Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những điểm đặc sắc trong tản văn của Việt Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 8 trang )

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC TRONG TẢN VĂN CỦA VIỆT LINH
TRẦN VĂN QUYẾT
Trường THPT Vinh Lộc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế
Tóm tắt: Tản văn là một thể loại văn học đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của văn
học thế giới. Trong những năm gần đây, thể loại này có sự phát triển nở rộ trong đời
sống văn học Việt Nam. Đóng góp cho sự phát triển đó phải kể đến nhiều cây bút nữ,
trong đó có Việt Linh. Với ba tập: Chuyện mình chuyện người, Chuyện và truyện,
Năm phút với ga xép, Việt Linh đã tạo được dấu ấn quan trọng trong dòng chảy của
tản văn Việt Nam hiện đại. Việc tìm hiểu những đặc sắc trong tản văn của Việt Linh
nhằm góp phần khẳng định phong cách tản văn Việt Linh cũng như những đóng góp
của tác giả cho thể loại này.
Từ khóa: Tản văn, thể loại, Việt Linh.

1. MỞ ĐẦU
Thập niên đầu thế kỷ XXI, thể loại tản văn có sự phát triển khá mạnh mẽ như một sự bùng
phát, tạo được sự quan tâm của nhiều giới sáng tác, lý luận phê bình nghiên cứu. Điểm qua
những đầu sách về tản văn, người đọc dễ dàng nhận ra nhiều tên tuổi quen thuộc. Đặc biệt là sự
xuất hiện những nhà văn nữ thành công ở tản văn, tạo được diện mạo riêng như: Nguyễn Ngọc
Tư, Hồng Việt Hằng, Thảo Hảo, Bích Ngân, Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Dạ Ngân, Việt
Linh,…
Việt Linh vốn là một đạo diễn điện ảnh. Trong lĩnh vực điện ảnh, Việt Linh đã có nhiều
phim được đánh giá cao. Trong lĩnh vực sáng tác văn học, ngồi truyện phim Ở đây có nắng,
Việt Linh cịn có ba tập tản văn: Chuyện mình chuyện người, Chuyện và truyện, Năm phút với ga
xép. Đọc tản văn của Việt Linh, ta nhận ra có nhiều điểm đặc sắc mang đậm dấu ấn thể loại.
2. NHỮNG ĐẶC SẮC TRONG TẢN VĂN CỦA VIỆT LINH
2.1. Sự phong phú về đề tài, nhân vật
Trong tản văn của nhiều cây bút gần đây, đề tài, nhân vật mà tản văn quan tâm khá rộng.
Bởi đây là thể loại ngắn, có khả năng phản ánh kịp thời cuộc sống với mn mặt của nó. Nổi bật
trong nhiều trang viết của Việt Linh là cảnh quan văn hóa dân tộc; lối sống, phong tục văn hóa
của nhiều vùng đất trên thế giới; cuộc sống người Việt xa xứ… Trong nhiều bài viết, tác giả gửi
gắm những suy tư, sẻ chia với bao phận người nơi phố thị, chốn làng quê; cũng có nhiều tản văn


gợi nhiều suy ngẫm về tình u, hơn nhân, tình cảm gia đình…
Nhân vật trong tản văn Việt Linh gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, đại diện cho muôn
lớp người trong xã hội, Đông lẫn Tây. Ở đó, ta bắt gặp chân dung của giới trí thức, những chính
khách lớn, những nhà làm phim, những nghệ sĩ; lẫn những người lao động bình thường; và cả
những người thân yêu của tác giả. Họ hiện lên qua trang sách của Việt Linh có khi bằng những
cái tên cụ thể quen thuộc, có khi chỉ là những kí hiệu viết tắt, hoặc chỉ là những đại từ nhân xưng
phiếm chỉ. Nhiều nhân vật hiện lên qua trang sách của chị như những mảnh vỡ không tên, những
lát cắt thân phận.
Với niềm đam mê nghề điện ảnh, với điều kiện được làm việc với nhiều nghệ sĩ lớn, được
đi dự liên hoan phim nhiều nơi, Việt Linh đã có nhiều bài viết về nghề, về giới nghệ sĩ rất sâu
sắc (Cannes - thế giới như nó là, Hồng Cầm sương khói, Bà chúa của Sơn Nam, Phải có ai dám
mở cửa, Giã từ bố Vũ, Hai thế giới và ông đạo diễn 95 tuổi, Sử mình qua phim người…). Tất cả
17


