Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
MỤC LỤC
1.3.2.Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng ................................................. 10
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986,đất nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn,đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế nước ta không
ngừng phát triển và lớn mạnh, chính vì thế đời sống người dân ngày càng nâng cao
hơn nên nhu cầu sinh hoạt,mua sắm và tiêu dùng vì thế cũng tăng lên nhanh
chóng.Nắm bắt được xu hướng đó, các ngân hàng Việt Nam đã tích cực phát triển
hoạt động cho vay tiêu dùng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như góp phần
vào sự phát triển chung của nền kinh tế.Ngoài ra do sự đa dạng hóa của nền kinh tế
đã tạo nên sự cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế nên ngành ngân hàng phải
không ngừng phát triển và tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp để vừa có thể đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng vừa đứng vững trong cơ chế thị
trường.Chính vì thế phương thức mở rộng cho vay tiêu dùng mang tính chiến lược để
phát triển nền kinh tế.vì lợi ích mà nó mang lại cho ngân hàng là rất lớn và thuận tiện
cho người tiêu dùng.Vì thế phương thức mở rộng cho vay tiêu dùng có ý nghĩa rất
quan trọng trong ngân hàng
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Trực Ninh, em nhận thấy hoạt động cho vay tiêu dùng ở chi nhánh vẫn còn
nhỏ bé và đơn giản, chưa phát huy hết tầm quan trọng của phương thức này và chưa
có giải pháp mở rộng khắc phục mặt yếu kém của phương thức này. Do đó em lựa
chọn đề tài “Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Chi nhánh Trực Ninh” để nghiên cứu trong chuyên đề báo cáo thực tập.
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và lợi ích của cho vay tiêu dùng
Ngân hàng là một trong các tổ chức kinh tế quan trọng nhất của nền kinh tế,
có nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, huy động vốn trong nền kinh
tế và đưa vốn đó đến những nơi cần vốn thông qua hoạt động cho vay,giúp các hộ gia
đình,doanh nghiệp có thể quay vòng được nguồn để thực hiện hoạt động kinh doanh
và mở rộng hoạt động kinh doanh.Ngoài ra nó còn giải quyết được vấn đề tiền nhàn
rỗi tập trung nhiều trong khu dân cư.
Cho vay là một hoạt động truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của
Ngân hàng, giúp Ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm:
Theo QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay được hiểu như sau: Cho vay là một hình
thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích và trong thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Hoạt động cho vay tiêu dùng được hiểu như sau: Cho vay tiêu dùng là các
khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá
nhân và hộ gia đình.Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này
trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ... Bên cạnh đó, những chi tiêu
cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch... cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu
dùng.
Hai là: nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ
kinh tế.
Ba là: nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất mà
thông thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ
phải chịu.
Bốn là: mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng.
Năm là: chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao.
Sáu là: nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào
quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những người này.
Bảy là: tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng,
quyết định sự hoàn trả của khoản vay.
1.1.2. Lợi ích của hoạt động cho vay tiêu dùng
Một hình thức cho vay muốn tồn tại và phát triển trong hoạt động của ngân
hàng thì bản thân nó phải đem lại những lợi ích thiết thực cho những người đã tạo ra
và sử dụng nó. Hình thức cho vay tiêu dùng đã xuất hiện từ lâu và cho đến nay hoạt
động của nó vẫn không ngừng được các ngân hàng quan tâm phát triển, khách hàng
sử dụng, chính phủ các nước đồng tình ủng hộ.
Đối với ngân hàng, ngoài hai nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, cho
vay tiêu dùng có những lợi ích quan trọng như:
Thứ nhất, cho vay tiêu dùng giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng với
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được đối tượng khách hàng mới,
từ đó mà mở rộng quan hệ với khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng
lưới, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng
khách hàng đến với ngân hàng sẽ ngày càng nhiều hơn và hình ảnh của ngân hàng sẽ
càng đẹp hơn trong con mắt khách hàng. Trong ý nghĩ của công chúng, ngân hàng
không chỉ là tổ chức chỉ biết quan tâm đến các công ty và doanh nghiệp mà ngân
hàng còn rất quan tâm tới những nhu cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp
ứng nguyện vọng cải thiện đời sống của người tiêu dùng. Từ đó mà uy tín của ngân
hàng ngày càng được nâng cao hơn.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng cũng là một công cụ marketing rất hiệu quả, nhiều
người sẽ biết tới ngân hàng hơn. Từ đó mà ngân hàng cũng sẽ huy động được nhiều
nguồn tiền gửi của dân cư.
Thứ ba, cho vay tiêu dùng tạo điều kiện mở rộng và đa dạng hoá kinh doanh từ
đó mà nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Đối với người tiêu dùng, nhờ cho vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích
trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những
trường hợp khi các nhân có các chi tiêu có tính cấp bách, nhu như cầu chi tiêu cho
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
giáo dục và y tế. Tuy vậy, nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại
vì nó có thể làm cho người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả
năng tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, còn rất nghiêm trọng hơn nếu mất khả
năng chi trả thì người này có thể gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.
Cuối cùng, đối với nền kinh tế, cho vay tiêu dùng góp phần khơi thông luồng
chuyển dịch hàng hoá. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nếu như không có
tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hoá không tiêu thụ được dẫn tới doanh
nghiệp bị ứ đọng vốn và đương nhiên quá trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò
của ngân hàng lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu
dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích luỹ đủ số tiền
cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp
tiêu thụ được hàng hoá, sau đó mới có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Khi đã
tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và sẽ tìm tới ngân hàng để
tiếp tục vay vốn. Như vậy, ngân hàng cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho cả ba bên:
người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế.
Tóm lại, cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ
trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Song, nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được dùng như vậy thì
chẳng những không kích được cầu mà nhiều khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm
trong nước.
1.2. Các hình thức cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số
tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào các căn cứ sau đây:
1.2.1. Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại:
a. Cho vay tiêu dùng cư trú
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua
sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
b. Cho vay tiêu dùng phi cư trú
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các
chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch...
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
1.2.2.Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng được chia làm ba loại:
1.2.2.1. Cho vay tiêu dùng trả góp
Cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay
trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có
giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh
toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn
đề cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài
sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương
lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều kiện này, nên
thường chỉ muốn tài trợ nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền
hoặc có giá trị lớn. Vì rằng với những loại tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được
hưởng những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài.
