Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Giáo trình Nguyên lý kế toán (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Cao đẳng) - Trường CĐ Nghề Việt Đức Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 153 trang )

0

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ VIỆT - ĐỨC HÀ TĨNH

GIÁO TRÌNH
Mơn học: Ngun lý kế tốn
Nghề: Kế tốn doanh nghiệp
Trình độ: Cao đẳng
Tài liệu lưu hành nội bộ

Năm 2017


1

CHƯƠNG 1: VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP HẠCH TỐN KẾ TỐN
1. Vai trị, chức năng, nhiệm vụ của hạch toán kế toán.
1.1. Hạch toán kế toán và tính tất yếu khách quan của hạch tốn kế tốn
Lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người đã khẳng định: sản xuất ra của cải vật
chất là nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội loài người. Ngay từ thời cổ xưa, con
người của xã hội nguyên thuỷ đã nhận thức được rằng muốn duy trì sự sống và phát
triển thì phải lao động sản xuất, để tạo ra những vật dụng cần thiết, thức ăn và đồ
mặc… Q trình hoạt động sản xuất đó được diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại khơng
ngừng và hình thành nên quá trình tái sản xuất xã hội. Khi thực hiện q trình tái sản
xuất xã hội, con người ln có ý thức xem xét hao phí lao động đã bỏ ra là bao nhiêu
và kết quả thu được là cái gì, kết quả đó sẽ được phân phối như thế nào. Tức là họ đã
quan tâm đến chi phí đầu vào và kết quả đầu ra của các quá trình hoạt động kinh tế
trong quá trình tái sản xuất. Đồng thời con người cũng ln có ý thức và mong muốn
quá trình tái sản xuất được thực hiện nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao. Tất cả những


mối quan tâm đó của con người đối với q trình tái sản xuất đã đặt ra nhu cầu tất yếu
phải theo dõi, quan sát, lượng hoá, ghi chép, lưu trữ dữ liệu về các hoạt động kinh tế
trong quá trình tái sản xuất tức là phải thực hiện chức năng quản lý quá trình tái sản
xuất.
Để quản lý được các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất, cần phải có
những thơng tin hữu ích - được thu thập, xử lý và kiểm tra thơng qua q trình thực
hiện việc quan sát, đo lường, tính tốn và ghi chép các hoạt động đó.
Quan sát các hiện tượng và quá trình kinh tế là hoạt động đầu tiên của quá trình
quản lý nhằm định hướng, phản ánh, giám đốc quá trình tái sản xuất.
Đo lường là việc biểu hiện các hao phí trong q trình sản xuất của cải, vật chất
đã sản xuất ra bằng các loại thước đo thích hợp.
Có ba loại thước đo được sử dụng để đo lường các đối tượng của q trình tái
sản xuất, đó là thước đo hiện vật, thước đo lao động và thước đo giá trị.
Thước đo hiện vật là sử dụng đơn vị đo lường vật lý tuỳ thuộc vào tính tự nhiên
của đối tượng được tính tốn như: trọng lượng ( kg, tạ, tấn …); diện tích ( ha, m2 ...);
độ dài (m, km …); thể tích(lít, m3…). Thước đo hiện vật cho phép hạch tốn có thể đo
lường chính xác từng đối tượng riêng biệt, nhưng không thể sử dụng nó để xử lý thơng
tin ban đầu thành thơng tin tổng hợp của nhiều hiện tượng.
Thước đo thời gian lao động là sử dụng các đơn vị về thời gian như ngày công,
giờ công để đo lường các đối tượng hạch toán. Thước đo thời gian lao động thường chỉ
được sử dụng để đo lường hao phí lao động sống, tính tốn các chỉ tiêu về năng suất
lao động trong các doanh nghiệp, các tổ chức. Thước đo thời gian lao động giúp xác


2

định được năng suất lao động của công nhân, làm căn cứ tính lương phải trả cho cơng
nhân. Thước đo thời gian lao động thường được sử dụng với thước đo hiện vật để giám
sát số lượng sản phẩm công nhân sản xuất ra.
Thước đo giá trị (thước đo tiền tệ) là thước đo sử dụng rộng rãi nhất trong công

tác quản lý. Thước đo tiền tệ là sử dụng đơn vị tiền tệ để đo lường các chỉ tiêu kinh tế,
các loại tài sản, hàng hoá, vật tư của đơn vị. Thước đo giá trị có ưu điểm là giúp cho
hạch tốn có thể tổng hợp được thơng tin từ các thông tin ban đầu về các đối tượng
riêng biệt.
Mỗi thước đo đều có ưu, nhược điểm riêng. Để có được thơng tin đầy đủ, chính
xác, kịp thời phải kết hợp cả ba thước đo, sẽ phản ánh và giám đốc toàn diện các chỉ
tiêu về sản lượng, chất lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Tính tốn là việc sử dụng các phương pháp tính tốn, tổng hợp, phân tích để
tính tốn những chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Qua đó có thể đánh giá được mức độ thực
hiện và hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Ghi chép là quá trình thu nhận, xử lý và ghi lại tình hình và kết quả các hoạt
động kinh tế đã thực hiện theo trình tự và phương pháp nhất định. Từ đó mà thực hiện
chức năng thơng tin và kiểm tra các quá trình kinh tế trong từng thời gian, từng địa
điểm phát sinh cũng như suốt một thời kỳ nào đó.
Hệ thống quan sát, đo lường, tính tốn và ghi chép các hoạt động kinh tế của
con người, nhằm thực hiện chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế
trong quá trình tái sản xuất xã hội được gọi là Hạch toán.
Sự cần thiết phải giám đốc và quản lý quá trình hoạt động kinh tế không phải
chỉ là nhu cầu mới được phát sinh gần đây mà thực ra đã phát sinh rất sớm trong lịch
sử nhân loại và tồn tại trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Xã hội loài người
càng phát triển, con người càng quan tâm đến hoạt động sản xuất tức là càng quan tâm
đến thời gian lao động bỏ ra và kết quả sản xuất đạt được. Các-Mác đã viết: “Trong tất
cả các hình thái kinh tế xã hội, người ta đều phải quan tâm đến thời gian cần dùng để
sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng ở mức độ quan tâm có khác nhau tuỳ theo trình độ
của nền văn minh”.
Như vậy, hạch toán là nhu cầu tất yếu khách quan của mọi hình thái kinh tế xã
hội và là cơng cụ quan trọng để quản lý kinh tế. Có thể nói, hạch tốn được hình thành
và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất xã hội. Trong các hình thái
xã hội khác nhau, đối tượng và nội dung hạch tốn cũng khác nhau, vì mỗi chế độ xã
hội có một phương thức sản xuất riêng. Phương thức sản xuất thay đổi làm cho toàn bộ

cơ cấu kinh tế, chính trị, xã hội cũng thay đổi. Cùng với sự thay đổi và phát triển của
sản xuất xã hội, hạch tốn cũng khơng ngừng được hồn thiện về phương pháp, nội
dung cũng như hình thức tổ chức.
Các loại hạch toán:


3

Xã hội ngày càng phát triển, quá trình tái sản xuất ngày càng phức tạp. Để quản
lý một cách có hiệu quả và đánh giá toàn diện hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản
xuất xã hội, cần phải có đầy đủ, kịp thời và chính xác các thơng tin về các mặt hoạt
động khác nhau của quá trình tái sản xuất đó. Do vậy, hệ thống hạch tốn đã khơng
ngừng hồn thiện và phát triển về nội dung, phương pháp cũng như hình thức tổ chức
và được phân thành 3 loại sau:
* Hạch toán nghiệp vụ (Hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật): là sự quan sát, phản ánh
và kiểm tra từng nghiệp vụ kinh tế, từng quá trình kinh tế kỹ thuật cụ thể, nhằm thu
thập và cung cấp thông tin để thực hiện sự chỉ đạo thường xuyên, kịp thời các nghiệp
vụ và các quá trình kinh tế đó.
Hạch tốn nghiệp vụ thu thập và cung cấp thơng tin, số liệu về tình hình thực
hiện từng nghiệp vụ kinh tế (mua, bán...) từng quá trình kinh tế kỹ thuật (quá trình
thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh). Ví dụ doanh số bán của từng quầy hàng theo
từng ngày, số lượng sản phẩm sản xuất được tại từng phân xưởng trong từng ca sản
xuất...
Đặc điểm:
- Phương pháp thu thập và phản ánh thông tin là quan sát và phản ánh trực tiếp
từng nghiệp vụ, từng quá trình kinh tế kỹ thuật cụ thể để phục vụ kịp thời việc điều
hành, chỉ đạo từng nghiệp vụ, từng quá trình kinh tế cụ thể đó. Phương tiện thu thập và
truyền thông tin đơn giản, linh hoạt: điện thoại, email, thư báo, truyền miệng...
- Thơng tin do hạch tốn nghiệp vụ cung cấp chỉ là những thông tin riêng biệt
về từng nghiệp vụ, từng q trình.