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

những bài viết về điện ảnh đã thể hiện được tấm lịng của một nghệ sĩ lớn ln đam mê với
nghề nghiệp.
Nhiều tản văn của Việt Linh thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống người Việt trên đất
khách. Không chỉ sinh sống, làm việc ở Pháp, Việt Linh từng được mời tham dự nhiều cuộc liên
hoan phim quốc tế ở nhiều nước. Chính vì thế mà nữ đạo diễn - nhà văn có điều kiện gặp gỡ, tiếp
xúc, tìm hiểu và cảm thông với đồng hương ở nhiều nơi trên thế giới. Những bài tản văn như:
Giữa Paris gặp các cụ Thái Bình, Chợ Việt trên đất Nga, Ngồi giữa trần gian, Con côi của đế
chế, Bèo không dạt,… đã thể hiện cái nhìn thiện cảm và đầy chia sẻ của Việt Linh với người Việt
xa xứ. Những trang văn của Việt Linh thấm đượm tình cảm quê hương qua những hình ảnh rất
đời thường: “Bạn sẽ làm gì giữa đêm khuya bê tơng Paris, khi phải nhìn thấy cận cảnh tơ phở
nóng Lý Quốc Sư và đĩa quẩy giịn ươm bên cạnh? Bạn sẽ làm gì giữa bê tơng Paris khi phải

nghe thấy tiếng xì xụp chất nước trong veo bún bị Huế? Thấy cách pha chế tơ mì Quảng, thấy
những giọt nước mắm chảy từ chai ra chén với một chút tỏi trắng, một chút ớt đỏ, một chút
chanh xanh, một chút đường…?” [6, tr. 247].
Trong nhiều tản văn của Việt Linh, ta còn cảm nhận những thức nhận đầy suy tư của tác
giả về những vấn đề mn mặt của cuộc sống đời thường. Có khi đó là sự ngợi ca tình người,
tình nghĩa thủy chung, tình bạn không biên giới (Maxima và ba mươi ngàn bông hoa, Miễn là ta
tự biết, Làm ơn Tây làm phước ta, Luân hồi hạn hán cơn mưa, Câu hát cánh diều,…). Ở đó, cịn
có nhiều nhân vật bình dị, đơi khi chỉ thoáng qua trong những trang văn của Việt Linh như
những lát cắt, nhưng những câu chuyện thoáng qua trong cuộc đời họ cũng đã để lại nhiều ấn
tượng, nhiều day dứt suy ngẫm trong lịng người đọc. Đó là một những đứa con thiếu sự quan
tâm đầy đủ của cha mẹ (Chiếc hộp đã đầy); là những người phụ nữ muốn khẳng định tiếng nói
nữ quyền (Ba tiếng chng nữ quyền), khát khao muốn có sự hịa hợp cảm xúc trong đời sống
gia đình (Cị đã bay đi), hoặc vì khơng chịu nỗi những uất ức về tinh thần mà phải tìm đến cái
chết (Quấy rối tinh thần)… Cũng có nhiều bài viết thể hiện sự trăn trở về thân phận, những
thương lo cho kiếp người gian khổ; những ưu tư lo lắng trước những điều xấu xa, thấp hèn
(Thăm thẳm Sophia, Viển vơng bóng đèn, Keiko giờ ra sao, Phù sa kí ức,…).
Điều đáng nói là cho dù viết về đề tài gì, người đọc cũng nhận thấy tản văn của Việt Linh
tha thiết tình yêu thương con người với tất cả sự trân quý, sẻ chia và cả buồn đau, day dứt trước
những phận người gian truân. Như Việt Linh từng tâm sự: “Khi viết tôi khơng nghĩ đến địa lý
hay cái gì đó tương tự, tơi chỉ nghĩ đến những gì liên quan tới con người… Tơi nhìn thấy thế giới
ngày một “phẳng”, nhưng tơi tin khơng bao giờ nó “phẳng” đến tận cùng. Nó sẽ vẫn còn những
hố, những hang hốc… Để chi? Để con người khơng trơn tuột, để nghệ sĩ cịn có chuyện làm, để
nghệ thuật cịn ý nghĩa” [7, tr. bìa 2].
2.2. Kết cấu tự do
Nói đến kết cấu của tản văn là nói đến tính linh hoạt. Nhìn từ đặc trưng thể loại, tản văn
của Việt Linh hết sức tự do về mặt kết cấu. Có lúc nhà văn tổ chức văn bản theo kết cấu tuyến
tính nhưng đa phần tản văn của Việt Linh sử dụng hình thức kết cấu phân mảnh với nhiều miếng,
đoạn lắp ghép linh hoạt, hoặc có khi tác giả sử dụng kết cấu liên văn bản.
Kết cấu tuyến tính là dạng kết cấu quen thuộc của văn xi truyền thống. Kết cấu này được
trình bày theo trình tự thời gian. Các sự kiện được kể như níu kéo nhau, cùng tập trung nói về

một nhân vật/tuyến nhân vật hay một chủ đề nhất định nào đó. Đặc điểm của lối kết cấu này là
sự thể hiện tính liên tục trong mạch chuyện, dễ theo dõi nội dung ý nghĩa của câu chuyện mà nhà
văn phản ánh. Trong bài Bác Phêđo, toàn bộ câu chuyện tập trung kể về nhân vật Bác Phêđo,
một diễn viên người Nga đã nhiệt thành, có tâm với nghệ thuật và sống tình cảm. Câu chuyện
18