- Số tiền phải trả trước: Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải
thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm – số tiền này được gọi là số
tiền trả trước – phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn
để một mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu cuả tài sản, mặt
khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng
mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có
thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không phát mãi tài
sản để thi hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị
thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai
trò rất quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước nhiều hay ít thường
tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
(i) Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả
trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả
trước ít.
(ii) Thị trường tiêu thụ tài sản khi đã sử dụng: tài sản khi đã sử dụng nếu vẫn có
thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả
trước có xu hướng cao hơn.
(iii) Môi trường kinh tế.
(iv) Năng lực tài chính của người đi vay.
- Chi phí tài trợ: Là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử
dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan.
Chi phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro,
đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
- Điều kiện thanh toán: Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh
toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
(i) Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong
mối quan hệ hài hòa với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
(ii) Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi.
(iii) Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ
thường theo tháng. Vì lẽ, thông thường, nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng là
lương được nhận hàng tháng;
(iv) Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời hạn
hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị
giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay
cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được tính
bằng một số các phương pháp sau:
- Phương pháp gộp: Đây là phương pháp được áp dụng trong cho vay trả góp,
do tính chất đơn giản và dễ hiểu của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được
tính bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào
vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi
định kỳ. Công thức tính toán như sau:
T = (V + L) / n
Trong đó: T là số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn
V là vốn gốc
L là chi phí tài trợ bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
khác có liên quan
n là số kỳ hạn
Theo phương pháp gộp, lãi được tính trên cơ sở vốn gốc ban đầu cho toàn bộ
thời hạn vay. Trong khi đó, vào mỗi định kỳ, người đi vay phải thanh toán một phần
vốn gốc cho nên vốn gốc ban đầu được giảm dần trong thời hạn vay. Với cách tính
như vậy, lãi suất được dùng để tính lãi không phải là lãi suất thực sự được áp dụng
đối với người đi vay. Để bảo vệ quyền lợi của người vay, khi tính toàn theo phương
pháp này, pháp luật các nước thường yêu cầu ngân hàng phải quy đổi từ lãi suất tính
toán sang lãi suất hiệu dụng và niêm yết để người vay dễ dàng cân nhắc chi phí vay
mượn mà mình sẽ phải trả cho ngân hàng, từ đó có quyết định lựa chọn hợp lý.
Công thức để quy đổi ra lãi suất hiệu dụng như sau:
i = 2mL/V(n+1)
Trong đó: i là lãi suất hiệu dụng
m là số kỳ hạn thanh toán trong một năm
Tâm lý của người đi vay trả góp thường rất thích được tài trợ với thời hạn dài
để giảm gánh nặng về số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn. Thế nhưng công thức trên cho
thấy khi n càng lớn thì lãi suất hiệu dụng càng có giá trị cao hơn. Có nghĩa là, người
đi vay phải trả cho ngân hàng lãi suất cao hơn nếu họ muốn được tài trợ với thời hạn
dài hơn.
- Phương pháp lãi đơn:
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tính
đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải
trả mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu ngân hàng.
- Phương pháp giá hiện hành:
Theo phương pháp này, số tiền phải trả hàng kỳ trong tương lai đều được quy
về giá trị hiện tại.
Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà
không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp
giá hiện hành thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc
còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tiền
trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo
phương pháp gộp, lãi được tính dựa trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ trước
hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ giả định ban đầu và như vậy số
tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp này, ngân hàng thường áp
dụng các phương pháp giống như các phương pháp phân bổ lãi cho vay nói trên để
tính ra số lãi thực sự phải thu, dựa trên thời hạn nợ thực tế.
1.2.2.2. Cho vay tín dụng phi trả góp
Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ
một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được
cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
1.2.2.3. Cho vay tín dụng tuần hoàn
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép
thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này số
dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã
thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo phương pháp
này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ cuối mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được
thanh toán.
- Lãi được tính dựa trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.2.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:
Cho vay tiêu dùng gồm:
1.2.3.1.Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho
người tiêu dùng. Hình thức có những ưu nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng; cho phép ngân
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay; là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ
với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác; trong trường hợp có quan hệ với
những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng
trực tiếp.
* Nhược điểm:
Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu;
thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng
hóa; kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này
thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
1.2.3.2. Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng
trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân
viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân
hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi
những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt
động của mình nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra
các khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của công ty bán lẻ thường
chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các
quyết định tín dụng thường được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong
một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng
đối với khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có
thể được hạn chế.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián
tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể
phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân
hàng.
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
1.3. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM
1.3.1.Rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng là các khoản vay trung và dài hạn, với
thời hạn từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm, nên có thể có rất nhiều rủi ro có thể phát
sinh.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán của người đi vay:
Do các khoản cho vay tiêu dùng có thời hạn dài nên khả năng trả nợ phụ thuộc
rất nhiều vào tình trạng sức khoẻ, gia đình và công việc của người đi vay. Những rủi
ro có thể xảy ra trong trường hợp này bao gồm:
+ Người đi vay bị chết hoặc bị tai nạn dẫn đến mất khả năng lao động, hoàn
toàn không có khả năng trả món nợ còn lại cho ngân hàng;
+ Người vay bị tai nạn, giảm khả năng lao động hoặc thay đổi vị trí công tác
dẫn đến giảm sút thu nhập không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
- Rủi ro do khách hàng gian lận: Do khách hàng vay tiêu dùng là các cá nhân
nên các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về khách
hàng. Lợi dụng điều này khách hàng có thể cố tình gian lận để chiếm đoạt tiền vay
dẫn đến rủi ro không thu hồi được vốn cho ngân hàng.
Ngoài ra, giống như những khoản cho vay thương mại khác, các khoản cho
vay tiêu dùng cũng phải chịu những rủi ro về lãi suất và tỉ giá. Do thời hạn cho vay
dài nên lãi suất trên thị trường có thể có những biến động lớn trong suốt quá trình cho
vay vốn. Nếu áp dụng một mức lãi suất cố định trong suốt thời hạn cho vay thì khi lãi
suất trên thị trường tăng, ngân hàng có thể sẽ phải chịu rủi ro vì cho vay với lãi suất
quá thấp. Ngược lại, nếu lãi suất trên thị trường giảm, những khoản cho vay của ngân
hàng với lãi suất cao hơn sẽ không còn hấp dẫn được người đi vay, ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
Trong trường hợp khoản vay được thực hiện bằng ngoài tệ thì các ngân hàng
có thể gặp phải rủi ro khi tỉ giá hối đoái thay đổi hoặc người đi vay sẽ gặp khó khăn
trong việc trả nợ gốc và lãi trong trường hợp tỉ giá thay đổi trong khi nguồn thu nhập
của người đi vay lại bằng nội tệ.