- Hạch tốn nghiệp vụ không chuyên dùng một loại thứơc đo nào. Tuỳ thuộc
vào tính chất của từng nghiệp vụ kinh tế và yêu cầu quản lý mà sử dụng các thước đo
phù hợp.
Với những đặc điểm trên, hạch toán nghiệp vụ chưa trở thành một mơn khoa
học, chưa có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Tuy nhiên hạch toán nghiệp
vụ vẫn rất cần thiết để bổ sung cho các loại hạch toán khác.
* Hạch toán thống kê (Thống kê) là một môn khoa học nghiên cứu mặt lượng
trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn trong
điều kiện thời gian, không gian cụ thể nhằm rút ra bản chất và tính quy luật trong sự
phát triển của hiện tượng đó.
Đặc điểm:
- Đối tượng của hạch toán thống kế là các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn.
- Để thu thập và phản ánh thơng tin, hạch tốn thống kê có hệ thống phương
pháp nghiên cứu riêng (phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tổ, phương
pháp chỉ số...)
- Thông tin và số liệu do hạch toán thống kê cung cấp khơng mang tính liên tục,
thường xun nhưng mang tính hệ thống và tính tổng hợp cao.


4

- Hạch tốn thống kê khơng chun dùng một loại thước đo nào. Tuỳ theo tính
chất và yêu cầu cung cấp thơng tin mà hạch tốn thống kê sử dụng thước đo thích hợp.
* Hạch tốn kế tốn (Kế tốn):
Có nhiều quan niệm khác nhau về kế toán. Các quan niệm khác nhau về kế tốn
là do nhìn nhận kế toán ở những thời điểm khác nhau (quan niệm cổ điển, quan niệm
hiện đại) hoặc dưới những góc độ khác nhau (hoạt động kế tốn, chức năng, nhiệm vụ,
vai trị, tính nghề nghiệp, tính khoa học và nghệ thuật của kế tốn...) Dưới góc độ
ngun lý chung về kế tốn, chúng ta xem xét kế tốn dưới hai góc độ sau:
Xét dưới góc độ khoa học: Kế tốn là mơn khoa học thu nhận xử lý và cung cấp

toàn bộ thơng tin về tình hình tài sản và sự vận động của tài sản trong các đơn vị sản
xuất kinh doanh, tổ chức sự nghiệp và các cơ quan nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ tài
sản và các hoạt động kinh tế tài chính của các đơn vị đó.
Xét dưới góc độ chức năng, nhiệm vụ của kế tốn: Kế toán là việc thu thập, xử
lý và kiểm tra, phân tích và cung cấp thơng tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị,
hiện vật và thời gian lao động.
Mỗi đơn vị kế toán muốn hoạt động được đều phải có một lượng tài sản nhất
định (tiền, vật tư, hàng hoá, nhà cửa...) Những tài sản của đơn vị kế tốn được hình
thành do sự đóng góp của các chủ sở hữu đơn vị và được huy động từ các nguồn khác
(vay, chiếm dụng...). Hoạt động của đơn vị kế toán thường xuyên gây ra sự biến động
đối với các tài sản và nguồn hình thành tài sản, làm cho chúng luôn thay đổi về số
lượng giá trị cũng như hình thái biểu hiện. Kế tốn trong mỗi đơn vị có nhiệm vụ thu
thập, đo lường, xử lý, kiểm tra, phân tích thơng tin về tình hình và sự vận động của tài
sản của đơn vị và cung cấp cho các đối tượng cần sử dụng thông tin theo quy định.
Đặc điểm:
- Đối tượng nghiên cứu của kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản trong
từng đơn vị kế toán.
- Để thu thập và phản ánh thơng tin, kế tốn có hệ thống phương pháp nghiên
cứu riêng gồm: phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế tốn,
phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp cân đối kế tốn. Trong đó phương
pháp chứng từ kế toán là thủ tục đầu tiên, bắt buộc phải có đối với mọi nghiệp vụ kinh
tế phát sinh.
Chứng từ kế toán là bằng chứng pháp lý cho mọi nghiệp vụ kinh tế xảy ra tại
đơn vị. Khơng có chứng từ phản ánh thì thơng tin về các nghiệp vụ kinh tế do kế toán
cung cấp sẽ khơng có giá trị pháp lý. Vì vậy, chứng từ kế tốn đảm bảo cho mọi thơng
tin do kế tốn cung cấp đều có tính trung thực, khách quan và có cơ sở pháp lý chắc
chắn.
- Thơng tin do kế tốn thu thập và cung cấp mang tính chất thường xuyên, liên
tục và có hệ thống tất cả các loại tài sản và tình hình vận động của các loại tài sản đó
trong q trình hoạt động kinh tế của đơn vị kế toán.



5

Khác với thống kê, kế tốn thơng tin và kiểm tra thường xun, liên tục, có hệ
thống về tình hình và sự vận động của từng tài sản, từng nguồn vốn, từng q trình
kinh doanh. Nhờ đó mà kế tốn có thể thơng tin và kiểm tra một cách tồn diện về toàn
bộ tài sản, nguồn vốn và các hoạt động kinh tế, tài chính trong suốt q trình hoạt động
của đơn vị kế toán.
- Để phản ánh các loại tài sản và sự vận động của tài sản, kế tốn sử dụng cả ba
loại thước đo, trong đó thước đo tiền tệ được coi là thước đo chủ yếu. Sử dụng thước
đo tiền tệ, kế toán sẽ cung cấp được các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của công tác quản lý.
Với những đặc điểm trên, kế tốn là một mơn khoa học quan trọng trong hệ
thống các môn khoa học về quản lý kinh tế, là một công cụ quản lý quan trọng, đắc lực
và không thể thiếu trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Trong xã hội, kế toán là
một nghề nghiệp. Người làm kế tốn địi hỏi phải qua quá trình đào tạo để trang bị
kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
1.2. Vai trị của hạch tốn kế tốn trong nền kinh tế thị trường.
Kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp tồn bộ thơng tin về tình hình
tài sản và sự vận động của tài sản (các hoạt động kinh tế tài chính) trong các đơn vị.
Kế tốn hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của sản xuất xã hội. Khi nền
sản xuất xã hội càng phát triển, kế toán càng cần thiết và trở thành công cụ quản lý
kinh tế hiệu quả, không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý kinh tế tài chính.
Có thể phân tích vai trị của kế tốn qua các khía cạnh sau:
- Nhờ có kế tốn mà các đơn vị kế tốn có thể quản lý chặt chẽ tình hình hiện
có cũng như việc sử dụng tài sản của đơn vị một cách hiệu quả.
Kế toán thực hiện việc ghi chép, theo dõi, giám sát thường xun, liên tục tình
hình hiện có, tình hình biến động (tăng, giảm, nhập, xuất, thu, chi, vay, trả...) của tất cả
mọi tài sản và nguồn hình thành các tài sản của đơn vị kế tốn. Nhờ đó mà kế toán

giúp cho các nhà quản lý đơn vị quản lý chặt chẽ tài sản của đơn vị, ngăn ngừa, phát
hiện xử lý kịp thời những hành vi tham ô, lãng phí, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến
tài sản của đơn vị.
- Thơng tin do kế tốn cung cấp là nguồn thông tin quan trọng, trung thực,
khách quan, chiếm tỷ trọng lớn trong dịng thơng tin đầu vào của quá trình quản lý
giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt chức năng quản lý của mình.
Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại
hình doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động do đó ln có sự cạnh tranh gay gắt. Trong điều
kiện đó, để tồn tại và phát triển được, các đơn vị phải xác định mục tiêu hoạt động phù
hợp với năng lực, trình độ của mình, chủ động trong hoạt động kinh doanh, sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả tài sản, nguồn vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Muốn
vậy đòi hỏi các đơn vị phải tổ chức thu nhận thông tin đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời
về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, từ đó giúp nhà quản lý đưa ra những


6

quyết định kinh tế phù hợp và hữu hiệu. Ngoài ra từ những thơng tin do kế tốn cung
cấp, các cơ quan quản lý nhà nước, các cá nhân tổ chức quan tâm đến hoạt động của
doanh nghiệp, nắm được tình hình về tài sản, chi phí, kết quả và hiệu quả hoạt động
của đơn vị để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và đề ra các quyết định quản lý
kinh doanh đúng đắn có hiệu quả.
- Kế tốn cịn tiến hành phân tích và xử lý thơng tin, giúp cho nhà quản lý đánh
giá chính xác, đúng đắn mức độ hoàn thành của các chỉ tiêu kinh tế (về sản lượng tiêu
thụ, về doanh thu, về lợi nhuận...), phát hiện những yếu kém trong hoạt động kinh tế
của đơn vị để có những biện pháp khắc phục kịp thời, phát hiện những thế mạnh, tiềm
năng chưa được khai thác làm cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cho đơn vị.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, nền kinh tế sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần được quản lý theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của
Nhà nước, hoạt động kế toán trong các đơn vị thực hiện việc thu nhận, kiểm tra, xử lý,

