Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Để đối phó với suy phát pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.83 KB, 4 trang )

Để đối phó với suy phát
Khi nền kinh tế đang suy yếu, mà chính phủ vẫn nỗ lực cứu ngân hàng, bất động sản và
doanh nghiệp nhà nước, thì việc in tiền và vay nợ sẽ tiếp tục. Trong khi đó ngân sách chi
tiêu của chính phủ và tiêu xài của người dân không cắt giảm, thì bội chi sẽ gia tăng.
Căn nguyên của lạm phát (inflation) thường là sự gia tăng cung tiền bằng nợ vay hay
bằng cách in tiền, khiến lưu lượng tiền trong nền kinh tế dư thừa, tạo nên việc giảm giá trị
của bản tệ. Dĩ nhiên, giá hàng hóa phải nâng cao hơn để bù vào hao hụt cho phí tổn của
sản xuất và bảo tồn mức lời. Lạm phát leo thang cho tới khi nền kinh tế tăng trưởng chậm
lại, doanh nghiệp buộc phải hạ giá thành sản phẩm vì nhu cầu tiêu thụ sụt giảm do tỷ lệ
thất nghiệp tăng; và khi đó, cung tiền hạ xuống, nền kinh tế rơi vào giảm phát (deflation).
Suy phát (stagflation) lại là hiện tượng hơi nghịch lý, không thuần túy đi theo chiều
hướng lạm hay giảm, mà bao gồm cả hai diễn biến trái chiều này. Giá hàng hóa leo thang
vì bản tệ mất giá, trong khi kinh tế vẫn suy thoái vì thất nghiệp cao và nhu cầu tiêu xài
giảm. Hiện tượng suy phát chỉ mới xảy ra một vài lần trong lịch sử. Cuộc suy phát của
nền kinh tế Mỹ kéo dài trong thập niên 1970s là một điển hình.
Cuộc suy phát ở Mỹ
Năm 1970, nền kinh tế Mỹ đối mặt với nhiều tiền đề của suy phát, nhất là chíến lược siết
lượng cung và tăng giá bán của tổ chức các nước xuất khẩu dầu OPEC. Nếu tính theo thị
giá USD thời nay thì năm 1971, dầu thô từ $20/ thùng đã tăng vọt lên gấp 5 lần sau khi
OPEC ra tay, kéo theo mọi giá cả hàng hóa cùng tăng. Cũng năm 1971, Tổng thống Mỹ
Richard Nixon rút khỏi khối hiệp thương tiền tệ Bretton Woods. Đồng USD đang được
cam kết “neo” vào vàng với mức quy đổi $ 35 /1 ounce, trở thành đồng tiền tự do thả nổi.
Việc in tiền của Chính phủ dễ dàng hơn khi không còn phụ thuộc bản vị vàng, nhưng
niềm tin của người dân vào đồng đô la Mỹ cũng sụt giảm mạnh. Trong khi đó, ngân sách
cũng bị hao tổn với chiến tranh tại Việt Nam.
Lượng cung USD tăng, sức mua chưa giảm, hàng hóa tăng, gây nên lạm phát phi mã.
Chuỗi đồng hành của chi phí đẩy (cost push), chi phí cầu kéo (demand-pull) lẫn cung tiền
cao đã khiến mức lạm phát của nước Mỹ lên đến 14% vào thời điểm 1978 và 1980. Trong
3-4 năm sau, nền kinh tế Mỹ khập khễnh với tỷ lệ tăng trưởng -1 đến 1% GDP, và thất
nghiệp lên đến hơn 8% tạo thêm gánh nặng cho chính sách an sinh xã hội và ngân sách.
Reagan và giải pháp