1.3.2.Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng liên quan đến số lượng lớn khách
hàng. Mỗi người vay có số lượng vay tương đối nhỏ và các ngân hàng cần xử lý rất
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
nhiều những khoản vay này để tạo ra số dư lớn trong hoạt động cho vay tiêu dùng
không có tài sản đảm bảo. Với số lượng khách hàng lớn như vậy, các nhà quản lý
ngân hàng cần phải thực hiện những biện pháp kiểm soát, quản lý rủi ro hiệu quả đối
với quá trình cấp tín dụng tiêu dùng.
Quản trị rủi ro trong tín dụng tiêu dùng được hiểu là một chiến lược quản lý
danh mục cho vay trong đó đảm bảo sự cân đối giữa bảo toàn vốn và tối ưu hóa việc
sử dụng nguồn vốn. Hay nói cách khác, quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu
dùng là một quá trình liên tục nhận ra và nắm bắt những cơ hội cho vay thích hợp và
tránh những rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Trong quản trị rủi ro đối
với hoạt động cho vay tiêu dùng, việc nắm bắt thông tin về khách hàng và quản lý
thông tin một cách thống nhất là những yếu tố then chốt giúp cho việc quản lý danh
mục cho vay đạt hiệu quả cao. Mặc dù đây là một nguyên tắc khá rõ ràng nhưng việc
thực thi nguyên tắc đó còn gặp khá nhiều khó khăn.
Quản trị rủi ro tín dụng tiêu dùng bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Phân tích tín dụng tiêu dùng:
Hầu hết các ngân hàng với số lượng lớn khách hàng xin vay tiêu dùng thường
bổ sung cho việc phân tích tín dụng của họ bằng hệ thống cho điểm tín dụng thống
kê. Hệ thống phân tích tự động này là phương tiện để đánh giá đề nghị vay sử dụng
mẫu cho điểm liệt kê những đặc điểm của đề nghị vay như mức thu nhập, thời gian
làm việc, quyền sở hữu nhà ở, và những hình thức tín dụng đã có trước đây với
những người bán lẻ hoặc những người cho vay khác. Đề nghị vay được cho điểm
theo mỗi đặc điểm và tổng số điểm cho ta thấy liệu người đề nghị vay có đủ tiêu
chuẩn vay hay không. Khả năng được chấp nhận sẽ được dự báo dựa trên cơ sở dữ
liệu của ngân hàng về những khách hàng có những đặc điểm tương tự và về việc
thanh toán các khoản vay trước đây đối với ngân hàng của người xin vay đó.
Cho điểm tín dụng thường ít được sử dụng như một tiêu chí duy nhất đẻ thực
hiện các khoản tín dụng tiêu dùng. Những yếu tố khác như khả năng thanh toán nợ,
điều kiện kinh tế hiện tại và những yêu cầu về thế chấp, phải đáp ứng được những
tiêu chuẩn về bảo đảm an toàn của ngân hàng. Những thông tin khách quan - như về
cá nhân và hình thức bề ngoài của khách hàng, tiềm năng về một mối quan hệ có lợi
trong tương lai, và những yếu tố không thể định lượng khác - sẽ giúp cho quá trình
phân tích tín dụng có giá trị thực tế hơn. Phân tích tín dụng là một quá trình nhờ đó
cả những yếu tố chủ quan như những yếu tố có thể định lượng được đánh giá đồng
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
thời. Mục đích của quá trình này là giảm thiểu rủi ro, tổn thất cho vay và những
khoản cho vay khó đòi. Các bước trong quá trình phân tích tín dụng tiêu dùng được
liệt kê trong bảng dưới đây
Biểu 1: Các bước trong quá trình phân tích tín dụng
1. Xác định mục đích sử dụng khoản vay
và số tiền vay
3. Kiểm tra và xác minh thông tin
2. Thu thập thông tin:
a. Tín dụng tiêu dùng
b. Báo cáo tài chính cá nhân
c. Thu nhập tính thuế
Báo cáo tài chính hoạt động kinh doanh
4. Phân tích
a. Báo cáo tài chính
b. Lưu chuyển tiền mặt
5. Đánh giá tài sản bảo đảm, nếu cần thiết
6. Đánh giá và cơ cấu khoản tín dụng
7. Thương lượng với người xin vay
+ Phương pháp hệ thống điểm số):
Hoạt động cho vay tiêu dùng trực tiếp của ngân hàng liên quan đến một số
lượng rất đông các khách hàng. Mỗi khách hàng thường vay một số tiền nhỏ hơn
nhiều so với trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Muốn có một mức dư nợ lớn trong
hoạt động cho vay tiêu dùng, các ngân hàng phải thực hiện một số lượng các hợp
đồng cho vay gấp nhiều lần so với cho vay trong các lĩnh vực nói trên. Khi số lượng
khách hàng lớn thì yêu cầu về một có chế kiểm soát an toàn và hiệu quả đối với việc
ra quyết định cho vay là hết sức cần thiết. Trong những trường hợp như vậy ngân
hàng thường sử dụng một phương pháp hỗ trợ rất đắc lực để ra quyết định tín dụng,
đó là hệ thống điểm số.
Hệ thống điểm số là một tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan đến từng
khách hàng vay tiêu dùng. Mỗi tiêu thức có một điểm số khác nhau tuỳ theo tình
trạng của tiêu thức này và tầm quan trọng của nó trong hệ thống các tiêu thức, dựa
trên cơ sở các kết quả thống kê trong lịch sử.
Trên thực tế, một hệ thống điểm số thường có rất nhiều yếu tố, được xây dựng
dựa trên nguyên tắc nói trên. Thông thường trong một hệ thống điểm số, có khoảng 7
đến 12 yếu tố khác nhau được xem xét bao gồm: thời gian làm công việc hiện tại;
tình trạng gia đình (có gia đình, độc thân hay đã ly hôn); độ tuổi; hình thức lao động
(có kỹ năng hay không); thời hạn cư trú; số lượng người sống phụ thuộc vào người
vay; loại tài sản có tại ngân hàng...