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

được kể qua nhiều thời đoạn tuyến tính “năm 1984, Phêđo xuất hiện trước mắt tôi… Nhiều năm
sau khi tôi trở về nước…”, nhằm nhấn mạnh, dẫu thời gian trơi qua nhưng tình cảm của những
con người không biên giới ấy vẫn không hề thay đổi. Với kết cấu tuyến tính, việc dẫn dắt câu
chuyện theo mạch thời gian là điều dễ thấy, nhưng điều làm nên sức hấp dẫn, kết nối người đọc
vào câu chuyện chính là ở mạch cảm xúc miên man, là sợi dây tình cảm bền chặt của những
người trong cuộc.
Bên cạnh kiểu kết cấu tuyến tính, trong tản văn của Việt Linh phổ biến dạng kết cấu phân
mảnh. Kết cấu phân mảnh hay còn gọi là kết cấu mảnh vỡ (fragmentation), là kiểu kết cấu quen
thuộc của văn chương hậu hiện đại. Với lối kết cấu này, câu chuyện có sự phân rã thành nhiều
mảnh chuyện nhỏ. Mỗi mảnh chuyện nhỏ như mỗi miếng ghép, mỗi mảng màu khác nhau cùng
làm nên vẻ đẹp của bức tranh đời sống hay cùng hướng đến làm rõ chủ đề của tác phẩm. Cấu
trúc của văn bản Ba tiếng chuông nữ quyền [8, tr. 38] phân ra ba mảnh được lắp ghép phi logic.
Mảnh ghép thứ nhất là “Cô” - một người phụ nữ ở tỉnh lẻ của Việt Nam, tuổi đã 63, chồng mất
sớm, con cháu đề huề, quyết định tái hôn cùng một công nhân Tây về hưu, dám “đi ra khỏi lũy
tre an phận, một mình xa tít, khi tuổi xế chiều”. Mảnh thứ hai là “Chị” - một người phụ nữ ở Sài
Gịn, tuổi 45, hơn nhân nguội tắt và quyết định tái hôn với một ông Tây bảnh bao đã về hưu.
Nhưng rồi cuộc đời không như mơ ước, cô lại gặp bất hạnh với mối dun mới và chỉ mong có
một cơng việc có thể vùi vào đó “để ít phải ở nhà với ơng ta”. Mảnh thứ ba - “Và em”, một
người phụ nữ trẻ, có chồng là cán bộ doanh nhân, đời sống hôn nhân “lạc nhịp” nhưng cứ “để

khuất qua giữa muôn trùng bổn phận”, để rồi khi “con cái phương trưởng” đành chấp nhận “đổi
quan hệ phu thê thành bạn hữu”. Mỗi mảnh là một câu chuyện về cuộc đời, số phận, hơn nhân,
tình u, quyền sống của ba người phụ nữ. Ba mảnh đời riêng lẻ ghép bên nhau làm bật lên tiếng
nói nữ quyền.
Ngồi ra, trong tản văn của Việt Linh, ta còn bắt gặp dạng kết cấu liên văn bản. Kết cấu
liên văn bản là một khái niệm do Kristeva đưa ra năm 1967 và nó đã trở thành một trong những
thuật ngữ cơ bản trong việc phân tích tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại. Đến lượt mình,
R. Barthes đã cung cấp cho khái niệm liên văn bản một định thức mang tính quy phạm hóa: “Mỗi
văn bản là một liên văn bản; những văn bản khác có mặt trong nó ở các cấp độ khác nhau dưới
những hình thái ít nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn hóa trước đó và những văn
bản của văn hóa thực tại xung quanh” [2, tr. 445]. Lê Huy Bắc khẳng định: “Chủ nghĩa hậu hiện
đại xem văn bản được viết ra là giao điểm của vô vàn văn bản. Theo thời gian, đó là văn bản
của quá khứ, của thực tại và cả tương lai. Theo không gian đó là văn bản của từng vùng miền.
Theo thể loại, đó là văn bản gồm cả truyện, thơ, kịch. Theo loại hình, đó là văn bản của cả văn
chương, hội họa, kiến trúc… Theo văn hóa, đó là văn bản đa văn hóa của nền văn hóa trên trái
đất” [3, tr. 43]. Từ những ý kiến trên ta có thể khẳng định dạng kết cấu liên văn bản xuất hiện
khá nhiều trong các tản văn của Việt Linh. Trong đó sự đan xen, lồng ghép của nhiều đoạn văn
bản thơ, kịch, tóm tắt phim, thư, phỏng vấn báo chí, lịch sử,… Tiêu biểu như: Con côi của đế
chế (phỏng vấn báo chí), Con khóc mẹ mừng (thư - email), Thư Paris (thư trong thư), Thu Cúc đi
kiện (phim ảnh), Gặp nhà thơ trong điện ảnh (phỏng vấn - báo chí), Bà chúa của Sơn Nam (tiểu
thuyết), Nhân một người ra đi (thư), Cò đã bay đi (kịch, nhạc ráp), Sử mình qua phim người (lịch
sử, điện ảnh)…
Tản văn Việt Linh cịn có sự đan xen nhiều văn bản trong một bài. Đọc bài Những người
lớn khóc, ta suy tư cùng Việt Linh với bài thơ Phản ứng của Trương Quế Chi mà tác giả đã khéo
léo đan cài trong bài viết của mình, đọng lại những câu: “Một đứa trẻ/ Ngồi khóc/ Chờ người lớn
dỗ dành/ Những người lớn ngồi khóc/ Hoang mang/ Vì khơng biết phải mang tới những gì cho
đứa trẻ thơi khóc”[8, tr. 212]. Sau những vần thơ mở đầu đó, tác giả đã lắp ghép thêm những câu
19