cung cấp thông tin về các hoạt động của đơn vị và toàn xã hội là hết sức quan trọng.
Với vai trò này, người ta coi kế toán là quy tắc đầu tiên của quản lý, khơng có kế tốn
thì khơng thể quản lý kinh tế được. Đến nay, kế toán đã trở thành một hoạt động quản
lý khoa học không thể thiếu trong quản lý kinh tế ở mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành và
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.3. Chức năng và nhiệm vụ của hạch toán kế toán.
1.3.1. Chức năng của kế toán:
Để quản lý hoạt động kinh tế xã hội đòi hỏi phải sử dụng một hệ thống công cụ
và mỗi một công cụ trong hệ thống phải đảm nhận một hay một số chức năng nhất
định phục vụ công tác quản lý một hay một số mặt của nền kinh tế xã hội. Kế toán một phân hệ của hệ thống hạch tốn, phải thơng tin và kiểm tra q trình tái sản xuất
xã hội trên góc độ cụ thể là tài sản và sự vận động của tài sản trong từng đơn vị kinh
tế. Vị trí và nội dung trên đã quyết định 2 chức năng cơ bản của kế tốn là:
* Tổ chức, thu thập và cung cấp thơng tin kinh tế, tài chính của đơn vị kế tốn.
Kế tốn phải thu nhận thơng tin đầy đủ, trung thực, khách quan về toàn bộ các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị; chọn lọc, phân loại
và ghi chép những thông tin đã thu thập được theo những phương pháp nhất định; sử
dụng các phương pháp thích hợp tính tốn, xác định các chỉ tiêu kinh tế tài chính cần
thiết và trình bày, báo cáo các thông tin đã thu thập, xử lý cho các đối tượng cần sử
dụng, thông qua các biểu mẫu và sổ sách kế tốn. Tóm lại, chức năng cơ bản và quan
trọng của kế toán là tổ chức hệ thống thơng tin kinh tế, tài chính trong các đơn vị, tổ
chức và doanh nghiệp.
Để đảm bảo cho thông tin của kế tốn thực sự hữu ích đối với cơng tác quản lý
ở cả tầm vi mô và vĩ mô, cần tìm hiểu những đối tượng nào trong xã hội cần sử dụng
thơng tin kế tốn. Những đối tượng cần sử dụng thơng tin kế tốn bao gồm:


7

- Các nhà quản trị các cấp trong nội bộ đơn vị kế toán: Từ nhà quản trị cấp
thấp đến nhà quản trị cấp cao (Ban giám đốc, hội đồng quản trị, kế tốn trưởng, trưởng

các phịng ban…) trong nội bộ đơn vị đều cần thơng tin kế tốn để kiểm soát và điều
hành các hoạt động của đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định.
- Các đối tượng bên ngồi đơn vị kế tốn: Căn cứ vào mối quan hệ về quyền lợi
của các đối tượng đối với đơn vị kế tốn, có thể chia các đối tượng bên ngoài đơn vị
thành hai loại:
+ Các đối tượng có quyền lợi trực tiếp đối với đơn vị kế toán, gồm khách hàng;
nhà cung cấp vật tư, tài sản, dịch vụ; nhà đầu tư (cổ đông, đối tác liên doanh…); chủ
nợ (ngân hàng, công ty cho thuê tài chính…); người lao động …Các đối tượng loại
này rất cần thơng tin kinh tế, tài chính về đơn vị kế toán để đưa ra các quyết định kinh
doanh liên quan đến đơn vị kế toán, phù hợp với quyền lợi của họ. Ví dụ: nhà cung cấp
quyết định bán chịu vật tư, hàng hoá; ngân hàng quyết định việc cho vay…
+ Các đối tượng có quyền lợi gián tiếp đối với đơn vị kế toán, gồm các cơ quan
quản lý Nhà nước(Cơ quan thuế, viện nghiên cứu, các Bộ, Sở, Ban ngành…). Thơng
tin của kế tốn có vai trị rất quan trọng trong việc giúp nhà nước kiểm tra và thu đủ
các khoản đơn vị kế toán phải nộp để thực hiện các hoạt động của quốc gia; hoạch
định chính sách, luật lệ...
Mỗi đối tượng bên ngồi đơn vị kế tốn có nhu cầu khác nhau đối với thơng tin
kế tốn của đơn vị, nhưng đều có chung một nguyện vọng là thơng tin mà đơn vị kế
tốn cung cấp phải trung thực, khách quan và hợp thức.
* Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế tốn
Ngồi chức năng tổ chức hệ thống thơng tin kinh tế tài chính, kế tốn cịn có
chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế tốn, bao gồm
kiểm tra việc chấp hành ngun tắc, chính sách, chế độ kế tốn, kinh tế tài chính của
Nhà nước tại đơn vị kế toán, kiểm tra việc chấp hành các quy chế , thủ tục, trình tự …
của đơn vị kế tốn tại các bộ phận trong nội bộ đơn vị. Từ đó giúp nhà nước và các
nhà quản trị đơn vị thực hiện chức năng quản lý đối với đơn vị.
1.3.2. Nhiệm vụ của kế toán:
Để thực hiện được hai chức năng tổ chức thông tin và kiểm tra hoạt động kinh
tế, tài chính trong các đơn vị và phát huy vai trị của mình trong hệ thống cơng cụ quản
lý kinh tế, nhiệm vụ cụ thể của kế toán gồm:

1.Thu thập, xử lý thơng tin, số liệu kế tốn theo đối tượng và nội dung cơng việc kế
tốn, theo chuẩn mực và chế độ kế toán.
Mỗi một đơn vị kế toán, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đều phải
có một lượng tài sản nhất định và được biểu hiện dưới nhiều dạng vật chất, đó là
những tài sản cố định ( máy móc, thiết bị, nhà cửa, quyền sử dụng đất…), vật tư hàng
hoá, tiền và các tài sản khác. Những tài sản này được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau, có thể do nhà nước hoặc cấp trên cấp, do các tập thể, cá nhân đóng góp hoặc
được hình thành từ lợi nhuận của hoạt động kinh doanh …Trong quá trình hoạt động


8

của đơn vị, các tài sản này luôn biến động và có sự thay đổi về hình thái biểu hiện, về
lượng giá trị. Tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự biến động của tài sản qua các quá
trình hoạt động của đơn vị chính là đối tượng của kế tốn. Với vai trị quan trọng của
mình trong quản lý kinh tế tài chính, kế tốn phải thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lý
thông tin, số liệu về các đối tượng này theo các chỉ tiêu số lượng, giá trị, chất lượng,
địa điểm bảo quản, người chịu trách nhiệm vật chất theo đúng các nguyên tắc, quy
định của luật kế tốn, chuẩn mực và chính sách chế độ kế tốn. Q trình thu thập, xử
lý thơng tin, số liệu của kế tốn phải theo đúng trình tự, nội dung cơng việc kế tốn đã
được quy định thơng qua hệ thống phương pháp kế toán, bao gồm các phương pháp
chứng từ kế tốn, tài khoản kế tốn, tính giá và tổng hợp cân đối kế toán.
2.Kiểm tra, giám sát các khoản thu chi tài chính, các nghĩa vu thu, nộp, thanh toán nợ;
kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế tốn.
Với chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị kế tốn,
kế tốn có nhiệm vụ phải thường xun kiểm tra giám sát việc chấp hành các chế độ
chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước tại đơn vị.
Chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước chính là việc thể chế
hố đường lối, chủ trương chính sách của Đảng trong tổ chức quản lý, xây dựng và

phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cho cả hệ thống kinh tế quốc dân hoạt động, thống
nhất, ổn định đúng đinh hướng phát triển trong phạm vi khn khổ của các chính sách
chế độ đó. Do đó yêu cầu các đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động trong nền kinh tế quốc
dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của
Nhà nước đã ban hành.
Kế tốn thơng qua việc ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế, tài chính về
nhập, xuất vật tư, hàng hố, tài sản và thanh tốn các khoản cơng nợ, về thu chi,
…đồng thời thực hiện việc kiểm tra nội dung nghiệp vụ kinh tế đó có đúng chính sách,
chế độ của Nhà nước, chế độ kế toán hiện hành mà đơn vị đang áp dụng khơng. Từ đó
kịp thời phát hiện và ngăn chặn các sai phạm trong quản lý kinh tế tài chính của đơn vị
và các cá nhân có liên quan. Mặt khác, kế toán cũng thúc đẩy đơn vị thực hiện đầy đủ
triệt để các yêu cầu của chế độ kế tốn, khơng ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh.
3. Phân tích thơng tin, số liệu kế toán; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu
cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính của đơn vị kế toán.
Sau khi thu nhận, xử lý các thơng tin, kế tốn cón có nhiệm vụ phân tích, đánh
giá thực trạng hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của đơn vị, phát hiện ra các
tồn tại, yếu kém về hoạt động sản xuất kinh doanh, về khả năng thanh tốn của đơn vị
…từ đó đề xuất ra các giải pháp để khắc phục, đồng thời dự đốn tình hình hoạt động
của đơn vị trong tương lai, phát hiện ra tiềm năng, thế mạnh của đơn vị chưa được
khai thác hết giúp Ban lãnh đạo đơn vị đề ra các giải pháp phù hợp, đúng đắn đem lại
hiệu quả hoạt động ngày càng cao.