Biểu 2: Hệ thống điểm số tại một ngân hàng ở Mỹ
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
Các yếu tố Điểm số
1. Nghề nghiệp của người vay
Chuyên viên hoặc các nhà quản trị 10
Lao động có tay nghề 8
Nhân viên văn phòng 7
Sinh viên 5
Lao động không có tay nghề 4
Lao động bán thời gian 2
2. Tình trạng cư trú
Có nhà riêng 6
Có nhà thuê hoặc chung cư 4
ở với người bạn thân hoặc bạn bè 2
3. Hạng tín dụng
Tốt 10
Trung bình 5
Không có 2
Xấu 0
4. Thời gian làm việc đối với nghề nghiệp hiện tại
Hơn một năm 5
Một năm hoặc ít hơn 2
5. Thời gian đã cư ngụ tại địa chỉ hiện tại
Hơn một năm 2
Một năm hoặc ít hơn 1
6. Có điện thoại tại chỗ ở
Có 2
Không 0
7. Số người sống dựa vào người vay
Không 3
Một 3
Hai 4
Ba 4
Nhiều hơn ba 2
8. Loại tài khoản có tại ngân hàng
Cả tài khoản séc lẫn tài khoản tiết kiệm 4
Chỉ có tài khoản tiết kiệm 3
Chỉ có tài khoản séc 2
Không có tài khoản nào 0
Điểm cao nhất có thể có đối với một khách hàng theo hệ thống điểm số này là
43 điểm. Còn điểm thấp nhất là 9 điểm.
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
Căn cứ vào số liệu thống kê trong quá khứ về khả năng rủi ro của các loại khách
hàng có điểm số giống nhau, các ngân hàng thường đưa ra nhiều mức cho vay tối đa
khác nhau đối với từng khách hàng có điểm số ở những nhóm điểm số khác nhau. Ví
dụ, trong bảng sau đây là các mức cho vay tối đa đối với từng khách hàng có điểm số
khác nhau của ngân hàng Mỹ nói trên (xem biểu 3).
Phương pháp hệ thống điểm số dựa trên giả định các yếu tố trong hệ thống là
giống nhau, nếu các yếu tố này phản ánh chính xác các khoản tín dụng là tốt hoặc xấu
trong quá khứ thì cũng sẽ tiếp tục có khả năng như vậy trong tương lai với mức độ
sai số có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, khi môi trường kinh tế - xã hội có những
biến động lớn ảnh hưởng đến các yếu tố tín dụng được xem xét trong hệ thống điểm
số thì rõ ràng giả định trên không còn phù hợp nữa. Thế nên, các ngân hàng phải
thường xuyên tiến hành tái xét, bổ sung và sửa đổi hệ thống điểm số mà mình đang
sử dụng.
Biểu 3: Mức cho vay tối đa theo điểm số ngân hàng Mỹ
Điểm số Số tiền cho vay tối đa
Từ 28 điểm trở xuống 0
29-30 điểm 500
31-33 điểm 1.000
34-36 điểm 2.500
37-38 điểm 3.500
39-40 điểm 5.000
41-43 điểm 8.000
Hiện nay tại các nước có lĩnh vực cho vay tiêu dùng phát triển đã hình thành
những trung tâm thông tin tín dụng trong đó lưu giữ thông tin về cả những khách
hàng cũ và những khách hàng tiềm năng của các ngân hàng. Các thông tin về khách
hàng được chia theo nhiều loại, nhóm khách hàng. Các ngân hàng có thể sử dụng
thông tin từ các trung tâm này hoặc có thể kết hợp những thông tin này với những dữ
liệu và kinh nghiêm của riêng của ngân hàng mình để đánh giá về độ tín nhiệm của
khách hàng. Trên thị trường cũng sẵn có rất nhiều mô hình tính điểm tín dụng thường
xuyên được cập nhật theo những thay đổi về đặc tính của người tiêu dùng. Các ngân
hàng có thể lựa chọn mô hình phù hợp trong số những mô hình sẵn có này để áp dụng
trong việc tính điểm tín dụng cho các khách hàng của mình. Tuy nhiên, thách thức
lớn nhất hiện nay, ngay cả đối với những ngân hàng đi đầu tư trong lĩnh vực cho vay
tiêu dùng, là lựa chọn và xây dựng những mô hình tính điểm tín dụng như thế nào để
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
áp dụng đối với những nhóm khách hàng mới.
Phương pháp hệ thống điểm số thường được sử dụng bổ sung với phương pháp
phán đoán dưới đây:
Phân tích tín dụng theo phương pháp phán đoán là một quá trình trong đó ngân
hàng tiến hành phân tích và đánh giá tất cả các thông tin định tính và định lượng về
khách hàng nhằm mục tiêu hạn chế các khoản cho vay có rủi ro cao. Do phương pháp
hệ thống điểm số trong cho vay tiêu dùng không phải là phương pháp duy nhất được
các ngân hàng sử dụng vì có rất nhiều vấn đề khác mà ngân hàng cũng rất quan tâm.
Những vấn đề đó bao gồm khả năng trả nợ, điều kiện kinh tế hiện tại, bảo đảm nào
cần phải có, phải tuân thủ nội dung của chính sách cho vay của ngân hàng. Các thông
tin có tính chủ quan về khách hàng như thái độ, diện mạo của khách hàng, khả năng
quan hệ với ngân hàng trong tương lai có tác dụng rất quan trọng trong việc ra quyết
định của ngân hàng.
Tùy ngân hàng mà hệ thống các yếu tố được phân tích có thể khác nhau, phổ
biến nhất là hệ thống 5C ( Character - tư cách của người đi vay; Capacity - khả năng
vay mượn của người đi vay; Cash - khả năng tạo ra tiền để trả nợ ngân hàng;
Collateral - bảo đảm tín dụng; Condition - điều kiện môi trường) và hệ thống
CAMPARI (Character - tư cách của khách hàng; Ability - năng lực của người vay;
Margin - lãi cho vay; Purpose - mục đích vay; Amount - số tiền; Repayment - sự
hoàn trả; Insurance - bảo đảm).
