Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Malaixia đã làm gì để đối phó với cuộc khủng hoảng này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.85 KB, 25 trang )

Lời mở đầu
Malaixia là một đất nước nhỏ nằm ở khu vực Đơng Nam á, có diện tích
330.307 km2, với số dân 25 triệu người, thủ đô là Kuala Lumpur. Malaixia là
nước đa chủng tộc gồm người Mãlai, người Hoa và người ấn Độ, đa số người
dân là theo đạo Hồi.
Sau khi giành độc lập năm 1957, Malaixia lúc đó là một nước nông
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, chênh lệch thu nhập giữa các chủng tộc khá lớn, nền
kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào Anh. Nguồn thu nhập chính là cao su tự nhiên và
thiếc.
Từ năm 1970 chính phủ Malaixia dã thực hiện chính sách kinh tế với mục
tiêu xố đói giảm nghèo và cơ cấu lại nền kinh tế, nhờ đó mà Malaixia đã thu
được những thành tựu đáng khâm phục. Tuy nhiên, thời kỳ 1997 - 1998 nền
kinh tế Malaixia rơi vào khủng hoảng khá trầm trọng. Năm 1998 tốc độ tăng
trưởng kinh tế, GDP là - 6,7%, đồng Ringgit mất giá 65%. Malaixia đã làm gì
để đối phó với cuộc khủng hoảng này?
Với mong muốn học hỏi kinh nghiệm trong quản lý nền kinh tế chúng tôi
quyết định chọn chủ đề: “ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
ở Malaixia giai đoạn 1997 - 1998 và bài học cho Việt Nam” để làm đề tài
nghiên cứu.

1


Chương I: Tình hình kinh tế Malaixia trước cuộc khủng hoảng
1997 - 1998.
Malaixia giành độc lập ngày 31/7/1957 và năm 1963 thành lập nước cộng
hoà liên bang. Ngay sau khi giành độc lập, Malaixia phát triển kinh tế tập trung
vào phát triên nơng, lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Malaixia cũng phát triển cơng
nghiệp khai khống, chủ yếu là thiếc. Những năm 60 tốc độ tăng trươngr kinh tế
đạt bình quân 5,5%/năm.
Thời kỳ thập niên 70, Malaixia đẩy mạnh phát triển hai ngành chính là:


cơng nghiệp chế biến nơng sản xuất khẩu như chế biến gỗ, lương thực thực
phẩm, nước giải khát và ngành chế tạo máy móc nơng nghiệp. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế thời kỳ này đạt bình quân 7,8%/năm.
Thời kỳ thập niên 80, Malaixia tập trung phát triển các ngành công nghiệp
chế biến như: sản xuất thép, ô tơ, bán dẫn, máy thu hình, máy tính. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế thời kỳ này đạt trên 7%/năm. Đặc biệt năm 1986, Malaixia đứng
hàng thứ 3 trong xuất khẩu linh kiện bán dẫn chỉ sau Mỹ và Nhật Bản. Malaixia
chiếm 75% thị trường dầu cọ và 62% thị trường cao su thế giới
Qua thập kỷ 90, Malaixia liên tục đẩy mạnh công nghiệp điện tử và chế
tạo phụ tùng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn từ 1991 đến 1996 đạt
8,6%/năm. Thời này đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng đối với phát triển
kinh tế của Malaixia. Thời kỳ 1991 - 1996, 63,7% đầu tư nước ngoài vào
Malaixia là đầu tư trực tiếp (27,7 tỷ USD trong tổng số 43,5 tỷ USD). Chính
điều này làm cho nền kinh tế Malaixia có “nền tảng vật chất” tốt và ít nhạy cảm
hơn với biến động của tỷ giá ở trong nước và ngồi nước. Malaixia duy trì tỷ giá
hối đoái gần như cố định, trong thời kỳ 1991 đến 1996 tỷ giá hối đối bình qn
là 2,6 Ringgit/1 USD. Điều đó thể hiện trong bảng số liệu dưới đây:

2


Bình
Năm
Lạm phát ở Mỹ (%)

1991
4,2

1992
3


1993
3

1994
2,5

1995
2,8

1996
2,9

quân
3,07

Lãi suất tiền gửi ở Mỹ (%)

5,84

3,68

3,17

4,63

5,92

5,39


4,77

Lạm phát ở Malaixia (%)

4,4

4,7

3,57

3,7

5,28

3,56

4,2

Tỷ giá hối đoái

2,72

2,61

2,7

2,56

2,54


2,52

2,6

-4

+ 3,4

- 5,2

- 0,8

- 0,8

- 1,5

Ringgit/USD
Thay đổi tỷ giá hối đoái
(%)
Từ bảng số liệu trên ta thấy, tỷ giá hối đoái dao động bình quân là - 1,5%/
năm, chênh lệch lãi suất ở Mỹ và Malaixia là 1,9%/năm, mức chênh lệch này
không phảI là lớn để khuyến khích các nhà tư bản nước ngồi đầu tư tài chính và
cho vay ngắn hạn với số lượng lớn.
Theo điều kiện vốn chảy vào quốc gia qua thị trường ngoại tệ ta có:
Lãi suất ở Malaixia > lãi suất ở Mỹ + thay đổi tỷ giá hối đối
Hay