Năm 1980, Tổng thống Regan đắc cử, bổ nhiệm ông Paul Volcker vào vị trí Chủ tịch Cục
dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve). Hai ông coi việc tăng giá trị USD thành một bản
tệ mạnh là cốt lõi của chánh sách mới. Volcker siết chặt cung tiền, giữ lãi suất tín dụng
thật cao,và giá hàng hóa bắt đầu giảm nhiệt. Giải pháp của ông đẩy nhiều công ty yếu
kém, bao gồm cả ngân hàng và các tập đoàn lớn, đi đến phá sản.
Nhưng sau cuộc thanh lọc, một loạt các biện pháp hành chánh nhằm cắt giảm thuế, hủy
bỏ đi các luật lệ trói buộc doanh nghiệp được ban hành đã thúc đẩy kinh doanh và hồi sức
nền kinh tế. Những doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ (SMEs) trở thành mũi nhọn và phân
khúc này kéo nguyên đòan tàu kinh tế Mỹ vượt bão và tăng trưởng mạnh mẽ. Tổng thống
Regan tái đắc cử và nước Mỹ bước vào một thời kỳ ổn định kinh tế khá dài, qua đến thời
của Tổng thống Bill Clinton.
Suy phát và cơ hội tái diễn
Ngày nay, nước Mỹ dường như đang quay trở lại thập niên 70s, với chính sách đồng đô
la yếu và lãi suất tín dụng thật thấp của đương kim Chủ tịch Fed Ben Bernanke. Chính
phủ in tiền thêm, nợ công và tư chồng chất, chánh phủ dùng 1.300 tỷ USD để cứu nguy
ngân hàng lớn, ngành sản xuất xuống dốc và tỷ lệ thất nghiệp tăng trên 10%. Nhiều dự
báo cho rằng mức tăng trưởng GDP 3-4 năm tới của Mỹ không thể vượt ngưỡng 2%.
Tôi cho rằng song song với giảm sút GDP, lạm phát tại Mỹ sẽ tăng lên tới 5- 6% sau
2012. Lý do là chính phủ vẫn tiếp tục phải vay mượn hay in tiền thêm khiến đồng đô la
sụt giá, và lãi suất của trái phiếu chính phủ phải gia tăng để thu hút nhà đầu tư, nhất là khi
các quốc gia châu Âu cũng rơi vào tình trạng xoay nợ. Nói cách khác, suy phát sẽ là một
tình trạng có khả năng xảy ra tại Mỹ vào thời gian tới. Tuy nhiên, mức độ suy phát sẽ
không quá trầm trọng như đã diễn ra ở thập niên 70s. Hai lý do: Trung Quốc vẫn dư thừa
nguồn cung hàng hóa và USD vẫn là bản vị thanh toán của thế giới.
Suy phát tại Việt Nam
Theo tôi, kinh tế Việt Nam vừa bắt đầu tình trạng suy phát dù tăng trưởng GDP được
thống kê là đã đạt đến 6% vào 6 tháng đầu 2011. Lạm phát đang ở mức 19%, đồng VND
cao hơn giá trị thực khỏang 17%, lãi suất cho doanh nghiệp vẫn trên 20% và các nguồn
ngoại tệ (FDI, kiều hối, FII…) giảm xuống khá tệ hại. Đến cuối năm nay, Việt Nam sẽ
đối mặt với những vấn nạn đã làm điên đầu Reagan và Volcker 20 năm trước.

Khi nền kinh tế đang suy yếu, mà chính phủ vẫn nỗ lực cứu ngân hàng, bất động sản và
doanh nghiệp nhà nước, thì việc in tiền và vay nợ sẽ tiếp tục. Trong khi đó ngân sách chi
tiêu của chính phủ và tiêu xài của người dân không cắt giảm, thì bội chi sẽ gia tăng. Suy
phát sẽ trầm trọng và sự lụn bại của kinh tế tài chánh sẽ dẫn đến những hậu quả khó
lường.
Một giải pháp cho Việt Nam?
Tôi không có đủ dữ kiện và số liệu thực (khác với những gì công bố) để đưa ra một giải
pháp cu thể. Nhưng nếu chúng ta mời ông Volcker qua đây để tư vấn, tôi chắc ông sẽ
khuyến cáo chánh phủ ban hành một nghị quyết gồm những đường lối như sau:
Giữ vững giá trị của đồng VND bằng cách “neo” sự quy đổi của tiền vào một rỗ các bản
tệ căn bản (USD, Euro, Yen) và vàng. Cho VND được tự do chuyển đổi. Niềm tin sẽ ào
ạt quay lại VND và VND có thể mạnh hơn cả USD.
Không cứu trợ bất cứ một ngân hàng, doanh nghiệp nào, dù công hay tư. Để mặc cho tất
cả bong bóng, từ bất động sản đến chứng khóan, vỡ mà không can thiệp. Không hổ trợ
bừa bãi cho những dự án FDI lấy đất nông nghiệp, phi sản xuất và hủy họai môi trường.
Bán tất cả doanh nghiệp nhà nước trong vòng 5 năm và đem nợ công của chánh phụ
xuống dưới mức 10% của GDP.
Giảm ngân sách 10% trong năm đầu và tiếp tục xuống đến 50% sau 5 năm.
Khuyến khích doanh nghiệp tư với chương trình dẹp bỏ rào cản pháp lý; thể hiện chánh
sách thị trường rõ ràng với một sân chơi bằng phẳng; cắt bỏ gánh nặng “phong bì” cho
doanh nghiệp.
Giải pháp này sẽ khiến nền kinh tế xáo trộn trong những năm đầu vì doanh nhân và người
dân sẽ phải điều chỉnh tư duy và hành xử. Nhưng tôi chắc chắn là Việt Nam sẽ tăng
trưởng mạnh sau 4 năm và tài chánh quốc gia cũng như của người dân sẽ cải thiện nhanh
chóng.
Suy phát có thể là kích thích tố để chánh phủ làm điều “đúng” và đưa Việt Nam trở lại
với mức sống tiến bộ như các quốc gia phát triển ở Châu Á. Đây là thành quả mà người
dân Việt xứng đáng với những cố gắng và hy sinh sau 40 năm trì trệ.


×