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

chuyện nhỏ khác như câu chuyện những thiếu niên ngồi ở quán cà phê sát Hồ Gươm lừa bố mẹ
xài tiền như nước vì có bố là đại gia; chuyện bé Quốc Linh 3 tuổi ở Thanh Hóa bị chính cha
mình tưới xăng đốt; chuyện những cô giáo của một trường mầm non ứng xử máy móc, nhẫn tâm
khi nhốt những bé con trong phịng khơng cho ra sân xem xiếc vì bố mẹ các cháu chưa đóng
tiền;... Đọc bài Mầm nắng, ta cùng tác giả cảm nhận bài thơ cùng tên của Đinh Vũ Hồng
Ngun, trong đó có những câu thơ trữ tình như: “Bụng mẹ kết thành đêm/ Ủ hạt mầm nắng ngủ/
Nơi bầu đêm con thở/ Nắng của đời ba xanh…”[8, tr. 172]. Sự kết hợp những câu thơ như vậy
cùng với việc thuật lại câu chuyện đầy tình cảm của “người nghệ sĩ ẩn danh, đoản mệnh” đã tạo
được sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
2.3. Nghệ thuật trần thuật nhiều điểm nhìn
Trần thuật là “phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát,
thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người
trần thuật nhất định” [4, tr. 364]. Nói đến nghệ thuật trần thuật khơng thể khơng nói đến cách kể
chuyện sinh động với nhiều ngôi kể, nhiều điểm nhìn khác nhau.
Hồng Ngọc Hiến cho rằng: “Tản văn bộc lộ trực tiếp cái tôi của người viết, nhưng khác
với cái tôi tác giả ở một số thể loại ký, người viết tản văn có tâm thế nhàn tản, cái nhàn của một
con người tự “ngộ” biết vượt lên thế cuộc hiện sinh tìm tới lẽ trường tồn cao diệu của đời sống
nhân loại” [1, tr. 56]. Có lẽ chính vì vậy mà rất nhiều tản văn của Việt Linh chọn nghệ thuật kể
chuyện từ ngôi thứ nhất - cái tôi tác giả. Kể chuyện theo ngôi thứ nhất có hai dạng. Một là, dạng
nhân vật xưng tơi và kể lại câu chuyện của chính bản thân mình. Tác giả kể về những câu chuyện
vui buồn của mình như một lời tự thuật. Ở dạng này, mỗi mảnh chuyện như một mảnh hồi ký
hay tự truyện của chính tác giả (Đi quán gặp tình, Bà chúa của Sơn Nam, Giã từ bố Vũ, Bèo
không dạt, Chuyến đi đầu tiên của Thắm, Cuối năm săm soi hạnh phúc,…). Hai là, nhân vật có
thể xưng tơi, có thể dùng đại từ “chị”, “người viết” để bày tỏ cái tôi trực tiếp của mình trước một
đối tượng, sự việc nào đó, cũng có khi “tơi” là một nhân vật phụ trong câu chuyện, đối thoại với
một nhân vật chính khác (Hai thế giới và ông đạo diễn 95 tuổi, Hãy để thời gian có thì giờ, Nhân