6,7%

>




8,2%

>

4,77% - 1,5%
4,77%

điều này có nghĩa là khi lãi suất ở Malaixia là 6,7%/năm, tỷ giá hối đoái giảm
1,5%/năm thì các nhà đầu tư Mỹ cho vay ngắn hạn ở Malaixia rồi đổi ra USD,
được lợi nhuận là 8,2%/năm, còn ở Mỹ chỉ là 4,77%/năm. Đây là lý do vì sao
thời kỳ 1991 - 1996 tổng đầu tư ngắn hạn vào Malaixia cao cịn tổng đầu tư tài
chính giảm.
Theo quy luật sức mua tương đương với mức lạm phát ở Mỹ và Malaixia
thì tỷ giá hối đối thực năm 1996 phảI là 2,9 Ringgit/1 USD. Tuy nhiên tỷ giá

3


năm 1996 lại là 2,52 Ringgit/1 USD, tức là đồng Ringgit đã lên giá 13%. Điều
này có tác dụng hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu.
Từ năm 1991 đến 1996 tài khoản vãng lai của Malaixia luôn thâm hụt, do
đó phải vay của nước ngồi để trang trải và dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên nợ nước
ngoài của Malaixia không lớn, không đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh
toán.
Trên đây là một vài nét sơ lược về tình hình kinh tế Malaixia trước thời kỳ
khủng hoảng, cho thấy nền kinh tế Malaixia là một nền kinh tế phát triển mạnh
và tương đối ổn định.


4


Chương II: Nguyên nhân, diễn biến và ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính ở Malaixia.
Malaixia là một đất nước có nền kinh tế phát triển tương đối mạnh ở
Đông Nam á nói riêng và châu á nói chung. Biểu hiện của điều đó là tỷ giá giữa
đồng Ringgit và đồng USD luôn ổn định ở mức 2,6 Ringgit/1 USD kể từ
sau1986 đến 1996. Nhưng sau cuôc khủng hoảng tiền tệ năm 1997, nền kinh tế
Malaixia có chiều hướng đi xuống, đánh dấu bởi tỷ giá hối đoái 4,4350 Ringgit/
1 USD vào năm 1998. Vậy do đâu mà nền kinh tế Malaixia lại khủng hoảng
trầm trọng như vậy? Qua nghiên cứu của các nhà kinh tế trên thế giới đã rút ra
được những nguyên nhân chính sau:
I. Nguyên nhân
1.1. Những tác động từ bên ngồi.
* Khủng hoảng tài chính lan truyền
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi biến động lớn về kinh tế- chính
trị của một nước đều có ảnh hưởng trực tiếp đến các nước trong khu vực thậm
chí liên khu vực. Chính vì vậy khi Thái Lan đột ngột phá giá đồng Bath đã làm
rung chuyển nền kinh tế của nhiều nước trong đó có Malaixia.
Sự phá giá mạnh của đồng Bath đã phá vỡ mức cân bằng thương mại và
làm tăng sức ép phá giá tiền tệ tại khu vực. Là một nước có thương mại nội bộ
vùng Đông Nam á chiếm tới 40,8% hoạt động thương mại của Malaixia năm
1995, trong đó thưong mại nội bộ ASEAN chiếm tới 27,3% kim ngạch xuất
khẩu và 19% kim ngạch nhập khẩu của Malaixia, Malaixia buộc phải phá giá
đồng Ringgit để tránh những rủi ro cho ngành tài chính.
* Đầu cơ tiền tệ và khủng hoảng niềm tin.
Trước khủng hoảng đồng Ringgit được sử dụng rất rộng rãi ở khắp các
tỉnh lân cận biên giới của các nước Thái Lan và Inđơnêxia. Trước thành cơng đó

đồng Ringgit trở thành mục tiêu của những kẻ đầu cơ ngoại hối nước ngồi.
Năm 1994 để ngăn chặn sự tấn cơng vào đồng Ringgit, ngân hàng trung ương
Negara đã phải tung ra 13 tỷ USD để vực đồng Ringgit khỏi xuống giá.
5


Ngồi sự chi phối của yếu tố kinh tế thì tâm lý là một nhân tố ảnh hưởng
lớn đến các vấn đề về tiền tệ (ảnh hưởng 90% - theo thủ tướng Mailaixia
Hahathir Mohamad). Do đồng tiền dược chuyển đổi tự do, năng suất lao động
vài năm qua không tăng do phần lớn đầu tư vào bất động sản, nên mọi người có
xu hướng đầu cơ tiền tệ để kiếm lợi nhuận cao.
Sự giảm giá mạnh của các đồng tiền Đông Nam á cộng với khủng hoảng
niềm tin của dân chúng vào hệ thống tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu cơ ngoại tệ tấn công vào đồng Ringgit, đưa cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ vào vịng xốy lan truyền, làm sụp đổ nhanh chóng nền kinh tế.
1.2. Những yếu tố nội tại
1.2.1. Chính sách tài chính - tiền tệ khơng hợp lý.
*Duy trì tỷ giá hối đối cứng nhắc.
Việc chính phủ Malaixia cố định tỷ giá hối đoái để bảo hộ cho nhập khẩu,
đồng thời khuyến khích xuất khuẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển kinh
doanh. Tuy nhiên do giữ giá quá lâu trong khi đồng USD lên giá liên tục đã tạo
nên sự lên giá giả tạo của đồng Ringgit. Những ước tính về sức mua cho thấy,
đồng Ringgit thực sự đã giảm giá khoảng 36% kể từ cuối năm 1995. Đây là
ngun nhân gây ra xói mịn sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đưa cán cân
thương mại vào tình hình tồi tệ
*Tính dễ tổn thương của hệ thống tài chính - ngân hàng.
Từ trước đến nay ở Malaixia, NHTW thường để cho các lực lượng thị
trường tự quyết định tỷ giá hối đoái của đồng Ringgit, nhằm tạo sức bật lớn hơn
cho nền kinh tế.
Trong gần thập kỷ qua, cách thức huy động vốn của NHTW Negara chủ