Có rất nhiều phương pháp để quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng
trong đó có một số phương pháp sau đây được nhiều ngân hàng sử dụng:
- Xác định giới hạn cho vay
Việc xác định giới hạn cho vay sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ rủi ro của
khoản vay sau này. Xác định giới hạn cho vay nhằm mục đích tránh để khách hàng
rơi vào tình trạng vay nợ quá nhiều. Theo đánh giá của các định chế tài chính chuyên
nghiệp, có 3 dấu hiệu để nhận biết khách hàng đang vay nợ quá nhiều:
+ Sử dụng 25% thu nhập của mình hoặc hơn để thanh toán cho các khoản tín
dụng tiêu dùng;
+ Sử dụng 50% thu nhập của mình hoặc hơn để thanh toán cho các khoản vay
mua nhà trả chậm và các khoản tín dụng tiêu dùng khác;
+ Có từ 4 hợp đồng tín dụng tiêu dùng trở lên tại cùng một thời điểm.
- Quản lý danh mục cho vay
Trong hoạt động tín dụng tiêu dùng, danh mục các khách hàng thường là tập
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
hợp những khoản vay tương đối đồng nhất (vì cùng một mục đích là tiêu dùng) vì
vậy kỹ thật thống kê phân tích thường xuyên được áp dụng và đặc biệt hữu ích. Các
kỹ thuật phân tích này được áp dụng trong tất cả các bước, từ phân tích trách nhiệm,
xây dựng chiến lược giá cả, quyết định giá trị của khoản vay, dự kiến các khoản lỗ,
chiến lược quản lý danh mục cho vay và chiến lược thu hồi vốn. Điều quan trọng
nhất trong kỹ thuật phân tích là thu thập dữ liệu trong suốt quá trình cho vay là quản
lý một cơ sở dữ liệu rủi ro chung.
Nhiệm vụ của việc quản lý danh mục cho vay trong quản trị rủi ro đối với cho
vay tiêu dùng là tránh được những hậu quả bất lợi do tập trung cho vay vào những
khách hàng có độ rủi ro cao. Các kỹ thuật mô hình dự đoán thường được áp dụng ở
đây.
Trong những năm gần đây, các công cụ để cải thiện việc quản trị rủi ro trong
hoạt động tín dụng tiêu dùng đã có những bước tiến bộ đáng kể nhờ các ngân hàng đi
đầu tư rong lĩnh vực này đã tập trung vào việc phát triển những công cụ phân tích
phức tạp. Những tiến bộ trong công nghệ lưu trữ dữ liệu và hiệu quả của việc sử dụng
máy tính cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các
công cụ quản lý rủi ro trong tín dụng tiêu dùng. Đồng thời cũng có rất nhiều công ty
và nhiều công đoạn trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng áp dụng những công nghệ mới
này, đặc biệt là các công ty và các ngân hàng phát hành thẻ tín dụng. Nhìn chung, so
với những năm đầu tư hập kỷ 90, việc quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng tiêu
dùng đã phát triển hơn nhiều và hoạt động tín dụng tiêu dùng đã có một vị trí đáng kể
trong hoạt động tín dụng nói chung.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại
1.4.1.Nhóm nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
(1) Định hướng phát triển của ngân hàng
Định hướng phát triển của ngân hàng là điều kiện tiên quyết để phát triển hoạt
động cho vay tiêu dùng. Nếu trong kế hoạch phát triển của mình các ngân hàng
không quan tâm đến hoạt động này thì các khách hàng có nhu cầu về cho vay tiêu
dùng cũng sẽ không được quan tâm. Ngược lại, nếu ngân hàng muốn phát triển hoạt
động cho vay tiêu dùng thì họ sẽ đưa ra những chiến lược cụ thể để thu hút những
người có nhu cầu đến với mình. Và khi đó cung cầu sẽ có điều kiện thuận lợi để gặp
nhau cũng có nghĩa là cho vay tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
(2) Năng lực tài chính của ngân hàng
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
Năng lực tài chính của ngân hàng là một trong những yếu tố được các nhà lãnh
đạo ngân hàng xem xét khi đưa ra các quyết định trong đó có các quyết định về hoạt
động cho vay tiêu dùng. Năng lực tài chính của ngân hàng được xác định dựa trên
một số yếu tố như số lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận năm sau so
với năm trước, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ, số lượng tài sản thanh khoản.
Nếu ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận lớn, nợ quá hạn
thấp và có số lượng tài sản thanh khoản lớn, khả năng huy động vốn lớn trong thời
gian ngắn thì có thể coi là có sức mạnh về tài chính. Khi ngân hàng có sức mạnh tài
chính lớn thì ngân hàng có thể đầu tư ư vào các danh mục mà ngân hàng quan tâm
hơn thì hoạt động cho vay tiêu dùng có cơ hội phát triển, nhưng ngược lại, nếu ngân
hàng không có được số vốn cần thiết để tài trợ cho cho các hoạt động được ưu tiên
hơn thì hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ ít có cơ hội để mở rộng.
