 30 năm.
Việc giảm án có thể được thực hiện nhiều lần nhưng phải đảm bảo người
phạm tội phải thi hành tối thiểu 20 năm tù. Việc giảm án tù chung thân

xuống tù có thời hạn chỉ
được xem xét khi người phạm tội đã có thời gian
chấp hành hình phạt ít nhất là 12 năm. Tù chung thân là loại hình phạt
nghiêm khắc thể hiện ở việc tước đoạt tự do toàn bộ phần đời còn lại của
người phạm tội nên pháp luật quy định không áp dụng loại hình phạt này
đối với người chưa thành niên phạm tội.
 Tử hình là hình phạt đặc biệt được áp dụng đối với người phạm tội trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Tính đặc biệt của hình phạt này thể hiện ở
chỗ đây là loại hình phạt nghiêm khắc nhất vì nó tước bỏ sinh mạng của người
bị kết án và chỉ được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng loại trừ
các trường hợp sau:
 Người phạm tội là người chưa thành niên.
 Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội khi đang có thai hoặc đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi.
 Người phạm tội bị xét xử đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi.
Ngoài ra, có những trường hợp đã bị tuyên án tử hình nhưng không phải thi
hành hình phạt đó mà chuyển thành hình phạt tù chung thân, đó là:
 Người đã bị kết án tử hình nhưng sau đó có thai hoặc nuôi con dưới
36 tháng.
 Người đã bị kết án tử hình nhưng được ân giảm.
• Hình phạt bổ sung
o Hình phạt bổ sung là hình phạt không được tuyên một cách độc lập mà chỉ có
thể tuyên kèm theo hình phạt chính. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung bao gồm:
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s



117
trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không
áp dụng là hình phạt chính) và trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính).
o Nhóm hình phạt bổ sung
 Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình
phạt bổ sung theo đó người phạm tội bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề
hoặc làm những công việc do tòa án xác định nhằm ngăn chặn khả năng người
đó tiếp tục gây nguy hại cho xã hội.
Hình phạt này được áp dụng với thời hạn từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày
chấp hành xong hình phạt tù. Trong trường hợp hình phạt chính là cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc người bị kết án được hưởng án
treo thì thời hạn này được tính từ khi bản án có hiệu lực.
 Cấm cư trú là hình phạt bổ sung theo đó buộc người bị kết án phạt tù không
được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định.
Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm,
kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. Như vậy,
hình phạt bổ sung này chỉ áp dụng kèm theo hình
phạt tù hay còn gọi là tù có thời hạn. Thực chất
của hình phạt này là hạn chế quyền tự do cư trú
của người có hành vi phạm tội. Hình phạt này
thường được áp dung đối với các tội xâm phạm an
ninh quốc gia và một số tội khác theo quy định
của pháp luật. Vì vậy, những nơi mà người phạm
tội thường bị cấm cư trú là thành phố lớn hoặc các
khu công nghiệp tập trung, khu vực biên giới, hải
đảo, khu vực có cơ sở an ninh, quốc phòng hoặc
có các đầu mối giao thông quan trọng.
 Quản chế là hình phạt bổ sung theo đó người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm
ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục
của chính quyền và nhân dân địa phương.

Hình phạt này khi được áp dụng sẽ hạn chế quyền tự do cư trú của công
dân. Nếu như hình phạt cấm cư trú hạn chế quyền tự do cư trú của công dân
theo hướng giới hạn địa phương không được cư trú thì hình phạt quản chế
hạn chế quyền tự do cư trú theo hướng giới hạn địa phương mà người phạm
tội chỉ được cư trú.
Hình phạt này thường được áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác theo quy
định của pháp luật. Thời hạn quản chế là từ một năm đến năm năm, kể từ
ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Đồng thời với việc quản chế, người bị kết án còn bị áp dụng thêm các hình
phạt bổ sung là tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc cấm
làm một số công việc nhất định.
 Tước một số quyền công dân là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với công
dân Việt Nam, theo đó người bị kết án tạm thời mất một số quyền công dân
trong một thời hạn nhất định.
Quang cảnh
một phiên tòa

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


118
Hình phạt bổ sung này thường áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh
quốc gia và một số tội phạm khác theo quy định của pháp luật. Trong
trường hợp này người bị kết án bị tước các quyền sau:
 Quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước.
 Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng
vũ trang nhân dân.
Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 1 năm đến 5 năm tính từ ngày
chấp hành xong hình phạt tù. Trong trường hợp người bị kết án hưởng án

treo thì thời hạn tước một số quyền công dân được tính từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật.
 Tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung theo đó người bị kết án bị tước một phần
hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình để sung quỹ nhà nước.
Đây là hình phạt bổ sung chỉ được áp dụng đối với các tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp
luật. Khi áp dụng hình phạt bổ sung này cần lưu ý là phải để lại một lượng
tài sản tối thiểu nhất định cho người bị kết án và gia đình họ đảm bảo điều
kiện sinh sống.
 Phạt tiền và trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính). Đây là hai loại
hình phạt vừa có thể được áp dụng là hình phạt chính vừa có thể áp dụng là
hình phạt bổ sung. Trong trường hợp là hình phạt chính thì không được đồng
thời áp dụng với tư cách là hình phạt bổ sung.
 Trục xuất là hình phạt chỉ được áp dụng đối với người nước ngoài. Với tư cách
là hình phạt bổ sung, phạt tiền thường được áp dụng đối với các tội về tham
nhũng, ma túy và một số tội khác theo quy định của pháp luật.






Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


119
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Bài này gồm 2 phần với những nội dung nghiên cứu cụ thể như sau:
• Phần thứ nhất của bài nghiên cứu về Luật Hành chính. Đây là một trong những ngành luật
cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam với đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội

phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và sử dụng phương pháp mệnh lệnh
quyền uy để điều chỉnh những quan hệ ấy. Bài này cũng tập trung nghiên cứu một trong
những chế định quan trọng nhất của ngành luật này đó là vi phạm hành chính và trách nhiệm
hành chính.
Vi phạm hành chính là một dạng của vi phạm pháp luật nên cũng có đầy đủ bốn yếu tố cấu
thành. Mặt khách quan của vi phạm hành chính đòi hỏi phải xác định được có hành vi vi
phạm quy định về quản lý nhà nước. Trong một số trường hợp, pháp luật còn yêu cầu phải
xác định thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế.
Đối với mặt chủ quan, yếu tố quan trọng nhất cần phải xác định là lỗi của chủ thể. Vi phạm
hành chính có thể được thực hiện bởi cả hai loại lỗi là cố ý hoặc vô ý. Bên cạnh lỗi, có
trường hợp còn phải xác định thêm yếu tố mục đích, động cơ thực hiện hành vi vi phạm. Chủ
thể của vi phạm hành chính có thể là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành
chính. Đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi hành vi
vi phạm, cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chịu trách nhiệm hành chính về những vi
phạm do lỗi cố ý. Khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý hành chính nhà nước
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Chủ thể vi phạm hành chính sẽ bị truy cứu trách nhiệm hành chính, tức là bị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính, bao gồm xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý khác. Có hai hình
thức xử phạt hành chính bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền và trục xuất)
và hình thức xử phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính). Các biện pháp xử lý hành
chính khác bao gồm giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ
sở chữa bệnh và đưa vào cơ sở giáo dục.
• Phần thứ hai của bài nghiên cứu về Luật Hình sự. Với tư cách là một ngành luật độc lập,
Lu
ật Hình sự sử dụng phương pháp quyền uy để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa
nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện một tội phạm. Bài này nghiên cứu hai
chế định của Luật Hình sự là tội phạm và hình phạt. Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật
có tính nguy hiểm cho xã hội cao nhất, được quy định trong Bộ luật Hình sự. Khi xác định
cấu thành tội phạm cũ

ng đòi hỏi phải xác định được bốn yếu tố, trong đó mặt khách quan
cần phải xác định được có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội và có thể còn phải xác
định hậu quả cũng như mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả đó. Hành vi phạm tội có thể
được chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên, chủ thể của tội phạm chỉ là cá
nhân, pháp luật hình sự Việt Nam chưa thừa nhận tổ chức là chủ thể của tội phạm. Hơn nữa,
năng lực chịu trách nhiệm hình sự của cá nhân được quy định theo hướng người từ đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm r
ất nghiêm trọng do cố ý hoặc các tội đặc biệt
nghiêm trọng. Về khách thể, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại các quan hệ
được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


120
Người phạm tội phải chịu hình phạt. Có hai loại hình phạt là hình phạt chính (bao gồm cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình) và hình phạt
bổ sung (bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định,
cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền và trục xuất).

Bài 6: Luật Hành chính và Luật Hình s


121
CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
1. Doanh nghiệp không kê khai và nộp thuế đầy đủ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
trốn thuế không?
2. Tội phạm có phải là hành vi vi phạm pháp luật không?
3. Án treo có phải là hình phạt hay không?

4. Những chủ thể nào khi thực hiện hành vi phạm tội nhưng không bị áp dụng hình phạt tử hình?
5. Do đi vội, nên xe gắn máy của anh B. va vào xe con tôi và cả hai cùng ngã. Không xin lỗi mà
anh B. còn có thái độ hùng hổ. Hai bên cự cãi và anh B. đánh vào mặt con tôi. Con tôi chạy để
tránh, nhưng anh B. đuổi theo đánh tiếp.
Để tự vệ, con tôi chạy vào quán nước bên đường, thấy được con dao nên đã cầm và đâm vào
bụng anh B. Tỷ lệ thương tật của anh B. là 40% và hiện con tôi đã bị tạm giam. Xin cho biết
con tôi phải chịu mức hình phạt gì?

×