yếu thông qua nguồn đầu tư gián tiếp trên thị trường cổ phiếu. Với lãi suất cho
vay liên ngân hàng ở Kuala Lumpur cao ổn định, chỉ tăng từ 7,24% vào tháng
11/1996 lên 7,3% vào tháng 3/1997, luồng vốn ngắn hạn nước ngoài tăng lên rất
nhanh do đầu cơ vào đồng Ringgit thơng qua thị trường tiền tệ và chứng khốn.
Mức tăng tỷ lệ vay nợ ngân hàng năm 1996 đạt 27%/năm, năm 1997 đạt
6


26%/năm và tỷ lệ vay nợ tín dụng trong GDP tăng bình quân từ 85% trong giai
đoạn 1985 - 1989 lên 120% vào năm 1994 và trên 160% vào thời điểm trước khi
nở ra khủng hoảng, cao thứ 2 châu á sau Philippin. Chỉ tính riêng trong tháng
6/1997, tốc độ vay vốn đã tăng 30% so với mức 29,5% trong tháng 5/1997. Mức
cung tiền tệ đạt 21% trong 6 tháng đầu năm 1997 và lượng vốn huy đọng trên thị
trường chứng khoán Kuala Lumpur tăng mạnh từ 40 tỷ Ringgit vào tháng
7/1996 lên 60 tỷ Ringgit vào tháng12/1996 và 68 tỷ Ringgit vao ngày
1/7/năm1997. Tính chung cho những năm giữa thập kỷ 90, khả năng huy động
vốn của thị trường chứng khoán Kuala Lumpur (KLSE) là xấp xỉ 200 tỷ USD,
và KLSE là thị trường lớn thứ 3 khu vực châu á - Thái Bình Dương sau Tokyo
và Hongkong.
Đây là điều nguy hiểm đối với một nền kinh tế bởi thâm hụt tài khoản
vãng lai chiếm tới 6,3% GDP vào năm 1996, vượt quá mức cho phép 5% GDP
của một nền kinh tế lành mạnh. Hệ thống ngân hàng phát triển q nhanh với 39
cơng ty tài chính và 37 ngân hàng thương mại (quá nhiều so với các nước trong
khu vực), và tốc độ cung ứng tiền tệ tăng mạnh trong khi chất lượng tín dụng rất
thấp do tập trung nhiều vào khu vực cổ phiếu và bất động sản, đã làm cho các
khoản nợ khó địi của ngân hàng thương mại tăng quá mức cho phép.
1.2.2. Nền kinh tế phát triển mất cân đối.
*Thiên lệch trong cơ cấu đầu tư.
Tập trung quá nhiều vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động
sản. Mặc dù NHTW Negara đã hạn chế tín dụng đối với 2 khu vực này nhưng

cho tới cuối năm 1998, vốn cho vay khu vực bất động sản vẫn tăng 8,5%/năm,
đưa tổng khối lượng dư nợ vào thị trường bất động sản và cổ phiếu chiếm 43%
tổng dư nợ vào cuối năm 1996. Từ cuối năm 1992 cho đến tháng 12/1996, tín
dụng dành cho khu vực bất động sản và cổ phiếu tăng từ 34,24 tỷ Ringgit lên
68,32 tỷ Ringgit, trong khi tín dụng dành cho khu vực chế tạo chỉ tăng từ 25,39
tỷ Ringgit lên 47,95 tỷ Ringgit. Tình trạng cung vượt quá cầu trong kinh doanh

7


bất động sản đã dânc đến hàng loạt những hiệu ứng dây chuyền tren thị trường
chứng khoán và thị trường tiền tệ.

8


*Chiến lược xuất khẩu trên cơ sở mất lợi thế so sánh.
Trong 6 tháng đầu năm 1997, xuất khẩu của Malaixia chỉ tăng 2% so với
14% của cùng kỳ năm trước, đưa mức thâm hụt ngoại thương của Malaixia đạt
2,7 tỷ Ringgit (1,08 tỷ USD) so với mức thâm hụt 687,8 triệu Ringgit (275,12
triệu USD) cùng kỳ năm 1996.
Xuất khẩu giảm một phần do chi phí tiền lương/sản phẩm tăng cao trong
khu vực, một phần khác do sức ép cạnh tranh về giá cả và chất lượng hàng hoá
với Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ thu hút được vốn đầu tư , Trung Quốc tạo
dựng được một ngành công nghiệp chế tạo quá dư thừa công suất. Năm 1994
Trung Quốc tiến hành phá giá đồng NDT trong khi đồng USD tiếp tục lên giá,
đồng Ringgit vẫn giữ nguyên giá làm cho hàng hoá của Malaixia đắt đỏ hơn
hàng hoá của Trung Quốc, ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của
Malaixia.
Về hàng hố cơng nghệ cao Malaixia chịu sức ép lớn từ Nhật Bản. Năm

