Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.27 KB, 34 trang )

GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
\\ 1
CHƯƠNG I: CHUYỂN GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 1
\\
CHƯƠNG I: CHUYỂN GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
1. Khái niệm, bản chất của chuyển giá trong họat động ĐTQT
1.1. Khái niệm
Chuyển giá là việc thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm (hàng hóa, dịch vụ)
được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch thông
thường trên thị trường (giá thị trường), nhằm tối thiểu hoá tổng số thuế phải nộp của
doanh nghiệp trên toàn cầu (Thông tư 66/TT-BTC ngày 22/04/2010 của Bộ Tài
chính)
Một số khái niệm khác:
Chuyển giá là một hoạt động mang tính chất chủ quan, cố ý của các tập đoàn đa
quốc gia nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp bằng cách định giá mua sản phẩm,
nguyên vật liệu giữa các công ty trong cùng 1 tập đoàn, không theo giá thị trường
nhằm thu được lợi nhuận cao nhất (Võ ThanhThu & Ngô Thị Ngọc Huyền (2011), Kỹ
Thuật Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài)
Đặc điểm của Chuyển giá:
Giá cả mua bán giữa các công ty con của một tập đoàn, và giá cả của sản phẩm
tập đoàn đó không được quyết định bởi thị trường mà do các nhà quản lý của
MNC đề ra.
Các công ty chuyển giá với nhau có quan hệ cộng sinh đặc biệt về quyền lợi và
tổ chức.
Định giá chuyển giao là việc sử dụng phương pháp để xác định giá cả chuyển
giao nội bộ của các MNCs
1.2. Vì sao có sự chuyển giá
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 1
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế


a. Nguyên nhân khách quan:
- Toàn cầu hóa đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, gây sức ép đến các
nước phải mở cửa nền kinh tế để dòng chảy của hàng hóa và vốn đầu tư được tự do
lưu thông thuận lợi, điều này làm cho các công ty đa quốc gia dễ dàng hơn trong việc
xây dựng các công ty con ở nước ngoài, đây là một điều kiện quan trọng để các MNC
thực hiện “chuyển giá”.
- Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh
khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu
của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Vì vậy, chênh lệch mức độ điều tiết thuế
giữa các quốc gia hoàn toàn có thể xảy ra và dựa vào sự khác biệt này mà các công ty
đa quốc gia xây dựng chiến lược “chuyển giá”.
Ví Dụ:
+ Singapore đã hạ thuế suất thuế TNDN từ 20% xuống còn 19%, Philippin
giảm từ 35% xuống 30%. Gần đây nhất, Trung Quốc đã giảm thuế từ 33% xuống còn
25% để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
+ "Thiên đường thuế", bao gồm Liechtenstein, Monaco, Andorra và
Switzerland. Đó là những quốc gia có mức thuế suất thấp hơn các nước khác, hấp dẫn
các công ty nước ngoài đến đặt trụ sở.
- Cơ chế hạch toán và kế toán, kiểm toán giữa các nước có những điểm khác
biệt cũng là chỗ hở để cho hoạt động “chuyển giá” phát triển.
- Sự không chuyển đổi được hoặc chuyển đổi khó khăn của đồng tiền khi tiến
hành đầu tư ở nước ngoài, thêm vào đó lạm phát, chính sách tài chính, thuế bất ổn…
đã kích thích các công ty đa quốc gia khi đầu tư ra nước ngoài tìm mọi cách chuyển lợi
nhuận về nước, trong đó có cách thực hiện “chuyển giá” trong kinh doanh.
- Một số nước, trong đó có Việt Nam từ năm 2005 về trước, duy trì thuế chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài với mức thuế bình quân là 5%, khiến các công ty đa quốc gia
tìm mọi cách “né” loại thuế này, trong đó có cách “chuyển giá” khi giao dịch với công
ty mẹ.
- Kiểm soát hoạt động “chuyển giá” rất khó, vì hoạt động của các công ty quốc
tế vượt ra ngoài kiểm soát của một quốc gia. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ

K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 2
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
quan Chính phủ của các nước chưa chặt chẽ khiến cho hoạt động “chuyển giá” của các
công ty đa quốc gia có điều kiện thuận lợi phát triển.
b. Nguyên nhân chủ quan
- Cơ chế chính sách chống chuyển giá ở nhiều nước chưa hoàn thiện, đặc biệt ở
các nước đang và kém phát triển. Điều này khiến việc kiểm soát và trừng trị xác đáng
hiện tượng chuyển giá của các công ty quốc tế bị hạn chế.
- Trình độ điều hành tài chính doanh nghiệp của các công ty đa quốc gia rất
cao. Họ có những nhà quản trị và phân tích tài chính giỏi, có thể che đậy hiện tượng
“chuyển giá” một cách tinh vi. Trong khi đó, thông thường ở các nước tiếp nhận đầu
tư, trình độ của cán bộ quản lý nhà nước về tài chính đối với các công ty quốc tế còn
nhiều hạn chế.
- Công tác kiểm toán, kế toán còn nhiều hạn chế nên khó phát hiện “chuyển
giá” trong hoạt động đầu tư quốc tế.
- Một nguyên nhân quan trọng nữa là do chiến lược thôn tính của các công ty đa
quốc gia đặc biệt khi thâm nhập vào các thị trường mà ở những nước đó luật lệ kinh
doanh chưa đầy đủ hoặc không phù hợp với thông lệ quốc tế (luật chống độc quyền,
luật chống cạnh tranh không lành mạnh…). Thông qua hoạt động “chuyển giá”, bên
phía nước ngoài dần “thôn tính” đối tác trong liên doanh hoặc nhờ sự trợ giúp của
công ty mẹ về tài chính mà làm phá sản các công ty nội địa ở cùng ngành hàng.
2. Các hình thức Chuyển giá:
2.1. Hình thức “chuyển giá” trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư quốc tế:
a. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao trị giá tài sản góp vốn:
- Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm cho
phần vốn góp của bên phía cố ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó sự chi phối trong
các quyết định liên quan đến hoạt động của dự án liên doanh sẽ gia tăng và mức lời
được chia cũng tăng (vì lời được chia cho các bên theo tỷ lệ góp vốn pháp định).
Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn.
- Đối với các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài: việc nâng giá trị tài sản