kiều, Sao dời cũng đâu có sao, Vẫn cịn một sợi dây, Xn sang nhớ cây…).
Ngồi hình thức kể chuyện từ ngơi thứ nhất, trong nhiều tản văn của Việt Linh cịn có cách
kể chuyện đa ngơi - nhiều điểm nhìn. Ở bài Chị sẽ khơng xin lỗi em, tác giả đã nhập thân vào
nhân vật Hồi, miên man trong những dịng thư gửi cho một người em cùng cha khác mẹ ở nước
ngoài, để rồi ta cảm nhận những thao thức vui buồn, những sẻ chia của chị với nhân vật. Có bài
tác giả sử dụng ngơi kể thứ ba, đứng bên ngồi để quan sát, tưởng như phản ánh khách quan câu
chuyện của người khác nhưng lại rất đồng cảm với nhân vật trong câu chuyện mình kể (Con của
người tu). Có khi tác giả ẩn tàng sau mỗi chuyện để rồi gửi lại trong đó một nụ cười hài hước gợi
nhiều suy ngẫm cho người đọc từ những điều tưởng như nhỏ nhặt (Xe đạp lêu lêu). Cũng có khi
tác giả đứng từ góc nhìn điện ảnh, lịch sử, văn hóa… để nhìn nhận, đánh giá con người sự việc
liên quan đến đời sống, tư tưởng nào đó. Như bài Điện ảnh riêng tư, tác giả kể lại bước đường
dẫn đến thành công của nữ đạo diễn trẻ người Nhật Naomi Kawase. Từ góc nhìn điện ảnh, tác
giả đã cảm nhận từ kịch bản, những động thái, những kĩ thuật và cả tài năng điều khiển dàn diễn
viên không chuyên… để rồi thầm cảm phục và ngợi ca tài năng của người đồng nghiệp không
biên giới với những thành công đáng ngưỡng mộ.
Điều đáng nói là khơng phải cứ bài tản văn nào là theo một điểm nhìn nhất định mà có khi
trong một bài có nhiều góc nhìn khác nhau, nhất là những bài với dạng kết cấu phân mảnh. Đặc
điểm của những dạng bài này là lắp ghép, xâu chuỗi từ những mẩu, những mảnh chuyện nhỏ từ
Đông sang Tây, từ quá khứ đến hiện tại, từ nghề này sang nghiệp nọ nên tác giả linh hoạt trong
20


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

việc chọn điểm nhìn tương ứng với từng đối tượng. Tản văn Đẹp ơi, đừng đi… tác giả xâu chuỗi
năm mảnh chuyện nhỏ với những góc nhìn khác nhau, kiểu như nhà nhiếp ảnh chụp những bức
ảnh bất chợt trên những nẻo đường tác nghiệp.
Tản văn thường “bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả”

[4, tr. 293]. Thế nên, cho dù đứng ở góc nhìn nào, ta cũng thấy tản văn nói chung và tản văn của
Việt Linh nói riêng cũng ln thể hiện một cái nhìn, một sự phản ánh của tác giả về đời sống con
người, qua đó, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, quan điểm của nhà văn dù trực tiếp hoặc gián tiếp.
2.4. Ngơn ngữ và giọng điệu
Ngơn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện của văn học. M.Gor-ki từng nói: “Ngơn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học” [4, tr. 215]. Khơng chỉ thế, ngơn ngữ cịn là nơi ghi lại dấu ấn văn
hóa, khẳng định tài năng, phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn.
Trong nhiều tản văn của Việt Linh, ngơn ngữ có sự đan xen giữa chất trữ tình và chất thơ
mộc đời thường. Chất trữ tình có thể hiểu là sự “bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy
tưởng” của chủ thể, “nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc
chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh” [4, tr. 373]. Làm nên chất trữ tình cho tản văn
khơng chỉ ở cảm xúc chủ quan mà còn ở lời văn hàm súc, giàu chất thơ và câu chuyện được nói
tới cũng đượm chất trữ tình. Cịn chất thơ mộc đời thường là sự dung dị, gần gũi của ngơn ngữ.
Ở đó, nhà văn có thể sử dụng ngơn ngữ lời ăn tiếng nói hàng ngày một cách có chọn lọc theo ý
đồ riêng của mỗi tác phẩm.
Đọc tản văn của Việt Linh, ta nhận thấy có nhiều bài lời văn giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu
đôi khi như một bài thơ văn xuôi: “Nếu như chỉ lúc này đây ta mới chợt bình tâm, biết vượt thốt
những ám ảnh đen tối trong quan hệ, trong hành xử… thì âu cái tuổi heo may cũng đáng quý,
đáng yêu như bước ngoặt của một trang đời mới. Nghĩ thế chăng mà lòng bỗng nhiên
thanh thản, khi phải nhìn lại những làn tóc trắng, khi phải thêm một lần nghe tiếng thời gian” [6,
tr. 48].
Nhưng cũng có nhiều bài được xây dựng từ những lớp đối thoại của những con người bình
dị trong cuộc sống đời thường, hay có khi là những dịng kể miên man. Ở đó có sự đan xen hai
yếu tố trữ tình và thơ mộc với những mức độ đậm nhạt khác nhau: “Hôm trước tao vừa mua con
điện thoại Vertu ở 65 phố Hàng Bún. Hơn 200 củ, đẹp mê hồn nhưng chưa dám dùng vì sợ bà
già biết lại la mắng”. Tiếng cô bé ngồi cạnh: “Sao phải sợ? Bà ấy sợ anh thì có. Anh mà bỏ đi
một ngày thì bả khóc hết nước mắt” [8, tr. 211]. Cứ như vậy, những dòng miên man về một câu
chuyện rất đời thường với một thứ ngôn ngữ dung dị được Việt Linh chuyển tải đến người đọc
và gửi gắm vào đó một cái nhìn đầy lo âu để người đọc tự nhận ra những điều bất bình thường
trong cuộc sống.