1995 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm điện và điện tử chiếm tới 65,7% kim ngạch
xuất khẩu của Malaixia, do thị trường bão hoà các sản phẩm phải giảm giá
70%buộc các nhà sản xuất phải giảm giá xuất khẩu để duy trì thị phần của họ
trên thị trường thế giới.
Tăng trưởng xuất khẩu giảm đã đẩy mức thâm hụt cán cân thanh toán
vãng lai lên cao. Năm 1996, thâm hụt tài khoản vãng lai của Malaixia là -10,5%
GDP và năm 1997 là -10,4% GDP, đạt con số -10,23 tỷ USD năm 1997. Để bù
đắp cho những thiếu hụt trên, Malaixia buộc phải bổ sung bằng vay nợ, chủ yếu
là vay nợ ngắn hạn với lãi suất cao. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho
Malaixia càng lâm vào khủng hoảng trầm trọng hơn.
II. Diễn biến của cuộc khủng hoảng đồng Ringgit Malaixia
Sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1985-1986 đồng Ringit Malaixia luôn ở
mức giá ổn định, bỡnh quõn là 2,6 Ringit/USD tớnh đến cuối năm 1996. Sự tăng
giá thường xuyên của đồng Ringit từ mức 2,53 Ringit/USD vào tháng 12 năm
1996 lên mức 2,479 Ringit/USD vào tháng 3 năm 1997 đó đem lại những đánh
9


giá khả quan về sức mạnh cuả đồng Ringit trong khu vực Đông Nam Á. Nền
kinh tế Malaixia luôn tăng trưởng ở mức 8% trong giai đoạn 1990-1996 và cán
cân thương mại ln thặng dư tính đến cuối năm 1996. Với chính sách tiền tệ
tương đối linh hoạt, Ngân hàng Trung ương Negara thực sự đó ổn định được giá
trị đồng Ringit, tạo nên giá cả và lạm phát thấp.
Kể từ cuộc khủng hoảng đồng Bath Thái Lan ngày 2 tháng 7, đồng Ringit
Malaixia bắt đầu có chiều hướng giảm so với đồng Đô la Mỹ. Ngày 2/7/1997,
đồng Ringit ổn định ở mức giá 2,5242 Ringit/USD, nhưng đến ngày 30/7/1997
đồng Ringit đó mất giỏ 5%. Khi đồng Ringit phá giá ở mức 2,7525 Ringit/USD
vào ngày 11/8/1997, chính phủ Malaixia đó buộc phải tuyờn bố thả nổi đồng
tiền này. Tính đến ngày 31/12/1997, 1 USD đổi được 3,8903 Ringit, và đồng
Ringit mất giá 54% trong vũng 5 thỏng cuối. Vào những ngày cuối thỏng 1 năm

1998, tỷ giá giữa đồng Ringit với đồng USD là 4,4350 Ringit/USD và đồng
Ringit đó mất giỏ 70% so với ngày 2/7/1997.
Những kế hoạch cải tổ trọn gói nền kinh tế Malaixia cơng bố vào ngày
25/3/1998 đó đem lại sự bỡnh ổn tạm thời cho đồng Ringit ở mức giá 3,78 đến
3,85 Ringit/USD tính đến cuối tháng 5 năm 1998. Malaixia hy vọng sẽ bỡnh ổn
được tỷ giá đồng nội tệ của mỡnh so với đồng Đô la Mỹ ở mức 3,59 Ringit ăn 1
USD vào cuối năm 1998. Tuy nhiên sự suy thoái kinh tế ở Nhật Bản và sự giảm
giá đột ngột, liên tục cuả đồng Yên Nhật Bản kể từ giữa tháng 5 năm 1998 và
các đồng tiền ASEAN khác kể từ tháng 7 năm 1997 đó tỏc động đáng kể đến
đồng Ringit Malaixia. Kể từ ngày 10/6/1998 đến ngày 30/8/1998, đồng Ringit
tiếp tục rơi vào sự mất giá ở mức 4,5-4,1 Ringit/USD, giảm 8% so với những
ngày đầu tháng 5 năm 1998.
Những diễn biến phức tạp của đồng Ringit Malaixia cho thấy đất nước này
đó khơng đủ khả năng bảo vệ đồng tiền của mỡnh trước cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu Á, và nền kinh tế Malaixia đó rơi vào suy thoái trầm trọng.

10


III. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đồng ringit đối với nền kinh tế
Malaixia
Tác động nặng nề của khủng hoảng tài chính Malaixia dẫn đầu ở các
lĩnh vực sau:
3.1.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút.
Năm 1997 tỷ lệ tăng trưởng GDP chỉ đạt 7,7% so với 8,2% của dự báo

trước đó và so với 8,6% của năm 1996. Năm 1998, tăng trưởng GDP ở Malaixia
đạt mức -8,6% so với kế hoạch 3% của chính phủ. Trong 6 tháng đầu 1999.

GDP của Malaixia tăng trưởng -1,5% đến -2%.Trong cơ cấu ngành kinh tế,
ngành công nghiệp chế tạo giảm 2,4%, ngành công nghiệp xây dựng giảm 10%
do các dự án xây dựng buộc phải trỡ hoón và ngành nụng nghiệp giảm 2,8%
trong 3 tháng đầu năm 1998.
3.2.