9

4. Cung cấp thơng tin, số liệu kế tốn theo quy định của pháp luật.
Thông tin, số liệu do kế tốn thu thập, xử lý, ngồi việc cung cấp cho các nhà
quản trị trong nội bộ đơn vị để điều hành và kiểm soát các hoạt động của đơn vị cịn
phải cung cấp cho các đối tượng bên ngồi đơn vị theo quy định của pháp luật thông

qua hệ thống báo cáo tài chính. Thơng tin trên hệ thống báo cáo tài chính của đơn vị kế
tốn sẽ là căn cứ quan trọng để các đối tượng bên ngoài đơn vị đưa ra các quyết định
về quản lý, về đầu tư, về các mối quan hệ kinh tế đối vơi đơn vị.
Bốn nhiệm vụ trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Kế toán phải thực hiện đầy
đủ, đồng bộ các nhiệm vụ này mới phát huy được một cách tích cực, hiệu quả vai trị
của mình là cơng cụ phục vụ quản lý kinh tế tài chính.
1.3.3. Yêu cầu cơ bản của kế toán
Để phát huy và thực hiện được vai trị là cơng cụ quản lý quan trọng, hiệu quả
quá trình thu thập, xử lý và cung cấp thơng tin của kế tốn phải đảm bảo các u cầu
sau:
- Đầy đủ: Phải phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào
chứng từ kế tốn, sổ kế tốn và báo cáo tài chính.
Nếu thơng tin kế tốn cung cấp khơng đầy đủ có thể dẫn tới sự nhận thức sai
lệch, phân tích đánh giá khơng đúng đắn hoạt động của đơn vị, từ đó đưa ra những
quyết định không phù hợp, không đem lại hiệu quả cho đơn vị và xã hội.
- Kịp thời: Phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định thông tin số liệu kế tốn
Thơng tin về hoạt động tài chính, kinh tế của đơn vị kế tốn phải được báo cáo
trung thực, đầy đủ và kịp thời mới đáp ứng yêu cầu và giúp cho công tác quản lý phát
hiện yếu kém, tồn tại để tìm biện pháp khắc phục, phát huy thế mạnh nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động
- Rõ ràng, dễ hiểu và chính xác: Thơng tin số liệu kế toán phải được phản ánh
rõ ràng, dễ hiểu và chính xác.
Thơng tin và số liệu kế tốn trình bày trên báo cáo tài chính phải là những thơng
tin chính xác, có cơ sở pháp lý chắc chắn và phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử
dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, kinh tế, kế
tốn tài chính ở mức độ trung bình. Thơng tin về những vấn đề phức tạp trong báo cáo
tài chính phải được giải trình trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
- Trung thực: Các thơng tin và số liệu kế tốn phản ánh phải trung thực, đúng
thực tế về hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế, tài
chính.

- Liên tục: Thơng tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi kết
thúc hoạt động kinh tế tài chính, từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn
vị kế toán, số liệu kế toán phản ánh kỳ này phải kế tiếp theo số liệu kê toán kỳ trước.
- Khoa học và có thể so sánh: Phân loại, sắp xếp thơng tin số liệu kế tốn theo
trình tự, có hệ thống và có thể so sánh được.


10

Thơng tin số liệu kế tốn phải được phân loại, phản ánh và trình bày theo đúng
các phương pháp kế tốn mới có thể đáp ứng u cầu kịp thời phục vụ cho công tác
quản lý và yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng thông tin. Mặt khác để giúp
người sử dụng thông tin, sôốliệu kế tốn có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động của
đơn vị kế toán làm cơ sở đưa ra các quyết định kinh tế đúng đắn thì thơng tin số liệu kế
tốn phải đảm bảo tính có thể so sánh được. Các thơng tin và số liệu kế tốn chỉ có thể
so sánh được khi được tính tốn và trình bày nhất qn. Tính có thể so sánh được và
nhất qn của thơng tin kế tốn cịn là cơ sỏ để tính tốn tổng hợp các chỉ tiêu của từng
ngành, toàn bộ nền kinh tế quốc dân
1.4. Phân loại hạch tốn kế tốn
Kế tốn là cơng cụ quan trọng khơng thể thiếu trong hệ thống công cụ quản lý
kinh tế. Để sử dụng kế tốn phục vụ quản lý có hiệu quả cao, cần phải hiểu rõ nội
dung, phạm vi, mục đích… của kế tốn tức là phải hiểu rõ về các loại kế tốn. Kế tốn
có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.4.1. Theo cách thức ghi chép, thu nhận thơng tin, kế tốn được chia thành:
- Kế toán ghi đơn: là loại kế toán thực hiện việc ghi chép thu nhận thông tin về
các nghiệp vụ kinh tế tài chính một cách độc lập, riêng biệt theo từng đối tượng kế
toán. Kế toán ghi đơn không phản ánh được mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán
khác nhau.
Kế toán ghi đơn được thực hiện ngay từ thời kỳ đầu hình thành kế tốn, để ghi
chép các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hố. Ngày nay, kế tốn ghi đơn vẫn cịn

được thực hiện để ghi chép, phản ánh thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính có
liên quan đến tài sản của đơn vị một cách chi tiết, cụ thể, đáp ứng yêu cầu quản lý.
- Kế toán ghi kép: là loại kế toán thực hiện việc ghi chép, thu nhận các thông tin
về các nghiệp vụ kinh tế tài chính theo đúng nội dung, sự vận động biện chứng giữa
các đối tượng kế toán.
Kế toán ghi kép được thực hiện vào thời kỳ mà kế tốn đã có những bước phát
triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Và ngày nay, kế toán kép được
thực hiện rất phổ biến để ghi chép, thu nhận thông tin về hoạt động kinh tế tài chính có
liên quan đến tài sản, nguồn vốn của đơn vị ở mức độ tổng quảt, đáp ứng nhu cầu quản
lý.
1.4.2. Theo mức độ, tính chất của thơng tin, kế tốn được chia thành:
- Kế toán tổng hợp: là loại kế toán mà thơng tin kế tốn được ghi chép, thu nhận
theo những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, bằng thước đo giá trị.
- Kế toán chi tiết: là loại kế toán mà thông tin được ghi nhận, xử lý và cung cấp
ở dạng chi tiết, cụ thể về một chỉ tiêu tổng hợp do kế toán tổng hợp thực hiện. Các chỉ
tiêu chi tiết có thể được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ, hiện vật hoặc thước đo lao
động.
1.4.3. Theo phạm vi thơng tin kế tốn cung cấp, kế tốn được chia thành:


11

- Kế tốn tài chính: là loại kế tốn thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung
cấp thơng tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho các đối tượng có nhu cầu sử
dụng thơng tin của đơn vị kế toán.
Sản phẩm của kế toán tài chính là hệ thống báo cáo tài chính của đơn vị. Vì vậy
đối tượng chủ yếu sử dụng thơng tin do kế tốn tài chính cung cấp là nhà đầu tư, nhà
cung cấp, khách hàng, chủ nợ, cổ đông… ở bên ngồi đơn vị kế tốn. Kế tốn tài chính
thường sử dụng một loại thước đo là thước đo giá trị.
- Kế toán quản trị: là loại kế toán thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thơng

tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ
đơn vị kế toán.
Sản phẩm của kế toán quản trị là các báo cáo về từng mặt, từng bộ phận của quá
trình hoạt động kinh doanh, phục vụ chức năng quản lý nội bộ đơn vị: lập kế hoạch,
điều hành thực hiện, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, giúp đơn vị kinh
doanh đúng hướng, khai thác và sử dụng có hiệu quả tồn bộ nguồn lực của đơn vị.
Như vậy đối tượng sử dụng thơng tin của kế tốn quản trị là các nhà quản trị
các cấp trong nội bộ đơn vị kế toán. Các chỉ tiêu chi tiết của kế tốn quản trị có thể
được biểu hiện bằng cả ba loại thước đo.
1.4.4. Theo tính chất và nội dung nghiệp vụ chun mơn, kế tốn được chia thành:
- Kế tốn cơng: là loại kế tốn được tiến hành ở những đơn vị hoạt động khơng
có tính chất kinh doanh, khơng vì mục đích lợi nhuận.
Kế tốn cơng được sử dụng ở các đơn vị hành chính sự nghiệp của các Bộ, các
Sở, Ban ngành các tổ chức Nhà nước, đồn thể xã hội …
- Kế tốn doanh nghiệp: là loại kế toán được tiến hành ở các đơn vị hoạt động
có tính chất kinh doanh, vì mục đích lợi nhuận. Đó chính là các doanh nghiệp thuộc
các lĩnh vực, các thành phần kinh tế.

2. Một số khái niệm và nguyên tắc kế toán.
2.1. Một số khái niệm cơ bản của kế toán.
* Khái niệm đơn vị kế toán.
Đơn vị kế tốn là đơn vị mà ở đó có sự kiểm soát các nguồn lực, tài sản và tiến
hành các hoạt động kinh doanh cùng quá trình ghi chép, tổng hợp và báo cáo.
Đơn vị kế toán là một khái niệm cơ bản nhất trong kế toán, quy định phạm vi
giới hạn của đơn vị được kế toán. Khái niệm đơn vị kế toán quy định các nghiệp vụ
của mỗi đơn vị phải được tổ chức kế toán riêng biệt với các nghiệp vụ của những tổ
chức, đơn vị và cá nhân khác. Có thể nói, khái niệm đơn vị kế toán chỉ rõ, các tài
khoản kế toán được đơn vị lập ra để ghi chép cho chính đơn vị đó, chứ khơng phải cho
các chủ nhân hoặc những người có liên quan đến nó. Như vậy những nghiệp vụ khơng
ảnh hưởng đến đơn vị kế tốn thì các kế tốn viên khơng phải ghi chép.