Ngơn ngữ tản văn của Việt Linh cịn mang đậm màu sắc ngơn ngữ báo chí. Có thể nói,
ngơn ngữ đậm chất báo chí là một đặc điểm quen thuộc trong hầu khắp những tập tản văn hiện
nay. Cũng bởi lẽ, tản văn hiện nay đa phần được các nhà văn đăng trước ở các báo, cũng có thể,
điều này quan trọng hơn, vì ở nhiều tản văn vẫn có chứa nội dung mang tính thơng tin của báo
chí, như viết về các sự kiện thời sự, các nhân vật của lịch sử, của cơng chúng… Ta dễ dàng tìm
thấy nhiều thơng tin thời sự, nhiều tin tức, thậm chí có nhiều bài mang đậm chất phóng sự, ký sự
trong nhiều tản văn của Việt Linh. Ví như bài Biên giới của tình thương, sau tiêu đề là phần dẫn
đề - “Chẳng biết ngẫu nhiên sao, chỉ trong vòng hai tháng, nước Pháp lại xảy ra liên tiếp ba sự
kiện liên quan đến tình cảm cha mẹ, mở màn cho các cuộc tranh luận lớn xung quanh lĩnh vực
luân lý, luật pháp…”[6, tr. 122]. Và sau lời dẫn mở đầu đó, tác giả kể lại ba câu chuyện với ba đề
mục: Câu chuyện thứ nhất, Câu chuyện thứ hai, Câu chuyện thứ ba. Bằng lối kết cấu phân mảnh,
21


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

lắp ghép, ở mỗi câu chuyện được kể đều mang tới cho người đọc những thông tin về sự kiện, con
người, thời gian, địa điểm cụ thể. Mới đọc thoáng qua, ta có cảm nhận nó như một bản tin:
“Ngày 03.8.2003, sau cuộc thi đấu quần vợt ở miền Tây Nam nước Pháp, Alexandre Lagadere,
hai mươi lăm tuổi đã tử nạn do lạc tay lái. Kiểm tra thi thể nạn nhân, người ta tìm thấy lượng
Témesta (một loại thuốc an thần) khá lớn. Câu hỏi được đặt ra, và câu trả lời khiến người ta
choáng váng: Alexandre đã bị cha của đối thủ - Christophe Fauviau - bỏ Témesta vào nước
uống!…” [6, tr. 123]. Ta nhận ra ở đây cách viết ngắn gọn, nêu bật được sự kiện, thông tin khá
đầy đủ, đáp ứng được sự quan tâm của công luận. Đằng sau mỗi câu chuyện, tác giả đều bày tỏ
những suy nghĩ về nhân tình thế thái, đặc biệt có những liên tưởng sâu sắc, kiểu như:
“Christophe Fauviau bị bắt kéo theo hàng chục đơn tố cáo: hầu hết các vận động viên tranh giải
với các con ông trong hai năm gần đây đều cảm thấy hoa mắt, buồn ngủ… khi thi đấu. Đến nay
ông bố Fauviau chỉ thú nhận ba trường hợp, nhưng những con số không làm thay đổi bản chất