Nền kinh tế lõm vào khủng hoảng nợ.
Sự phá giá đồng Ringit 54% trong năm 1997 và 70% tính đến cuối q 1

năm 1998 đó làm tăng chi phí sản xuất do giá nhập khẩu tăng, lói suất và lạm
phỏt tăng, sức mua giảm và làm tăng gánh nặng nợ nần tính bằng ngoại tệ. Năm
1997, nợ nước ngoài của Malaixia chiếm 44,4% GDP so với 42,3% GDP năm
1996, đạt con số 41 tỷ USD. Nợ nước ngoài ngắn hạn cũng chiếm 28,6% tổng số
nợ so với 26,8% của năm 1996. Sự phá sản hang loạt các công ty kinh doanh bất
động sản và cổ phiếu đó làm tăng món nợ trên vốn cổ phần của cơng ty lên mức
bỡnh qũn 160 % so với 24 % trước khủng hoảng tài chính. Tỷ lệ nợ tư nhân dài
hạn ở Malaixia là cao nhất ASEAN, chiếm 98 % tổng nguồn quỹ cổ phần. Tỷ lệ
nợ khó đũi của các công ty tăng từ 11 % trong tổng số nợ năm 1996 lên 23 %
vào cuối năm 1997. Các khoản tiền vay khơng sinh lói tăng từ 15% vào cuối
năm 1997 lên 60 % tính đến tháng 6 năm 1999.
3.3.

Tỷ giá hối đoái tăng vọt.
Ngày 11/8/1997, Malaixia tuyờn bố thả nổi tỷ giỏ, đánh dấu sự bung nổ

khủng hoảng ở Malaixia. Tỷ giá hối đoái lập tức tăng vọt từ mức trên 2,5 Ringit/
USD vào tháng 7 năm 1997 lên 3,5 Ringit/USD vào tháng 11 năm 1997 và đạt
11



cao điểm 4,39 Ringit/USD vào tháng 1 năm 1998. Tức là tỷ giá hối đoái tăng
75,5% trong vũng 6 thỏng.
3.4. Xuất khẩu giảm nghiêm trọng và thâm hụt thương mại tăng cao.
Một nước với 90 % GDP phụ thuộc vào bn bán với nước ngồi, thỡ xuất
khẩu giảm sỳt là mối lo ngại rất lớn đối với Malaixia. Theo các chuyên gia kinh
tế thỡ việc đồng Ringit mất giá so với đồng USD có thể giúp hang xuất khẩu của
Malaixia cạnh tranh được với các nước láng giềng trong thời gian ban đầu. Tuy
nhiên trên thực tế sự tăng trưởng xuất khẩu của Malaixia vẫn tiếp tục giảm từ
năm 1996 trong khi đồng Ringit đang lên giá. Mặc dù việc phá giá đồng tiền là
để tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nhưng đứng trước cuộc khủng hoảng tài
chính cấp vùng và sức ép cạnh tranh về giá cả với hang hóa Trung Quốc về chất
lượng và giá cả với hang hóa Nhật Bản khi đồng Yên cũng giảm giỏ mạnh, thỡ
việc phỏ giỏ đồng Ringit chỉ là một lợi thế tỡnh huống, chứ khụng phải là lợi thế
cơ bản và lâu dài. Những lợi thế tỡnh huống này cũn phụ thuộc rất nhiều vào
mức cầu tại cỏc thị trường nước ngoài. Với trên 1/2 kim ngạch xuất khẩu của
Malaixia là hang điện, điện tử, và các bạn hang chủ chốt của Malaixia là Nhật
Bản, ASEAN, NIEs chiếm tới 54,3 % kim ngạch xuất khẩu cuả Malaixia năm
1997, thỡ đồng Ringit giảm giá sẽ không giúp Malaixia phục hồi được xuất
khẩu. Năm 1997 lói suất 3 thỏng lien ngõn hang ở Malaixia là 8,7 %, thời điểm
cao nhất là 14,2 % (tháng 4 năm 1997). Năm 1998 lói suất tuy cú hạ nhưng vẫn
đạt 6,44 %. Trong 6 tháng đầu năm 1997 xuất khẩu hang hoá giảm 1,087 tỷ
USD. Trong 6 tháng đầu năm 1998 tăng trưởng xuất khẩu của Malaixia là 9,75% và trong cả năm 1998 kim ngạch xuất khẩu của Malaixia đạt 73,22 tỷ
USD, giảm 5,8 tỷ USD so với năm 1997. Năm 1998 cán cân thương mại thặng
dư 14,92 tỷ USD, sau khi đó thõm hụt ở cỏc mức -16 tỷ USD năm 1997 và -0.09
tỷ USD năm 1996. Tuy nhiên xuất khẩu cỏc hang húa chủ chốt ở Malaixia giảm
nghiờm trọng.