Trong cơ cấu nền kinh tế xã hội, các đơn vị kế toán gồm:


12

- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách
Nhà nước.
- Đơn vị sự nghiệp, tổ chức khơng sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước.
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo
pháp luật, chi nhánh văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam.
- Hợp tác xã.
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.
* Khái niệm kỳ kế toán.
Hoạt động của các đơn vị kế toán diễn ra liên tục, năm này qua năm khác. Nếu
chờ đến khi tất cả các hoạt động này ngừng lại, khi đó kế tốn mới lập báo cáo tài
chính thì thơng tin trên các báo cáo tài chính do các đơn vị kế tốn cung cấp sẽ khơng
có tác dụng cho sự quản lý điều hành của các nhà quản lý. Do đó, để cung cấp kịp thời
các thơng tin cần thiết, kế toán phải phân chia hoạt động liên tục của đơn vị kế tốn
thành các kỳ, có độ dài thời gian bằng nhau để dễ dàng so sánh, đánh giá, kiểm tra tình
hình hoạt động trong từng kỳ của đơn vị kế toán.
Kỳ kế toán là khoảng thời gian xác định từ thời điểm đơn vị kế toán bắt đầu ghi
sổ kế toán đến thời điểm kết thúc việc ghi sổ kế toán, khoá sổ kế toán để lập báo cáo
tài chính.
Khái niệm này dựa trên giả thiết là hoạt động của đơn vị kế toán sẽ ngừng lại
vào một thời điểm nào đó để kế tốn có thể lập các báo cáo tài chính, tổng kết tình
hình và kết quả hoạt động mà đơn vị kế toán đã đạt được tính đến thời điểm đó. Kỳ kế
tốn được xác định dựa vào sự phân chia thời gian của năm dương lịch. Theo quy định
chung kỳ kế tốn chính thức là 1 năm (12 tháng) gọi là niên độ kế tốn. Ngồi ra tuỳ
theo u cầu quản lý, các quốc gia, đơn vị có thể quy định các kỳ kế toán tạm thời như

tháng, quý, nửa năm. Cụ thể quy định hiện hành về kỳ kế toán tại Việt Nam:
- Kỳ kế tốn năm là 12 tháng, tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng
12 năm dương lịch. Đơn vị kế tốn có đặc thù riêng về tổ chức, hoạt động kinh doanh
được chọn kỳ kế toán năm là mười hai tháng trịn nhưng khơng bắt buộc phải đúng
theo năm dương lịch và thông báo cho cơ quan t chính biết.
- Kỳ kế tốn q là 3 tháng, tính từ đầu ngày 01 tháng đầu quý đến hết ngày
cuối cùng của tháng cuối quý.
- Kỳ kế toán tháng là một tháng, tính từ đầu ngày 01 đến hết ngày cuối cùng của
tháng.
Đối với mỗi kỳ kế toán tháng, quý, năm đơn vị kế toán lập Báo cáo tài
chính(BCTC) tương ứng là BCTC tháng, quý, năm tuỳ theo yêu cầu quản lý của đơn
vị.
* Khái niệm thước đo tiền tệ.


13

Thước đo tiền tệ là sử dụng đơn vị tiền tệ để đo lường các loại tài sản, hàng hoá,
vật tư và các hoạt động của đơn vị. Sử dụng khái niệm này, kế toán gỉa thiết rằng sự
thay đổi của sức mua tiền tệ là không đủ lớn để ảnh hưởng đến việc đo lường của kế
toán. Điểm này cũng có nghĩa, kế tốn chỉ phản ánh những đối tượng có thể biểu hiện
được bằng tiền.
Thước đo tiền tệ là thước đo được sử dụng chủ yếu trong ghi chép kế toán và
lập BCTC. Các đơn vị kê toán phải sử dụng đơn vị tiền tệ thống nhất là đồng tiền do
Nhà nước sở tại quy định. Trong trường hợp nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến
các đồng tiền khác, cần phải quy đổi về đơn vị tiền tệ đã quy định để ghi chép theo các
nguyên tắc nhất định.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của kế tốn.
Kế tốn là một mơn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản,
sự vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kỉêm tra, giám sát toàn bộ tài sản và các

hoạt động kinh tế tài chính của các đơn vị đó. Thơng tin kế tốn cịn cần cho rất nhiều
đối tượng khác nhau, mặt khác một đối tượng nào đó có thể cần thơng tin kế tốn của
nhiều đơn vị khác nhau – thơng tin kế tốn phải đảm bảo vai trị là “ngơn ngữ kinh
doanh”. Do đó để các đối tượng sử dụng thơng tin kế tốn có chung một cách đánh giá
về thơng tin trên báo cáo tài chính của các đơn vị kế tốn thì cần phải đặt ra những
nguyên tắc hướng dẫn thực hành việc ghi chép, xử lý và trình bày thơng tin trên các
báo cáo tài chính.
Các ngun tắc kế tốn được đúc rút từ những kinh nghiệm thực tiễn tổ chức
quản lý công tác kế tốn, cũng như hoạt động của người thực hiện cơng tác kế toán và
kết hợp với sự nghiên cứu của những cơ quan chức năng, các chuyên gia kế toán, Do
đó các ngun tắc kế tốn được thừa nhận là những tuyên bố chung như những chuẩn
mực, mực thước và những hướng dẫn để phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính
đạt được các mục tiêu đầy đủ, dễ hiểu, đáng tin cậy và dễ so sánh.
2.2.1. Nguyên tắc cơ sở dồn tích.
Nguyên tắc cơ sở dồn tích quy định mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh
nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí
phải được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu,
chi tiền hoặc các khoản tương đương tiền (vàng, bạc, đá quý, chứng khoán ngắn
hạn…)
Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở dồn tích, phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp trong q khứ, hiện tại và tương lai.
Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong q trình kế tốn của doanh nghiệp. Ngun tắc cơ
sở dồn tích đối lập với nguyên tắc cơ sở tiền mặt. Theo cơ sở tiền mặt thì mọi nghiệp
vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi thực tế thu, chi tiền. Báo
cáo tài chính lập theo cơ sở tiền mặt sẽ không phản ánh đúng thực tế kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, hệ thống kế tốn doanh nghiệp Việt Nam và hầu


14


hết các quốc gia trên thế giới quy định các doanh nghiệp phải ghi chép kế toán và lập
BCTC theo cơ sở dồn tích.
2.2.2. Nguyên tắc hoạt động liên tục.
Một doanh nghiệp khi thành lập đi vào hoạt động, sẽ chỉ có thể xảy ra hai khả năng:
1. Sẽ tiếp tục hoạt động liên tục, hay ít nhất sẽ khơng bị giải thể hoặc ngừng
hoạt động trong tương lai gần.
2. Ngừng hoạt động.
Kế toán thừa nhận khả năng doanh nghiệp hoạt động liên tục.
Theo nguyên tắc này, báo cáo tài chính được lập trên cơ sở giả định doanh
nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động bình thường trong tương lai
gần, nghĩa là doanh nghiệp khơng có ý định cũng như khơng buộc phải ngừng hoạt
động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình.
Giả thiết doanh nghiệp hoạt động liên tục liên quan đến việc phản ánh tài sản,
thu nhập, cho phí của doanh nghiệp theo giá gốc, không phản ánh theo giá thị trường.
Mặc dù, giá trị thị trường của những tài sản mà doanh nghiệp mua về để tồn trữ hoặc
đang sử dụng cho mục đích kinh doanh có thể thay đổi theo thời gian. Giả hiết này
được đặt ra với lập luận doanh nghiệp hoạt động liên tục nên tài sản được sử dụng để
hoạt động sản xuất kinh doanh và không được bán, nên giá thị trường của tài sản là
khơng thích hợp và khơng cần thiết để phản ánh. Mặt khác, nếu phản ánh tài sản theo
giá thực tế, báo cáo tài chính của đơn vị chỉ phản ánh được tình hình tài chính của
doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại mà thôi. Mặt khác, nguyên tắc này cịn làm cơ sở
cho các phương pháp tính hao mịn để phân chia giá trị tài sản cố định vào các chi phí
hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian hoạt động của nó.
Tuy nhiên, khi một doanh nghiệp chuẩn bị bán, sát nhập, giải thể … thì nguyên
tắc hoạt động liên tục sẽ không được vận dụng vào việc lập các báo cáo tài chính.
Trong trường hợp này, các tài sản của doanh nghiệp sẽ phải phản ánh theo giá trị thị
trường.
2.2.3. Nguyên tắc giá gốc
Theo nguyên tắc này, tài sản được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc tài sản được
tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp

lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Như vậy, khi vận dụng nguyên
tắc giá gốc, chỉ được đánh giá giá trị tài sản dựa trên căn cứ tiền mặt hoặc tương
đương tiền mặt. Nếu vật đền bù cho một tài sản hoặc dịch vụ khơng phải là tiền mặt
(tài sản khác, tài trợ…) thì chi phí được đánh giá theo giá trị tiền mặt tương đương giá
thị trường của vật trao đổi hoặc vật nhận được.
Nguyên tắc giá gốc được quy định trên nền tảng của nguyên tắc hoạt động liên
tục. Với giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục, nên trên Báo cáo tài chính, giá trị
các chỉ tiêu về tài sản, cơng nợ, chi phí … được phản ánh theo giá ở thời điểm mua tài
sản đó, khơng phải giá trị tại thời điểm xác định giá tài sản tính theo giá thị trường.