(3) Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng của ngân hàng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy
định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả
nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Thông thường
chính sách tín dụng có các khoản mục sau: hạn mức tín dụng, các loại hình cho vay
mà ngân hàng thực hiện, quy định về tài sản đảm bảo, kỳ hạn của các khoản tín
dụng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt quá hạn mức cho vay, cách thức thanh
toán nợ,… Chính sách tín dụng vạch ra cho các cán bộ tín dụng hướng đi và khung
tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét các nhu cầu vay vốn. Vì vậy, những
yếu tố trong chính sách tín dụng đều tác động một cách mạnh mẽ tới việc mở rộng
tín dụng nói chung và cho hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu như có những
hình thức cho vay tiêu dùng không nằm trong chính sách cho vay của ngân hàng thì
chắc chắn các khách hàng chẳng thể mong đợi vay được những khoản tiền từ ngân
hàng để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Chẳng hạn như một ngân hàng không
thực hiện cho vay theo thẻ tín dụng thì khách hàng dù có đủ điều kiện cũng không
được cấp tín dụng. Mặt khác khi một ngân hàng đã sẵn có các hình thức cho vay tiêu
dùng đa dạng với chất lượng tốt thì việc mở rộng cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là
các ngân hàng mới chỉ có các sản phẩm đơn giản. Do tính chất cạnh tranh giữa các
ngân hàng ngày càng gay gắt thì một chính sách tín dụng đúng đắn hợp lý là yếu tố
thu hút khách hàng hiệu quả. Ngân hàng càng đa dạng hoá các mức lãi suất phù hợp
với từng loại khách hàng, từng kỳ hạn cho vay và cách xử lý đúng đắn các khoản nợ
của khách hàng, có chính sách sản phẩm hấp dẫn thì càng thu hút được khách hàng
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
đến với ngân hàng, từ đó thực hiện thành công việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
(4) Số lượng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng
Số lượng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương
mại. Hoạt động cho vay tiêu dùng có thực hiện được hay không là do người điều
hành, đó chính là các cán bộ nhân viên của ngân hàng. Bởi vậy, trước tiên muốn hoạt
động cho vay tiêu dùng phát triển thì cần phải quan tâm đến đời sống của các cán bộ
nhân viên. Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vị trí hàng đầu tư trong các
nhân tố khách quan thì đạo đức cán bộ tín dụng được xếp vào vị trí hàng đầu tư
trong các nhân tố chủ quan. Nếu các cán bộ tín dụng không có đạo đức nghề nghiệp
thì dù giỏi đến mấy cũng vô giá trị vì lợi ích cá nhân họ sẵn sàng làm tổn hại đến lợi
ích của tập thể ngân hàng. Tuy nhiên, đạo đức không thôi chưa đủ, cán bộ tín dụng
phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ hiểu biết rộng thì mới thẩm định chính xác
khách hàng và dự án vay vốn, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn. Một cán bộ tín
dụng có trình độ nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp, marketing tốt, trình độ ngoại
ngữ, vi tính thành thạo, nhiệt tình trong công việc, có đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo
được ấn tượng đẹp trong khách hàng về ngân hàng, bởi dưới con mắt của khách
hàng thì cán bộ ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu khách hàng giao
tiếp với cán bộ ngân hàng mà họ cảm thấy an tâm về trình độ nghiệp vụ, hài lòng với
phong cách giao tiếp của cán bộ ngân hàng, an toàn trong quan hệ với ngân hàng thì
họ chắc chắn sẽ còn tìm tới ngân hàng. Hơn nữa, các cán bộ tín dụng có mối quan hệ
rộng trong xã hội cũng có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn. Và một ngân hàng
phải có số lượng cán bộ tín dụng hợp lý, phân công công việc cụ thể thì ngân hàng
đó mới có thể phát triển không chỉ mình hoạt động cho vay tiêu dùng mà tất cả các
hoạt động khác nữa.
(5) Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của ngân hàng
Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của ngân hàng cũng là một
trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động cho vay
tiêu dùng tại ngân hàng đó. Nếu một ngân hàng được trang bị các công nghệ hiện đại
thì họ có thể tăng tiện ích cho khách hàng và các dịch vụ của họ sẽ được biết đến
nhiều hơn. Ví dụ, một ngân hàng có điều kiện đầu tư ư vào dịch vụ thẻ thanh toán,
đặt các máy rút tiền, có thể giao dịch với khách hàng thông qua mạng internet… thì
ngân hàng đó có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình thông qua các tài
khoản mà các khách hàng đã sử dụng dịch vụ trên của ngân hàng như cho vay thấu
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
chi, thẻ tín dụng… Hơn nữa, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến các ngân hàng có
thể quản lý danh sách khách hàng một cách dễ dàng hơn, họ có thể tiết kiệm được
nhân công cũng như chi phí quản lý góp phần giảm giá thành dịch vụ. Thêm vào đó,
khi có các công nghệ hiện đại hỗ trợ thì việc giải quyết các thủ tục của ngân hàng
được nhanh chóng, chính xác, giảm bớt các thủ tục rườm rà cho khách hàng.
1.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng
(1) Năng lực vay vốn của khách hàng
Năng lực vay vốn của khách hàng được thể hiện thông qua các nhân tố như thu
nhập của khách hàng, trình độ văn hoá, thói quen, đạo đức… của khách hàng. Thu
nhập của khách hàng vay tiêu dùng quyết định đến nhu cầu vay tiêu dùng của họ và
quyết định việc có cho vay hay không của ngân hàng. Bởi vì, ngân hàng khi cho vay
tiêu dùng sẽ căn cứ vào mức thu nhập trong tương lai của khách hàng, đó là nguồn
thanh toán khoản nợ đó. Do đó, thu nhập có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu vay tiêu
dùng của khách hàng, đến quy mô của khoản vay và đến việc phát triển cho vay tiêu
dùng của ngân hàng. Khách hàng vay cần có thu nhập ổn định để đảm bảo khả năng
trả nợ cho ngân hàng và đặc biệt là cần có thiện chí trả nợ đúng hạn và đầy đủ. Nếu
như khách hàng là người có đạo đức tốt, có ý thức trả nợ thì rủi ro cho vay tiêu dùng
thấp, tạo điều kiện kích thích ngân hàng tiến hành mở rộng hoạt động cho vay tiêu
dùng và các quy định cho vay sẽ không quá khắt khe. Ngược lại nếu khách hàng trả
nợ không đều, nợ quá hạn nhiều thì tất yếu sẽ kìm hãm hoạt động cho vay tiêu dùng.
(2) Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay của khách hàng
Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay của khách hàng có nghĩa là khách hàng
liệu có đáp ứng được các điều kiện quy định của ngân hàng hay không. Các điều kiện
như là tài sản đảm bảo cũng như các giấy tờ chứng mình quyền sở hữu và sử dụng
hợp pháp tài sản …
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
1.4.3.Nhóm nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng
1.4.3.1. Tình trạng kinh tế vĩ mô
Sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo cơ hội mở rộng tín dụng tiêu dùng một cách
hiệu quả. Kinh tế vĩ mô ổn định, đặc biệt là ổn định tiền tệ với các chỉ tiêu giá cả, lãi
suất, tỷ giá, lạm phát sẽ làm yên tâm định chế tài chính cho vay vốn. Các đối tượng
vay vốn có thêm việc làm, tăng thu nhập, giúp họ yên tâm về sự ổn định trong thu
nhập cũng như sự ổn định của chi phí đi vay, chi phí mua sắm, sửa chữa nhà cửa, và
các hàng hóa, dịch vụ khác. Do đó, làm tăng các khoản vay của họ, đồng thời tạo
điều kiện duy trì và phát triển bền vững quan hệ hai chiều vay vốn và trả nợ.