12



Tỡnh hỡnh xuất khẩu của Malaixia năm 1996 - 1998

1996
78,33

1997
78,96

1998
73,22

0,5

-10,0

79,12

58,30

0,2

-26,4

78,42

-0,16

14,92

1,2 (30,0)


1,4

-

1,5

13,5

11,3

NIEs

-

34,1

29,3

ASEAN4

-

6,7

5,9

Trung Quốc

-


2,2

2,5

Mỹ

-

17,2

21,2

EU

-

14,3

15,6

Các nước khác

-

14

14

-


-3,5

-5,1

-

12,1

-68,2

6,3

-2,2

-12,2

1. Xuất khẩu (FOB, tỷ USD)
Tỷ lệ tăng trưởng (%)
2. Nhập khẩu (FOB, tỷ USD)

6,2 (25,5)

Tỷ lệ tăng trưởng
3. Cán cân thương mại (tỷ USD)
4. Tỷ lệ trong xuất khẩu của thế giới (%)
5. Xuất khẩu theo nước/khu vực (%)

-0,09


Nhật Bản

6. Xuất khẩu hàng điện, điện tử (tỷ lệ tăng
trưởng, %)

3,1 (31,1)

7. Xuất khẩu ô tô (tỷ lệ tăng trưởng %)
8. Xuất khẩu hàng dệt may (%)
3.5.

Các ngân hàng khơng có khả năng cung cấp vốn cho các hoạt động

doanh nghiệp.
Trong khu vực Đơng Nam Á, Malóiia là nước có quá nhiều nhân hàng.sự
mất giá của đồng Ringitvà sự sụt giá cổ phiếu đó đưa rất nhiều công ty ,kể cả
các công ty lớn vay vốn từ ngân hàng đó khụng trả được các khoản vay từ
nguồn tiền mặt của họ .tỡnh hỡnh đó trở lên tồi tệ hơn khi lói suất tăng lên và
thời hạn các khoản nợ khó đũi bị rỳt ngắn lại.Bởi giỏ trị cỏc cổ phiếungõn
hàng cũng bị xấu đi,cho nên các khách hàng của ngân hàng Malaixia đó
chuyển tiền sang gửi cỏc ngõn hàng nước ngoài ở Malaixia hoặc gửi đồng
13


Ringgit vào các ngân hàng ở nước ngồi. Điều đó đó khiến cỏc ngõn hàng
Malai khụng cú khả năng cung cấp vốn cho các hoạt động doanh
nghiệp.Trong khi đó,tỷ lệ phần trăm của các khoản nợ khơng thể hồn trả
tăng ,cũn vốn ngõn hàng thỡ giảm đi đáng k
3.6.


Lạm phát tăng cao và thất nghiệp tràn lan.
Trong 3 tháng đầu năm 1998, tỷ lệ vay nợ các công ty vẫn tăng 20 %, và

luồng vốn ngắn hạn vẫn bị thất thoát nặng nề (14,2 tỷ RM). Trong khi sản lượng
các ngành kinh tế và kim ngạch xuất khẩu giảm liên tục, giá cả hàng hóa tăng đó
dẫn đến lạm phát cao và nạn thất nghiệp tràn lan. Năm 1997, lạm phát ở
Malaixia là 2,9 %, năm 1998 đó là 5,1 %. Trong thỏng 1 năm 1998 giá cả hàng
hóa thiết yếu tăng 10 % so với cùng kỳ năm 1997, và trong tháng 2 năm 1998,
giá cả hàng hóa tăng cao 20 %. Tuy xu hướng đầu tư vào các ngành chế tạo vẫn
có chiều hướng tích cực trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 4 năm
1998, với việc chính phủ thong qua 296 dự án đầu tư với tổng số vốn là 3562,7
triệu USD, trong đó 48 % là đầu tư nước ngoài, tạo thêm được 29236 việc làm
mới, song khủng hoảng tài chính đó dẫn tới nạn thất nghiệp ở Malaixia. Từ 1
nước tương đối thiếu lao động, năm 1997 số người thất nghiệp đó tăng lên đạt
15000 người vào 6 tháng cuối năm và dự báo trong năm 1998 số người thất
nghiệp sẽ là 560000 người, đưa tỷ lệ thất nghiệp lên mức 6,4 % so với 2,7 % của
năm 1997. Trước mắt, Malaixia đó phải ngừng cỏc hợp đồng lao động đối với
người nước ngồi và thải 200000 người nhập cư ra khỏi lónh thổ Malaixia. Sự
suy giảm kinh tế đó đẩy mức nghèo đói của Malaixia tăng từ 6,7 % trong năm
1997 lên 8,5 % trong năm 1998.

Các chỉ số kinh tế của Malaixia năm 1997 – 1998

14


Chỉ số

Tỷ lệ


Chỉ số

Lói suất

Tỷ giá

Chỉ số

sản xuất

thất

giỏ tiờu

liờn ngõn

hối

giỏ

cụng

nghiệp

dựng

hàng (3

đoái


chứng

nghiệp

thỏng)

khoỏn

1995

13,2

2,8

3,4

6,82

2,5442

(KLSE)
995,2

1996

12,3

2,5

3,5


7,32

2,529

1275,3

1997 (cả

12,4

2,7

2,7

8,60

3,892

594,4

năm)

11,4

2,7

8,22

3,437


664,7

+ 10/1997

10,9

2,6

8,50

3,501

545,4

+ 11/1997

10,6

2,9

8,60

3,888

594,4

+ 12/1997

2,7


3,4

9,35

4,545

569,5

1998:

-6,7

4,4

10,80

3,675

745,4

+1/1998

-1,9

5,1

10,90

3,643


719,5

+ 2/1998

-6,0

5,6

11,00

3,737

626,0

+ 3/1998

-11,8

5,4

11,04

3,879

538,2

+ 4/1998

-9,0


6,2

11,07

4,175

455,6

+ 5/1998

-13,1

5,8

10,97

4,125

402,7

+ 6/1998

-13,8

5,6

10,14

4,220


302,9

3,5

+ 7/1998
+ 8/1998
3.7. Nhiều doanh nghiệp đó phỏ sản
Kể từ khi cuộc khủng hoảng tiền tệ nổ ra ở Malai,hoạt đông của khu vực
doanh nghiệp của Malai đó suy thoỏi nghiờm trọng.khụng chỉ cỏc cụng ty vừa
và nhỏ lõm vào sự phỏ sản nặng nề bởi đồng Ringit mất giá 70% kéo theo sự
mất mát 70% lợi nhuận của công ty, mà cả các tập đoàn kinh doanh lớn nổi tiếng
cũng lâm vào tỡnh trạng nợ nần khốn đốn.Chỉ số nợ /vốn cổ phần của tập đồn
cơng nghiệp viẽn thơng và hàng không malai xiado Tạiudin Ramli làm chủ tịch

15


là 153%,đạt 9,6 tỉ Ringit.chỉ số nợ ?vốn cổ phần của tập đồn đóng tàu quốc tế
Mian do con trai thủ tướng Mohamad làm chủ tịch là 298%,với số nợ là 1,7 tỉ
Ringit.tập đoàn Renong-một tập doàn lớn gồm 11 công ty con,chủ yếu kinh
doanh ở lĩnh vực cơ sở hạ tầng –do halim Sâd làm chủ tịch cũng phải gánh chịu
4,1 tỉ ringit tiền nợ, tăng dần gấp dôi số nợ trước khi đồng ringit phá giá ,do
ngành xây dựng đỡnh đốn
3.8.

Khủng hoảng đồng Ringit đó làm thay đổi vị trí cạnh tranh của nền

kinh tế Malai trên thị trường thế giới .Theo đánh giá của viện nghiên cứu quốc tế
phát triển thị trường (IMI),vị trí cạnh tranh của Malai tụt xuống từ hàng thứ 17

trên thế giới vào năm 1997 xuống hàng thứ 20 thế giới vào năm 1998.

16


Chương III: Những giải pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính - tiền tệ và
phục hồi nền kinh tế
Khi mới xảy ra khủng hoảng chính phủ Malaixia cho rằng, nguyên nhân
chủ yếu của cuộc khủng hoảng là do hiệu ứng lan truyền từ các nền kinh tế trong
khu vực, do hậu quả của đầu cơ tiền tệ và chứng khoán dựa trên một số chỉ số
kinh tế vĩ mô yếu kém như nợ nước ngoài cao, thâm hụt tài khoản vãng lai cao
và kéo dài. Vì vậy, chính phủ Malaixia đã thi hành chính sách thắt chặt kinh tế
sau khi các biện pháp can thiệp vào thị trường tiền tệ lúc mới xảy ra khủng
hoảng khơng có hiệu quả.
C ác biện pháp cụ thể như sau:
1. Can thiệp vào thị trường tiền tệ để ngăn chặn sự đầu cơ, phục hồi lại lịng
tin thị trường.
Sau khi có dấu hiệu khủng hoảng, chính phủ Malaixia đã tiến hành một số
biện pháp trước mắt để ngăn chặn tác động lan rộng của sự phá giá đồng
Ringgit. Trong hai ngày 2/8 đến 3/8/1997, NHTW Negara đã ban hành một số
quy định mới về hướng dẫn giao dịch giữa các NHTM và khách hàng nước
ngoài về đồng Ringgit. Theo quy định này, các ngân hàng Malaixia khơng được
phép bán đồng Ringgit cho mỗi nhóm khách hàng nước ngoầi quá mức quy định
là 2 triệu Ringgit, đồng thời chính phủ đã tung ra 1,5 tỷ USD để mua đồng
Ringgit vào. Giải pháp này đã nâng đồng Ringgit lên mức 2,6010 Ringgit/1USD
so với 2,6260 Ringgit/1USD trong 24h sau, tạm thời ngăn chặn được giới đầu cơ
tấn công vào đồng Ringgit. Ngày 7/1/1998, khi đồng Ringgit mất giá ở mức 4,8
Ringgit/1USD, NHTW Negara đã tung một lượng tiền trị giá từ 200 đến 300
triệu USD để mua đồng Ringgit vào tạm thời ổn định thị trường tiền tệ.
2. Can thiệp vào thị trương chứng khoán bằng cách ra lệnh cấm bán một số

chứng khoán trên thị trường Kuala Lumpur vào ngày 27/8/1986. Ngày 3/9/1997
thủ tướng Malaixia ra kế hoạch thu hút khoảng 20 tỷ USD để chống đỡ cho thị
trường chứng khoán. Giải pháp trên đã tạm thời giữ cho chỉ số chứng khoán
khỏi tụt giá quá mức. Ngày 10/8/1997 chỉ số chứng khoán giảm 29% so với
17