một “tình thương” lạc lối”[6, tr. 122].
Bài Khu vườn ký ức, chất ký sự, phóng sự khá đậm nét trong cách đặt đề mục, lời dẫn, từng
đoạn văn miêu tả, ghi chép: “Bạn đừng ngạc nhiên khi mới đến Paris, ngồi những danh thắng,
có ai đó, như tơi chẳng hạn, rủ bạn đi thăm… nghĩa địa. Đó là: “nghĩa trang Pere Lachaise”; “Di
cốt của 147 chiến sĩ Công xã Paris bị bắn chết ngày 28 tháng Năm năm 1871 cũng được chôn
dưới bức tường Công xã nằm ở phía Nam nghĩa trang. Vì ý nghĩa đặc biệt của bức tường này,
Père Lachaise trở thành nghĩa trang được lựa chọn để chôn cất phần lớn lãnh đạo cánh tả Pháp
và là nơi làm lễ kỷ niệm hàng năm của những người cánh tả…” [7, tr.113].
Đi liền với ngôn ngữ là giọng điệu. Theo M.B. Khravchenko: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng
chỉ được thể hiện trong một mơi trường và giọng điệu nhất định đối với đối tượng sáng tác”
[5, tr. 167]. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác
giả; có vai trị rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người
đọc. Tản văn thập niên đầu thế kỷ XXI đa dạng về giọng điệu. Tản văn của Thảo Hảo thiên về
giọng hài hước, châm biếm mỉa mai những cái xấu của xã hội, dửng dưng mà sắc lạnh. Giọng
điệu trong tản văn của Đỗ Bích Thúy giàu chất trữ tình - triết lý, chậm rãi mà thiết tha. Giọng
cảm thương, chia sẻ trở thành giọng chủ trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu tản văn của
Việt Linh nhiều sắc thái, vừa đậm chất cảm thương, vừa mang chất giọng hài hước, đan xen chất
giọng triết lý, suy nghiệm.
Giọng cảm thương, chia sẻ, trải dài trong nhiều tản văn của Việt Linh khi viết về những
người Việt vật lộn với cuộc sống mưu sinh trên đất Nga, đất Pháp, trên mảnh đất Việt thân
thương; đôi khi cũng cảm thương cho những phận người nhỏ bé, bất hạnh khắp nơi trên thế giới.
Ở bài Cảm ơn người lạ, tác giả bày tỏ cảm xúc lắng đọng đầy chân thành của mình với một
giọng điệu đằm thắm, yêu thương, chứa đựng nhiều rung cảm đối với người đọc: “Đã lâu, mà
khi đọc lại những dịng chữ này tơi vẫn cịn rưng rức. Nickname Binhbong mà về sau tôi biết tên
là V.A đã nói giùm tơi và những người xa xứ cái khắc khoải quy hương mà khơng phải ai cũng
có cơ hội”…, [7, tr. 19]. Ở bài Thăm thẳm Sophia, ta cảm nhận giọng điệu cảm thương chân
thành nhưng cũng đầy xót xa trước cuộc sống của một bé gái mồ côi. Tác giả đã bộc lộ nhiều lo
âu, thương cảm cho Sophia: “Foyer là dạng ký túc xá dành cho những đứa trẻ bị phụ huynh né
tránh, những đứa trẻ “khó dạy”, ở biên giới hư hỏng. Là nơi đứa trẻ phải về sau buổi học, thay
vì trở lại với gia đình. Tóm lại, là nơi chốn của cơ đơn, của mặc cảm đen mà đứa trẻ sẽ mang

theo khi bước vào đời…”[7, tr. 34].
Tản văn Việt Linh cịn có rất nhiều bài mang chất giọng hài hước. Giọng hài hước trong
nhiều tản văn của Việt Linh thường mang nụ cười đơn hậu hoặc cũng có khi chê bai những thói
xấu của con người ở đâu đó trên mỗi bước hành trình Đơng - Tây của tác giả. Ở bài Dấu nặng và
22