Ngược lại, khi kinh tế khủng hoảng hoặc điều kiện phát triển chậm chạp, hay kinh
tế vĩ mô bất ổn định một mặt sẽ tác động gây hạn chế cấp tín dụng tiêu dùng của các
trung gian tài chính. Các khoản cho vay chịu tác động của những biến động trên thị
trường tài chính bất ổn có thể dẫn tới đổ vỡ tín dụng. Những thay đổi tích cực trong kinh
tế vĩ mô diễn ra quá nhanh cũng gây ra những xáo trộn nhất định. Chẳng hạn, tỷ lệ lạm
phát và lãi suất giảm quá nhanh cũng có thể dẫn tới tình trạng vỡ nợ đối với các món vay
với lãi suất dựa vào tỷ lệ lạm phát cao trước đó. Tỷ giá hối đoái kém linh hoạt, không
phản ánh được sự biến động của kinh tế vĩ mô, làm méo mó những tín hiệu giá cả bên
ngoài cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của khách hàng và tổ chức tín dụng. Mặt
khác, kinh tế vĩ mô phát triển chậm chạm hay bất ổn cũng khiến thu nhập trong tương lai
của người tiêu dùng trở nên bấp bênh, các chi phí biến động, khó kiểm soát, do đó người
tiêu dùng phải giảm các khoản vay của họ.
1.4.3.2. Quan điểm thúc đẩy lĩnh vực tiêu dùng trong nước của Chính phủ sẽ
tạo cơ hội mở rộng thị trường tín dụng tiêu dùng
Quan điểm của Chính phủ về vai trò của tiêu dùng trong nước đối với phát triển
và tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển hoạt động tín dụng
tiêu dùng. Khi Chính phủ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng coi trọng
xuất khẩu thì bộ phận tiêu dùng trong nước sẽ ít được quan tâm hơn. Tuy nhiên, kinh
nghiệm thực tiễn ở các nước cho thấy, chiến lược này cũng gặp phải vấn đề là tăng
trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc rất lớn vào môi trường bên ngoài. Do đó, nhiều nước đã
chuyển sang chiến lược phát triển kinh tế ổn định và bền vững hơn là dựa vào tiêu
dùng trong nước. Với quan điểm đó, các chính sách tích cực của Chính phủ, hàng đầu
là tạo môi trường thuận lợi đẩy mạnh chi tiêu tiêu dùng (như chính sách thuế, chính
sách thu nhập, chính sách thương mại, du lịch, y tế, giáo dục...) là cơ hội quan trọng
mở rộng tín dụng tiêu dùng.
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
1.4.3.3. Môi trường pháp luật
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là cơ sở bảo vệ sự phát triển thị trường tài
chính an toàn, ổn định, thúc đẩy các định chế tài chính nâng cao năng lực cung cấp
dịch vụ tài chính chất lượng cao cho dân cư, bảo vệ sự phát triển bền vững quan hệ
hợp tác bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng vì lợi ích của hai phía.
1.4.3.4. Môi trường văn hoá- xã hội
Những yếu tố thuộc về văn hoá xã hội như thói quen sử dụng các sản phẩm
ngân hàng, tỷ lệ tiết kiệm, trình độ dân trí, thị hiếu… ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa
ra quyết định lựa chọn hình thức cho vay tiêu dùng. Chẳng hạn như ở Mỹ, xã hội
được cho là xã hội tiêu dùng với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập chỉ khoảng 10% và
thói quen mua sắm sẽ là một thị trường rất lớn để mở rộng cho vay tiêu dùng. Các
quan niệm về ngân hàng quen thuộc hay xa lạ, an toàn hay không an toàn, thói quen
thanh toán tiền mặt trong dân cư cũng là những yếu tố có tác động rất lớn đến các
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, trong đó có hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.5. Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng của các NHTM tại một số nước trên
thế giới và bài học đối với các NHTM Việt Nam
1.5.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại một số nước
1.5.1.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Trung Quốc
Dịch vụ tín dụng tiêu dùng càng ngày càng trở nên phổ biến và được khuyến
khích phát triển tại các NHTM Trung Quốc. Các nhà quản lý ngân hàng Trung Quốc
đã nhận thấy cho vay tiêu dùng chính là “tương lai” của các NHTM và họ phải tập
trung các nguồn lực của mình nhiều hơn cho lĩnh vực này.
Ngay từ cuối những năm 1990, Ngân hàng Kiến thết Trung Quốc (CCB) đã dẫn
đầu về phát triển lĩnh vực này. Vào năm 1999, thời hạn cho vay có thế chấp được kéo
dài từ 20 năm lên 30 năm; giá trị của khoản vay cũng được nâng từ mức 70% lên
80% giá trị tài sản thế chấp. Đồng thời, từ cuối năm 1999, CCB bắt đầu chấp thuận
các khoản cho vay do các cá nhân đứng ra bảo lãnh, bãi bỏ yêu cầu người đi vay cần
phải được người chủ lao động của mình đứng ra bảo đảm cho khoản vay. CCB còn
có một kế hoạch đầy tham vọng là sử dụng các phương tiện kỹ thuật, công nghệ sẵn
có của mình để phát triển hình thức dịch vụ ngân hàng Internet và đưa ra một số sản
phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử bán lẻ.
Ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông: cũng là một trong số các ngân
hàng ở Trung Quốc sớm có dịch vụ tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh. Ngân hàng
này đã hợp tác với các công ty chuyên kinh doanh bất động sản để đơn giản hóa các
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
thủ tục về tài sản thế chấp và giảm số lần mà người vay phải đến giao dịch với một
chi nhánh ngân hàng từ 20 lần xuống còn có 3 lần. Từ tháng 8/1999, Ngân hàng Phát
triển Thượng Hải - Phú Đông đã phối hợp với các công ty du lịch lữ hành để đưa ra
các khoản cho vay du lịch và kể từ thời điểm đó đã có 13 cặp vợ chồng nhận được
các khoản vay để đi du lịch tuần trăng mật. Ngân hàng này cũng đã kéo dài thời hạn
của các khoản vay dành cho đào tạo đại học từ 2 năm lên 4 năm và thành lập một quỹ
đặc biệt dành cho các bậc cha mẹ vay vốn do muốn gửi con cái vào các trường học
tư nhân đắt tiền. Để thực hiện được các kế hoạch này, Ngân hàng Phát triển Thượng
Hải - Phú Đông đã tăng gấp đôi số nhân viên marketing cho lĩnh vực tín dụng tiêu
dùng, chiếm tới 20% tổng quỹ lương.