tháng 3/1997, đạt 894 điểm. Tuy nhiên vào cuối năm 1997, chỉ số chứng khoán
giảm 50%.
3. Nâng lãi suất cho vay 3 tháng liên ngân hàng lên mức 16,4%/tháng vào
ngày 14/7/1997 so với mức 7,35%/tháng vào ngày đầu tháng 5/1997 và 8 –
10%/tháng vào ngày 1/7/1997. Lãi suất cao đột ngột như vậy có tác dụng hạn
chế tác hại sâu sắc của lạm phát buộc các nhà đầu cơ phải sớm thanh toán các
khoản nợ ngân hàng, ngăn chặn sự tấn công hơn nữa vào đồng Ringgit.
4. Cải tổ hệ thống ngân hàng.
ở Malaixia, NHTW Negara đã có chính sách hợp nhất ngân hàng trong 12
năm qua. Việc hợp nhất này là để cứu vãn tình hình nợ khó địi của các ngân
hàng thương mại. Chính phủ đã thành lập tổ chức Danaharta để mua lại các
khoản nợ không thể hồn trả của các ngân hàng, và kiểm sốt việc thu lại các
khoản nợ này cũng như sự phục hồi của các công ty bị ảnh hưởng.
Để củng cố vốn cho các ngân hàng, Danamodal được thành lập, với 16 tỷ
Ringgit vốn ban đầu. Salomon Smith Barney – một ngân hàng quốc tế hàng đầu
được chỉ định làm cố vấn cho việc quản lý Danamodal và quyết định khả năng
rót vốn cho các ngân hàng trên cơ sở xem xét thận trọng.
Ngồi ra, Uỷ ban cơ cấu lại nợ cơng ty (CDRC) cũng được thành lập với
mục đích giúp cho các cơng ty Malaixia thốt khỏi tình trạng phá sản do hậu quả
của khủng hoảng.
Từ ngày 23/4/1998, việc cải tổ hệ thống ngân hàng và tài chính được
chính phủ thực hiện như sau:
+ Sát nhập 39 cơng ty tài chính thành 8 công ty lớn

+ Giới hạn tốc độ vay vốn ở mức 15%, giảm 1/2 so với mức của năm
1997.
+ Quy định chặt chẽ hơn về loại vốn vay không được trả lãi suất
+ Nới lỏng giới hạn sở hữu ngân hàng và cơng ty tài chính của người
nước ngoài. Hiện nay mức sở hữu của người nước ngoài trong các ngân hàng
vẫn duy trì ở mức 30%.
18


5. ổn định đồng Ringgit và thị trường tài chính.
Khi đồng Ringgit lâm vào khủng hoảng, phương pháp tăng tỷ lệ lãi suất
và hạn chế tăng trưởng tín dụng IMF được áp dụng từ khi bắt đầu khủng hoảng
chỉ làm cho tình hình kinh tế tồi tệ hơn, đồng thời làm cho các nhà dầu tư mất
niềm tin đưa vốn trở lại. Trước tình hình đó để tăng cường sức mạnh của đồng
Ringgit, chính phủ đã thực hiện các biện pháp sau:
- Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp trong phạm vi ngân sách.
- Giảm sự phụ thuộc vào đồng USD trong hoạt động thương mại của
Malaixia với các nước khác.
- Tăng dự trữ ngoại tệ ít nhất đủ chi trả cho 5 tháng nhập khẩu, bằng
cách giữ vững sự cân bằng cán cân thanh toán và tài khoản hiện hành.
Và một số biện pháp khác nhằm dự trữ ngoại tệ là khuyến khích các cá
nhân và công ty Malaixia bán rẻ các tài khoản của họ ở nước ngồi.
- Thực hiện các chính sách lãi suất hợp lý. Tiến hành biện pháp giảm lãi
suất để thúc đẩy thanh toán trong hệ thống ngân hàng. tuy nhiên mức
lãi suất này cần cao hơn mức lạm phát.
- Cải thiện thị trường vốn bằng cách tăng cường hệ thống giám sát và
công bố yếu kém của những người tham gia thị trường vốn.
6. Hỗ trợ xuất khẩu, cải hiện cán cân thương mại.
Để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng đồng Ringgit
đối với sự tăng trưởng xuất khẩu, ngày 14/5/1998 chính phủ Malaixia đã thúc

đẩy việc thực hiện cơ chế thanh toán hàng đổi hàng trong nội bộ ASEAN nói
riêng và các nước trong khu vực nói chung, kể cả Trung Quốc và Nhật Bản.
Điều này góp phần giảm sự phụ thuộc của đồng Ringgit vào đồng USDvà tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu.
7. Giải quyết các vấn đề xã hội, tạo niềm tin khu vực kinh tế.
Mở rộng các quan hệ cơ hội việc làm, do tỷ lệ thât nghiệp tăng từ 2,7%
(1997) lên 6,4% (1998) chính phủ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho các ngành công
nghiệp xuất khẩu cần nhiều lao động kỹ thuật cao.
19


Kiểm sốt dịng lao động nước ngồi nhập cư bằng cách xem xét lại các
chính sách, các chiến lược về lao động nước ngoài, hồi hương các lao động nước
ngoài không sắp xếp được công việc.
Tiếp tục quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu biến
Malaixia thành trung tâm giáo dục cao trong khu vực. Chính phủ tiến hành mở
cửa 183 trường trung học và tiểu học mới, xây dựng 1217 trường mới khác
Trên đây là một số giải pháp mà chính phủ Malaixia đã thực hiện thành cơng
và đã đưa nền kinh tế Malaixia thốt khỏi khủng hoảng.

20



×