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

nụ cười ông già không chỉ là cái cười nhẹ nhàng, cảm thông về một lỗi nhỏ trên bảng hiệu tiếng
Việt mà còn đan xen giọng buồn thương chia sẻ với cuộc đời, tình người. Cái cười phát ra khi cái
bảng hiệu Chợ Đông Dương bị thiếu dấu nặng và dấu sắc sai chỗ thành bảng hiệu Chó Đơng
Dương. Nhưng đằng sau tiếng cười đó là một tấm lịng: “Thương quốc ngữ, vừa khơng đành
lịng để cái sai buồn cười tiếp tục, tơi nói điều này với người phụ nữ thu ngân khá sõi tiếng Việt.
Chị lính quýnh bước ra xem, cười ngất, lính quýnh gọi T. a, T. ơi!” [7, tr. 207]. Cũng có khi tác
giả cười vào cả cái xấu xa của những cảnh đời trớ trêu, những chuyện thật như đùa. Như khi đọc
bài Ai chui xuống gầm bàn? Tác giả kể lại câu chuyện đọc được trên báo Tuổi Trẻ online. Bài
báo kể chuyện một trường Tiểu học ở Cai Lậy mỗi khi trời mưa cả cơ và trị phải chui xuống
gầm bàn vì sợ phịng sập. Tác giả đã bng lời cảm thán - “Thật khó tin đây là thảm cảnh giáo
dục của thời đại chúng ta, thế kỷ 21, ở một ngôi trường đồng bằng không xa xôi hẻo lánh”. Và
rồi nghiêm khắc đặt những câu hỏi sắc lạnh: “Ai thực sự chui xuống gầm bàn của thế hệ tương
lai đất nước?” [7, tr. 400].
Ngoài giọng điệu cảm thương, hài hước, tản văn Việt Linh cịn có nhiều bài mang giọng
triết lý đầy suy ngẫm. Ở đó, nhiều khi đọc mỗi trang văn, mỗi mảnh ghép về cuộc đời, số phận
của con người, tác giả đều để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Đó là thứ triết lý không khô
khan mà rất thực tế, hiện hữu qua những câu chuyện, cảnh đời sinh động trước mắt. Triết lý về
hạnh phúc, tình u, hơn nhân, gia đình, sự đối xử giữa người với người, hay những trăn trở về
những vấn đề muôn mặt của cuộc sống thường nhật. Có khi đó là những triết lý suy ngẫm về

nghề điện ảnh liên quan đến xã hội như bài Chơi tới cùng. Tác giả kể về sự thành công của bộ
phim cùng tên của đạo diễn trẻ Peter Cattaneo - nó như là “một vở bi hài kịch lớn của xã hội
Anh”. Theo tác giả: “The full monty (Chơi tới cùng) quyến rũ người xem bởi tính trào lộng
nhân ái, bởi sự hòa giao tuyệt đối giữa hư cấu và hiện thực… là sự dấn thân vào cuộc sống,
chia sẻ tâm trạng, bức xúc của con người trong giai đoạn khủng hoảng”[6, tr. 312]. Từ đó, tác
giả đã khẳng định sự thành công của điện ảnh Anh: “Rõ ràng chỉ cuộc sống, sự đối diện - dù
gián tiếp - với cuộc sống mới mang lại cho nó cái hồn thật sự”. Đó phải chăng cũng là một
giọng điệu triết lý về nghề?
3. KẾT LUẬN
Tản văn là thể loại đang tạo được dấu ấn trên dòng chảy văn học hiện nay. Nhiều cây bút
cả chuyên lẫn không chuyên đang thử sức và bước đầu đã tạo được thành công. Với ba tập sách
dày dặn Chuyện mình chuyện người, Chuyện và truyện, Năm phút với ga xép, Việt Linh thật sự
đã tạo được dấu ấn trong thành tựu tản văn đầu thế kỷ XXI. Việt Linh viết tản văn bằng cả tâm
hồn và sự nhạy cảm thời cuộc với sự thể hiện phong phú, linh hoạt, sáng tạo. Những trang viết
của Việt Linh đã thu hút sự quan tâm của nhiều bạn đọc, cả giới báo chí, các nhà văn và giới phê
bình. Huỳnh Như Phương trong lời bạt cuốn Chuyện mình chuyện người đã đánh giá: “Mỗi bài
viết của Việt Linh có thể là một phác thảo, một đặc tả hay một cú lia máy… nhưng liên kết lại tất
cả sẽ tốt lên một bức tranh tồn cảnh về nghệ thuật và thời cuộc”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]

Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

[4]

[5]
[6]
[7]
[8]

CYS 2016

I.P. Ilin và E.A. Tzurganova (chủ biên) (2002), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái
nghiên cứu văn học (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Lê Sơn
và Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội.
Việt Linh (2008), Chuyện mình chuyện người, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
Việt Linh (2012), Chuyện và truyện, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
Việt Linh (2014), Năm phút với ga xép, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

Title: THE SPECIAL CHARACTERISTICS IN ESSAY OF VIET LINH.
Abstract: Essay, a literary genre, has a long history in the development of the world literature. In recent
years, this genre has been flourished in the life of Vietnamese literature. Viet Linh is one of the writers
who has had a great contribution on this. She has made an important mark in the flow of essay modern
Vietnam through three works such as “Chuyen minh chuyen nguoi”, “Chuyen va truyen” and “Nam phut
voi ga xep”. Understanding characteristics of essay written by Viet Linh is aimed to help to affirm her
literary style as well as her contributions on this genre.
Keywords: Essay, genre, Viet Linh.


TRẦN VĂN QUYẾT
Học viên Cao học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 23 (2014-2016), Trường Đại học Sư phạm Đại học Huế
Đơn vị công tác: Trường THPT Vinh Lộc, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế
Số điện thoại: 0977 919 235. Email:

24



×