15

2.2.4. Nguyên tắc phù hợp
Nguyên tắc phù hợp quy định, việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp
với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu, phải ghi nhận một khoản chi phí tương
ứng liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó.
Chi phí tương ứng với doanh thu gồm:
1.Chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, đó là các chi phí đã phát sinh thực tế trong ký
và liên quan đến việc tạo ra doanh thu của kỳ đó.
2.Chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu
của kỳ đó.
Như vậy chi phí được ghi nhận trong kỳ là tồn bộ các khoản chi phí liên quan
đến việc tạo ra doanh thu và thu nhập của kỳ đó, khơng phụ thuộc khoản chi phí đó
được chi ra trong kỳ nào.
Quy định hạch toán phù hợp giữa doanh thu và chi phí nhằm xác định và đánh
giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh của từng kỳ kế toán, giúp cho các nhà quản trị
có những quyết định kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả.
2.2.5. Nguyên tắc nhất quán.
Theo nguyên tắc nhất quán, các chính sách, phương pháp kế toán doanh nghiệp

đã chọn phải được áp dụng nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác. Chỉ nên thay đổi chính
sách và phương pháp kế tốn khi có lý do đặc biệt và ít nhất phải sang kỳ kế tốn sau.
Trường hợp có sự thay đổi chính sách và phương pháp kế tốn đã chọn, phải giải trình
lý do và công bố đầy đủ ảnh hưởng của sự thay đổi đó về giá trị trong các báo cáo tài
chính.
Thơng tin về đơn vị kế tốn trên Báo cáo tài chính là cơ sở quan trọng để các
đối tượng sử dụng thơng tin nhận thức đúng về tình hình tài chính làm cơ sở để ra các
quyết định kinh doanh. Do đó những thơng tin này phải mang tính ổn định và có thể so
sánh được giữa các kỳ với nhau, giữa kế hoạch, dự toán và thực hiện…Nguyên tắc
nhất quán sẽ đảm bảo cho thơng tin kế tốn có được tính chất trên.
2.2.6. Nguyên tắc thận trọng
Thận trọng là việc phải xem xét, cân nhắc, có những phán đốn cần thiết để lập
các ước tính kế tốn trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng yêu
cầu việc ghi tăng vốn chủ sở hữu chỉ được thực hiện khi có bằng chứng chắc chắn, cịn
việc ghi giảm vốn chủ sở hữu phải được ghi nhận ngay từ khi có chứng cứ về khả năng
có thể xảy ra. Cụ thể:
+ Phải lập các khoản dự phòng đúng nguyên tắc quy định
+ Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập
+ Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí
+ Doanh thu và thu nhập chỉ ghi nhận khi có các bằng chứng chắc chắn.
+ Chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.


16

Tuân thủ nguyên tắc thận trọng sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo toàn nguồn vốn,
hạn chế rủi ro và tăng khả năng hoạt động liên tục.
2.2.7. Nguyên tắc trọng yếu.
Nguyên tắc trọng yếu chỉ rõ kế toán phải thu thập, xử lý và cung cấp đầy đủ
những thơng tin có tính chất trọng yếu, cịn những thơng tin khơng trọng yếu, ít có tác

dụng hoặc có ảnh hưởng khơng đáng kể tới quyết định của người sử dụng thông tin thì
có thể bỏ qua.
Thơng tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thơng tin hoặc thiếu
độ chính xác của thơng tin đó có thể làm sai lệch đáng kế báo cáo tài chính, làm ảnh
hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng thơng tin. Tính trọng yếu phụ thuộc
vào độ lớn và tính chất của thơng tin hoặc các sai sót kế tốn được đánh giá trong hồn
cảnh cụ thể, Tính trọng yếu của thơng tin phải được xem xét trên cả phương diện định
lượng và định tính. Vận dụng nguyên tắc này, những khoản mục có cùng nội dung,
bản chất kinh tế, khơng phụ thuộc vào quy mơ có thể được gộp lại thành một khoản
mục trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên vẫn có những khoản mục, có thể quy
mơ rất nhỏ nhưng nội dung, bản chất kinh tế riêng biệt mang tính trọng yếu phải trình
bày riêng biệt trên báo cáo tài chính.

3. Đối tượng của hạch tốn kế tốn
3.1. Đối tượng chung của hạch toán kế toán.
Kế toán là một mơn khoa học kinh tế có đối tượng nghiên cứu riêng. Đối tượng
của hạch toán kinh tế là quá trình tái sản xuất xã hội. Kế tốn là một bộ phận của hạch
toán kinh tế, nghiên cứu đối tượng kế toán là nghiên cứu các nội dung, các bộ phận
của quá trình tái sản xuất xã hội mà kế tốn phản ánh và giám đốc.
Với vai trị của kế tốn là cơng cụ quản lý kinh tế, giám sát chặt chẽ, có hiệu
quả mọi hoạt động kinh tế tài chính, cung cấp thơng tin đầy đủ, trung thực, kịp thời,
công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý điều hành của cơ quan Nhà
nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Kế toán được thực hiện ở tất cả các tổ chức,
xí nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, các cơ quan hành chính sự
nghiệp và các tổ chức khác có sử dụng kinh phí của nhà nước hoặc khơng sử dụng
kinh phí của nhà nước (đơn vị kế tốn). Đồng thời với đặc trưng của kế toán là sử
dụng thước đo tiền tệ là thước đo chuyên dùng. Do đó đối tượng của kế tốn là tài sản,
nguồn hình thành tài sản, sự biến động của tài sản trong các quá trình hoạt động kinh
tế tài chính, các quan hệ kinh té pháp lý ngoài tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị.
Mỗi đơn vị, tổ chức khi thành lập và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ

nhất định đều cần một lượng tài sản nhất định. Trong quá trình hoạt động các đơn vị
phải quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả mọi tài sản hiện có. Quản lý tài sản cần thiết
phải biết được tài sản của đơn vị hiện có là bao nhiêu, nó bao gồm các loại gì, số lượng
của từng loại, đồng thời phải biết được tài sản của đơn vị được hình thành từ nguồn
nào? Tài sản và nguồn hình thành tài sản là hai mặt khác nhau của cùng một khối


17

lượng tài sản. Kế tốn là cơng cụ quản lý trong từng đơn vị phải ghi nhận, phản ánh
được tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản, như vậy tài sản và nguồn hình thành
tài sản là đối tượng của hạch tốn kế tốn.
Trong q trình hoạt động của đơn vị do tác động của các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh, tài sản và nguồn hình thành tài sản ln biến động, nó chuyển hố từ hình
thái này sang hình thái khác.Ví dụ: hàng hóa được mua vào, bán ra; tiền mặt được thu
vào, chi ra …Quản lý tài sản phải biết được tài sản hiện có, mặt khác phải biết được sự
biến động của tài sản qua các q trình hoạt động kinh tế tài chính diễn ra. Do đó kế
tốn phản ánh tài sản hiện có đồng thời phải phản ánh sự biến động của tài sản trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh… Tức là sự biến động tài sản trong quá trình
hoạt động kinh tế tài chính là đối tượng của kế tốn.
Trong các đơn vị, ngoài các quan hệ kinh tế liên quan đến tài sản của đơn vị
còn phát sinh các quan hệ kinh tế liên quan đến tài sản không thuộc quyền sở hữu của
đơn vị nhưng đơn vị có trách nhiệm quản lý, bảo quản ( quan hệ kinh tế pháp lý ngồi
tài sản của đơn vị) ví dụ: quan hệ vật tư hàng hoá nhận gửi hộ, bán hộ, quan hệ TSCĐ
thuê ngoài, quan hệ hợp đồng kinh tế…Kế tốn là cơng cụ quản lý cùng với việc phản
ánh các quan hệ kinh tế liên quan tài sản của đơn vị phải phản ánh cả các quan hệ kinh
tế liên quan đến tài sản không thuộc quyền sở hữu của đơn vị, do đó quan hệ kinh tế
pháp lý ngoài tài sản của đơn vị là đối tượng của hạch toán kế toán.
3.2. Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị.
Để nghiên cứu đầy đủ, rõ ràng đối tượng kế toán cần đi sâu nghiên cứu nội

dung cụ thể của đối tượng kế toán trong đơn vị thuộc lĩnh vực cụ thể - đơn vị sản xuất
kinh doanh (doanh nghiệp, một đơn vị cơ sở của nền kinh tế. Việc nghiên cứu nội
dung cụ thể đối tượng kế toán trong doanh nghiệp một cách khoa học là cơ sở để xác
định nội dung cụ thể của đối tượng kế toán trong các đơn vị thuộc lĩnh vực khác.
Doanh nghiệp là đơn vi kinh tế cơ sở, để tiến hành hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ đã được xác định cần phải có lượng tài sản nhất định như nhà cửa,
máy móc, phương tiện vận chuyển, hàng hoá …Quản lý tài sản trong doanh nghiệp,
các nhà quản lý cần biết rõ các loại tài sản, nguồn hình thành tài sản để sử dụng hợp
lý, có hiệu quả các loại tài sản và khai thác huy động triệt để nguồn vốn, có nghĩa là
cần phải phân loại tài sản theo kết cấu và theo nguồn hình thành.
3.2.1. Phân loại tài sản theo kết cấu:
Trong các doanh nghiệp, tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm sốt và có
thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Lợi ích kinh tế trong tương lai của tài sản
là tiềm năng làm tăng nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp
hoặc làm giảm bớt những khoản tiền mà doanh nnghiệp phải chi ra. Tài sản của doanh
nghiệp được biểu hiện dưới hình thái vật chất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị vật tư
hàng hố hoặc khơng thể hiện dưới hình thái vật chất như bản quyền, bằng sáng chế.