Nhìn chung, vì các khoản cho vay tiêu dùng vẫn còn khá mới mẻ với cả người
tiêu dùng và hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc nên hậu quả của vấn đề rủi ro chưa
thể hiện đầy đủ, chưa lường hết được. Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng là các
khoản vay trung và dài hạn, với thời hạn từ 10-30 năm, nên khả năng trả nợ phụ
thuộc rất nhiều vào tình trạng gia đình, sức khỏe và công việc của người đi vay. Một
số ngân hàng không có đầy đủ đánh giá về rủi ro tiềm năng cũng như kinh nghiệm để
ngăn chặn những rủi ro biết trước. Thêm vào đó, kể từ năm 2003, hoạt động cho vay
của khu vực ngân hàng đã kích thích lạm phát gia tăng và nạn đầu tư quá mức trong
các khu vực khác nhau đã trở thành mối lo ngại hàng đầu của Chính phủ giữa lúc bao
trùm tâm lý lo sợ tình trạng kinh tế bùng nổ kiểu bong bóng. Do vậy, PBOC vừa tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, vừa kiểm soát các ngân hàng và hoạt động cho vay quá mức đối
với khu vực bất động sản. Theo các quy định mới có hiệu lực từ ngày 1/3/2004, ủy
ban Giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) yêu cầu tất cả các NHTM nước này
đều phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn 8% kể từ ngày 1/1/2007, trong đó khoản tiền cho
khu vực bất động sản vay chưa trả sẽ không được phép chiếm hơn 30% tổng dư nợ
vay chưa trả của 1 ngân hàng. Các biện pháp này nhằm góp phần hỗ trợ giảm tỷ lệ
lạm phát xuống còn 3 - 4% trong năm 2004 của Chính phủ Trung Quốc.
Tăng trưởng kinh tế mạnh của Trung Quốc trong những năm qua đã làm tăng
nhu cầu về tín dụng tiêu dùng nhưng các dịch vụ liên quan của các ngân hàng trong
nước vẫn bị bỏ trễ phía sau. Trong khi đó, những ngân hàng nước ngoài vừa hiện đại
lại vừa có rất nhiều kinh nghiệm, chẳng hạn như Citibank đã phát hành 100 triệu thẻ
tín dụng trên khắp thế giới và có những hệ thống đánh giá độ tín nhiệm tín dụng của
khách hàng đã được kiểm nghiệm. Với kinh nghiệm dày dạn và hệ thống giao dịch
hiện đại, các ngân hàng nước ngoài có ưu thế mạnh hơn hẳn các đối tác Trung Quốc
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Xuân Quế
trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tín dụng, mặc dù số lượng các đại lý của họ ở Trung
Quốc còn nhỏ. Nếu các ngân hàng này đưa ra những loại thẻ đáp ứng được nhu cầu
của các khách hàng giàu có, đưa ra các hạn mức tín dụng cao hơn cho sinh viên thì sẽ
vượt xa các ngân hàng Trung Quốc về dư nợ tín dụng. Bên cạnh thẻ tín dụng, họ còn
dự kiến tiến hành các hoạt động thuộc các lĩnh vực khác của tín dụng tiêu dùng như
triển khai các khoản cho vay mua nhà trả chậm. Các dịch vụ này có rất nhiều triển
vọng do lượng dân số khổng lồ của Trung Quốc. Theo đánh giá của các nhà phân
tích, các ngân hàng lớn của nước ngoài sẽ không xây dựng các chi nhánh trên toàn
quốc và cũng không nhằm vào thị trường cho vay mua nhà trả chậm đối với các
khách hàng trung lưu. Khi tiếp cận vào thị trường khách hàng bán lẻ, các ngân hàng
nước ngoài sẽ lôi kéo các khách hàng giàu có với các dịch vụ có mức phí cao nhưng
lại đáp ứng được các nhu cầu ở mức cao hơn, chẳng hạn như các sản phẩm đầu tư,
quản lý quỹ. Theo các nhà tư vấn, cách tốt nhất là lĩnh vực tiêu dùng cần phải được
tách riêng thành những bộ phận có thể tự kinh doanh, tự quản lý và hạch toán lỗ lãi
một cách độc lập với các hoạt động kinh doanh ngân hàng khác.
1.5.1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM Châu Âu
Tại châu Âu, tín dụng tiêu dùng ra đời muộn hơn các loại hình tín dụng khác. Nó
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một lớn của người dân tại các quốc gia phát triển.
Cho đến nay, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một hình thức tín dụng phổ biến tại
châu Âu. Cùng với các loại tín dụng khác, tín dụng tiêu dùng làm hoàn thiện, làm
phong phú môi trường tín dụng, hướng tới “bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng”.
(1) Đối tượng, hình thức, giá trị và thời hạn của khoản cho vay tiêu dùng
Ra đời ngày 22/12/1986, Nghị định 87/102/CEF của Cộng đồng chung châu Âu
khởi thảo bước đầu tư iên có tính thống nhất về các điều luật, các quy tắc và quản lý
hành chính tín dụng tiêu dùng trong phạm vi toàn bộ cộng đồng. Nghị định này liên
tục được sửa đổi trong các giai đoạn tiếp theo: NĐ 90/08/CEE ngày 22/2/1990; NĐ
98/7/CEE ngày 16/2/1998.
Tất cả các cá nhân có đủ năng lực hành vi đều có khả năng được cấp tín dụng
tiêu dùng, với điều kiện: khoản tín dụng đó không sử dụng để phục vụ cho hoạt động
nghề nghiệp, nó chỉ mang tính chất thuần tuý là tiêu dùng cho cá nhân. Tuy thế, để
phòng ngừa rủi ro, các NHTM vẫn có những giới hạn về đối tượng nhận tín dụng ví
dụ như giới hạn về độ tuổi.
Trên cơ sở Nghị định chung, các nước cũng có đề ra những luật, quy tắc của
riêng mình, tạo ra sự khác biệt nhất định giữa các quốc gia về phạm vi, đối tượng, giá
Vũ Văn Tuấn Lớp Tài chính doanh nghiệp 48B
23