18

Tài sản xét theo tính chất và yêu cầu quản lý bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài
hạn.
* Tài sản ngắn hạn: là những tài sản được dự tính để bán hoặc sử dụng trong
khn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp
hoặc
Được nắm giữ chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn
và dự kiên thu hồi hoặc thanh tốn trong vịng 12 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ.
hoặc
Là tiền, tài sản tương đương tiền mà việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.

Trong doanh nghiệp tài sản ngắn hạn bao gồm:
- Tài sản bằng tiền và các khoản tương đương tiền: là bộ phận tài sản tồn tại
dưới hình thái tiền tệ như tiền mặt ở quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển và các
khoản đầu tư ngắn hạn có thời gian thu hồi hoặc đáo hạn khơng q 3 tháng, có khả
năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định và khơng có rủi ro trong
chuyển đổi thành tiền.
- Tài sản là khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là bộ phận tài sản đơn vị đem đầu
tư ra bên ngoài với mục đích để đem lại lợi nhuận như giá trị các loại chứng khốn, giá
trị vốn góp, các khoản cho vay mà thời hạn thu hồi trong vòng một năm.
- Tài sản là các khoản phải thu ngắn hạn: là bộ phận giá trị tài sản của doanh
nghiệp đang nằm ở khâu thanh toán doanh nghiệp phải thu và có thời hạn thanh tốn
trong vịng một năm như các khoản phải thu người mua, các khoản tạm ứng, khoản thu
bồi thường vật chất … đây chính là bộ phận tài sản của đơn vị để cá nhân và đơn vị
khác chiếm dụng một cách hợp pháp hoặc không hợp pháp.
- Tài sản là hàng tồn kho: là toàn bộ giá trị hàng tồn kho đang trong quá trình
kinh doanh thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm: công cụ dụng cụ, nguyên vật liệu, hàng
hố trong kho, hàng mua đang đi đường, hàng hóa gửi đi bán chưa xác định tiêu thụ…
-Tài sản ngắn hạn khác: là giá trị tài sản ngoài các tài sản ngắn hạn trên và có
thời hạn thu hồi hoặc thanh toán trong một năm hoặc một chu kỳ hoạt động như các
khoản chi phí trả trước ngắn hạn, các khoản ký cược, ký quỹ ngắn hạn
* Tài sản dài hạn: là những tài sản khác của doanh nghiệp ngoài tài sản ngắn
hạn, bao gồm: các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, tài sản
đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.
- Tài sản là các khoản phải thu dài hạn: là giá trị các khoản doanh nghiệp phải
thu có thời hạn thu hồi hoặc thanh tốn trên một năm hoặc hơn một chu kỳ kinh doanh,
bao gồm phải thu khách hàng, phải thu nội bộ, số vốn đã giao cho các đơn vị trực
thuộc…



19

- Tài sản cố định: là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, tham
gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, trong quá trình sử dụng bị hao mịn dần. Tài
sản được ghi nhận là tài sản cố định khi thoả mãn đồng thời các tiêu chuẩn sau:
+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
+ Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy.
+ Thời gian sử dụng ước tính trên một năm
+ Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định.
Tài sản cố định trong doanh nghiệp xét theo hình thái biểu hiện bao gồm:
. Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất do doanh
nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn
ghi nhận tài sản cố định như nhà kho, cửa hàng, phương tiện vận tải…
+ Tài sản cố định vơ hình: là những tài sản khơng có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị, do doanh nghiệp nắm giữ và phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận tài
sản cố định như quỳên sử dụng đất, bằng sáng chế, bản quyền…
- Tài sản là các bất động sản đầu tư: là giá trị của toàn bộ quyền sử dụng đất,
nhà hoặc một phần của nhà, hoặc cả nhà và đất của doanh nghiệp hiện nắm giữ với
mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong
sản xuất kinh doanh hoặc để bán trong kỳ kinh doanh thông thường.
- Tài sản là các khoản đầu tư tài chính dài hạn: là bộ phận tài sản của doanh
nghiệp được đem đầu tư ra bên ngồi doanh nghiệp với mục đích để sinh lời, có thời
hạn thu hồi lớn hơn một năm như các loại chứng khốn dài hạn, vốn góp liên doanh
dài hạn dưới hình thức thành lập cơ sở kinh doanh đồng kiểm sốt, đầu tư vào cơng ty
con, cơng ty liên kết…
- Tài sản dài hạn khác: là giá trị các tài sản ngoài các tài sản dài hạn trên và có
thời hạn thu hồi hoặc thanh tốn trên một năm như các khoản chi phí trả trước dài hạn,
chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
Trong các doanh nghiệp khác nhau kết cấu các loại tài sản khác nhau và trong
cùng một đơn vị kết cấu tài sản giữa các thời kỳ cũng khác nhau. Do đó để quản lý

chặt chẽ và đảm bảo sử dụng tài sản hiệu quả cần phải nghiên cứu có các giải pháp,
quyết định sao cho kết cấu tài sản của đơn vị hợp lý nhất. Hạch toán kế toán phản ánh
tài sản của đơn vị không chỉ phản ánh tổng số tài sản mà phản ánh cụ thể từng loại tài
sản.
3.2.2. Phân loại tài sản theo nguồn hình thành
Trong các doanh nghiệp, tài sản được hình thành từ các nguồn khác nhau đó là:
* Nợ phải trả: là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các giao dịch
và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lực của mình. Đó là
tồn bộ các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh đơn vị phải trả cho các chủ
nợ nhưng chưa bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn.


20

Nợ ngắn hạn là các khoản nợ được dự kiến thanh tốn trong một chu kỳ kinh
doanh bình thường của doanh nghiệp, hoặc được thanh tốn trong vịng 12 tháng kể từ
ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Nợ dài hạn là các khoản nợ ngoài các khoản nợ ngắn
hạn. Trong các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn gồm các khoản nợ tiền vay ( nợ tín dụng)
và các nợ phải trả người cung cấp, phải trả công nhân viên, các khoản phải nộp nhà
nước. Thực chất nợ phải trả là tài sản đơn vị đi chiếm dụng một cách hợp pháp hay
không hợp pháp của cá nhân, tổ chức, các đơn vị khác.
* Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có
quyền sử dụng lâu dài trong q trình hoạt động và khơng phải cam kết thanh toán.
Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau:
Xét theo nguồn hình thành bao gồm:
- Vốn của các nhà đầu tư là vốn của chủ doanh nghiệp, vốn góp, vốn cổ phần,
vốn nhà nước.
- Thặng dư vốn cổ phần là chênh lệch giữa mệnh giá cổ phiều với giá thực tế
phát hành.
- Lợi nhuận giữ lại là phần lợi nhuận sau thuế giữ lại để tích luỹ bổ sung vốn.

- Các quỹ như quỹ dự trữ, quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển
- Lợi nhuận chưa phân phối là phần lợi nhuận sau thuế chưa chia cho chủ sở
hữu, hoặc chưa trích lập các quỹ.
- Các khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng, khi
doanh nghiệp hợp nhất báo cáo tài chính của các hoạt động ở nước ngoài, các khoản
chênh lệch do đánh giá lại tài sản khi có quyết định của nhà nước, hoặc khi đưa tài sản
đi góp vốn liên doanh.
Xét theo mục đích sử dụng, vốn chủ sở hữu bao gồm: nguồn vốn kinh doanh,
nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, các quỹ hình thành trong quá trình hoạt động như
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phịng tài chính và lợi nhuận chưa phân phối …
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhu cầu vốn giữa các thời kỳ khác
nhau do đó việc nhận biết nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn) để có biện pháp khai
thác huy động đảm bảo nhu cầu về vốn nhằm thúc đẩy hoạt động của đơn vị có hiệu
quả. Do đó hạch tốn kế tốn phải phản ánh giám đốc nguồn hình thành tài sản của
đơn vị.


21

Sơ đồ 1.1: Phân loại tài sản theo kết cấu:
TS bằng tiền và - Tiền mặt
tương
đương - Tiền gửi ngân hàng
tiền
- Tiền đang chuyển

TS ngắn
hạn

TS đầu tư TC - CK ngắn hạn

NH
- Đầu tư ngắn hạn khác
- Phải thu khách hàng
TS trong thanh
- Tạm ứng
tốn
- Phải thu nội bộ
- Cơng cụ, dụng cụ
- Nguyên vật liệu
TS là hàng tồn
- Hàng hóa
kho
- CP trả trước ngắn hạn

Tài sản

hạn - Cầm cố, ký quỹ ngắn
hạn

TS ngắn
khác

- TSCĐ hữu hình
TS cố định

- TSCĐ vơ hình
- TSCĐ th tài chính

Các
PTDH

Tài sản dài
hạn

khỏan - Phải thu khách hàng DH
- Phải thu nội bộ

BĐS đầu tư
- ĐT vào công ty con
Đầu tư TCDH

- ĐT vào công ty liên kết
- Góp vốn liên doanh
- CP trả trước dài hạn

TS dài hạn khác - XDCB dở dang
- Ký quỹ, ký cược dài hạn


22

Sơ đồ 1.2: Phân loại tài sản theo nguồn hình thành:

Nợ ngắn hạn

- Vay ngắn hạn
- Phải trả người bán

Nợ phải
trả


- Phải trả người lao động
- Vay dài hạn
Nợ dài hạn

Nguồn vốn

- Nợ dài hạn
- Trái phiếu phát hành

Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn
chủ sở hữu
Các quỹ của doanh nghiệp

3.2.3. Sự biến động của tài sản trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình kinh doanh, các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh gây nên
sự biến động, chuuyển hố của tài sản, nguồn hình thành tài sản tạo thành các quá
trình kinh tế khác nhau và được diễn ra liên tục kế tiếp nhau. Trong các doanh nghiệp
quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Quá trình cung cấp là khâu khởi đầu của quá trình sản xuất kinh doanh, là quá
trình doanh nghiệp sử dụng tài sản bằng tiền mua máy móc, thiết bị, vật tư hàng hố,
tài sản của doanh nghiệp chuyển hoá từ tiền sang hàng, doanh nghiệp nhận quyền sở
hữu về hàng và mất quyền sở hữu về tiền hoặc có trách nhiệm thanh tốn cho người
cung cấp. Kế toán phải ghi chép, phản ánh số tài sản là máy móc, thiết bị, vật tư, hàng
hố mà doanh nghiệp đã nhận được và số tiền đã thanh tốn hoặc cơng nợ phải trả
người cung cấp.
- Q trình sản xuất là quá trình doanh nghiệp sử dụng lao động kết hợp với
máy móc thiết bị tác động vào các đối tượng lao động nhằm tạo ra các sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ theo nhu cầu của người tiêu dùng, là quá trình doanh nghiệp tiêu hao các
nguồn lực (chi phí bán ra) và thu được kết quả (sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thu

được). Quản lý quá trình sản xuất doanh nghiệp phải biết được chi phí đã bán ra và kết
quả đã thu được, do đó kế tốn phải ghi chép, phản ánh tồn bộ chi phí và kết quả thu
được.
- Q trình bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là
quá trình tài sản từ hình thái sản phẩm, hàng hố chuyển sang hình thái tiền tệ. Đơn vị
mất quyền sở hữu về hàng hoá nhưng được quyền sở hữu về tiền tệ hoặc được tiền đòi
tiền của người mua.


23

Như vậy, trong quá trình hoạt động tài sản và nguồn hình thành tài sản biến
động, thay đổi chuyển hố hình thái tạo nên các quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nghiên cứu sự biến động của tài sản trong doanh nghiệp phải nghiên
cứu nó trong các giai đoạn, các q trình sản xuất kinh doanh hay nói cách khác sự
biến động của tài sản trong các quá trình cung cấp - sản xuất – bán hàng là đối tượng
của kế toán trong doanh nghiệp
3.2.4. Các quan hệ kinh tế pháp lý ngoài tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài các quan hệ
kinh tế liên quan đến tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị còn phát sinh các quan hệ
kinh tế liên quan đến tài sản không thuộc quyền sở hữu của đơn vị như quan hệ về
hàng hoá nhận giữ hộ, quan hệ về TSCĐ thuê ngoài, quan hệ về các hợp đồng…Các
quan hệ đó thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp, cần nhận thức đầy đủ
đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đúng có hiệu quả, kế tốn trong doanh nghiệp
phải ghi chép, phản ánh. Do đó các quan hệ kinh tê pháp lý ngoài tài sản của doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động là đối tượng của kế tốn.
Tóm lại: Đối tượng của kế tốn nói chung là tài sản, sự biến động của tài sản và
các q trình hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Trong các đơn vị thuộc các lĩnh
vực, các ngành, các thành phần kinh tế khác nhau nội dung cụ thể của đối tượng kế
toán cũng khác nhau. Việc nghiên cứu nội dung cụ thể của đối tượng kế toán trong các

doanh nghiệp là cơ sở để tổ chức khoa học và hợp lý cơng tác kế tốn nhằm phát huy
vai trị của kế tốn trong cơng tác quản lý kinh tế tài chính.

4. Phương pháp của hạch tốn kế tốn
Kế tốn là một mơn khoa học kinh tế có đối tượng nghiên cứu riêng do đó có
phương pháp riêng. Với đặc trưng của đối tượng kế tốn mamg tính hai mặt (Tài sản
và nguồn hình thành tài sản) , tính đa dạng, tính biến động và yêu cầu của thơng tin kế
tốn, kế tốn lấy triết học biện chứng làm cơ sở lý luận, kinh tế chính trinh học làm cơ
sở phương pháp luận hình thành hệ thống phương pháp kế toán.
Phương pháp kế toán là các phương thức, các biện pháp kế toán sử dụng để thu
thập, xử lý, phân tích cung cấp thơng tin về tài sản, sự biến động của tài sản và các
quá trình hoạt động kinh tế tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý.
Hệ thống phương pháp kế toán bao gồm: phương pháp chứng từ kế toán,
phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp cân
đối kế toán.
4.1. Phương pháp chứng từ kế toán:
Là phương pháp kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sính và
thực sự hồn thành theo thời gian và địa điểm phát sinh của nghiệp vụ đó vào các bản
chứng từ và xử lý luân chuyển chứng từ để phục vụ cơng tác kế tốn, cơng tác quản lý.


24

Trong quá trình hoạt động của đơn vị thường xuyên phát sinh các nghiệp vụ
kinh tế gây ra sự biến động của tài sản, nguồn vốn. Các nghiệp vụ kinh tế gồm nhiều
loại phát sinh ở thời gian và địa điểm khác nhau. Để phục vụ cho công tác kế toán
quản lý kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính,
hạch toán kế toán đã xây dựng phương pháp khoa học để thu nhận đầy đủ kịp thời
thông tin về mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Đó là phương pháp chứng từ kế
toán với 2 nội dung: lập các bản chứng từ chứng minh cho các nghiệp vụ kinh tế phát

sinh và tổ chức thông tin về các nghiệp vụ kinh tế theo yêu cầu quản lý và hạch toán.
4.2. Phương pháp tài khoản kế toán:
Là phương pháp kế toán phân loại, phản ánh và giám đốc một cách thường
xun, liên tục, có hệ thống tình hình và sự biến động của từng tài sản, từng nguồn
vốn, từng quá trình sản xuất kinh doanh.
Phương pháp chứng từ cung cấp các thông tin về từng nghiệp vụ kinh tế phát
sinh gây ra sự biến động về tài sản và nguồn vốn, các thơng tin mang tính phân tán,
khơng có hệ thống. Để thu nhập thông tin tổng hợp về tình hình và sự biến động của
từng đối tượng kế toán, kế toán sử dụng phương pháp tài khoản kế tốn.
4.3. Phương pháp tính giá:
Là phương pháp kế tốn sử dụng thước đo tiền tệ tổng hợp và phân bổ chi phí
để xác định giá trị thực tế của tài sản trong đơn vị theo nguyên tắc nhất định.
Tài sản trong đơn vị là đối tượng hạch toán kế toán bao gồm nhiều loại tồn tại
dưới hình thái hiện vật khác nhau. Mỗi loại tài sản do các yếu tố chi phí cấu thành bao
gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Vì vậy để xác định giá trị của tài sản nhằm
cung cấp thông tin tổng hợp về tài sản của doanh nghiệp. Kế toán sử dụng phương
pháp tính giá với nội dung tổng hợp chi phí trực tiếp và phân bổ chi phí gián tiếp cho
từng tài sản theo các nguyên tắc nhất định nhằm xác định giá trị thực tế của tổng tài
sản, từng quá trình.
4.4. Phương pháp tổng hợp cân đối kế tốn:
Là phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ kế tốn theo các mối quan
hệ cân đối vốn có của kế tốn nhằm cung cấp các thơng tin theo các chỉ tiêu kinh tế tài
chính về tài sản và kết quả kinh doanh của đơn vị nhằm phục vụ cơng tác quản lý.
Trong cơng tác quản lý ngồi thơng tin về từng nghiệp vụ kinh tế, thơng tin về
tình hình và sự biến động về từng tài sản, nguồn vốn và q trình kinh doanh cần thiết
phải có các thơng tin tổng hợp về tồn bộ tình hình tài sản, tình hình kết quả hoạt
động, để đáp ứng yêu cầu quản lý kế toán sử dụng phương pháp tổng hợp cân đối kế
toán.



×