góp vốn sẽ giúp họ tăng mức khấu hao trích hàng năm (nghĩa là lợi nhuận giảm), tác
động làm tăng chi phí đầu vào. Việc tăng mức khấu hao tài sản cố định sẽ giúp chủ
đầu tư:
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 3
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
+ Mau hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.
+ Giảm mức thuế TNDN phải đóng góp cho nước tiếp nhận đầu tư.
Ví dụ: khi doanh nghiệp nâng giá trị lên 1.000 USD với thời gian khấu hao 10 năm thì
mỗi năm sẽ đưa vào chi phí 100 USD và như thế có nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm
100 USD; và với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% như hiện nay, Nhà
nước sẽ thấp thu 25 USD.
b. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá tài sản vô hình:
- Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó,
lợi dụng việc này mà các MNC chủ ý thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu,
công thức pha chế, chuyển giao công nghệ… nhằm tăng phần vốn góp của mình lên.
- Một số trường hợp phía góp vốn bằng tài sản vô hình có xuất trình giấy chứng
nhận của công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy của các giấy chứng nhận này rất khó
kiểm định.
2.2. Hình thức “chuyển giá” trong giai đoạn triển khai dự án:
Đây là giai đoạn dự án đã đi vào hoạt động kinh doanh, các tập đoàn đa quốc
gia thường sử dụng các hình thức “chuyển giá” sau:
a. Nhập khẩu nguyên phụ liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài hoặc từ công ty đối
tác trong liên doanh với giá cao:
Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc
thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm
chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm.
b. Làm quảng cáo ở nước ngoài với chi phí cao:
- Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm các phim quảng cáo do các
công ty nước ngoài thực hiện, trong nhiều trường hợp các công ty quảng cáo cũng là
các công ty con trong cùng một tập đoàn.

- Trong trường hợp trả chi phí làm quảng cáo ở nước ngoài cũng là một hình
thức chuyển lợi nhuận cho tập đoàn ở nước ngoài. Chi phí quảng cáo cao cũng làm
tăng chi phí kinh doanh, làm giảm lợi nhuận chịu thuế TNDN của các công ty có vốn
FDI, làm thất thu thuế của các nước tiếp nhận vốn đầu tư.
c. Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản lý:
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 4
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
- Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê chuyên gia.
Một số đối tác liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất cao nhưng hiệu
quả mang lại thấp. Chi phí này phía liên doanh nước chủ nhà gánh chịu.
- Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao, ngoài ra
còn phải trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung cấp nhà quản lý. Ở một
số trường hợp cũng có hiện tượng thực hiện chuyển giá ở khâu này (khi công ty cung
cấp nguồn nhân lực cũng là công ty con của cùng một tập đoàn).
- Một số trường hợp còn thực hiện “chuyển giá” thông qua hình thức đào tạo ở
nước ngoài như: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công ty mẹ (tu
nghiệp sinh) với chi phí cao. Việc chuyển tiền về công ty mẹ với mức cao để tổ chức
huấn luyện đào tạo cũng là một dạng chuyển giá.
- Một hình thúc “chuyển giá” nữa của công ty có vốn FDI là trả lương, chi phí
cho chuyên gia tư vấn được gởi đến từ công ty mẹ. Loại hình tư vấn rất khó xác định
số lượng và chất lượng để xác định chi phí cao hay thấp, nên lợi dụng điều này nhiều
công ty có vốn FDI thực hiện hành vi “chuyển giá” mà thực chất là chuyển lợi nhuận
về nước dưới danh nghĩa là “phí” dịch vụ tư vấn.
d. Thực hiện “chuyển giá” thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hoá:
- Khi thuế nhập khẩu ở nước tiếp nhận đầu tư (nơi có công ty con) cao thì công
ty mẹ ở nước ngoài bán nguyên liệu, hàng hóa cho công ty con với giá thấp nhằm giúp
công ty con tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trường hợp này công ty mẹ sẽ tăng
cường hoạt động tư vấn, huấn luyện, giúp hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại hoặc
mua lại sản phẩm với giá thấp…
- Đối với các hàng hóa nhập khẩu mà thuế suất thấp thì công ty ký hợp đồng

nhập khẩu với giá cao nhằm nâng chi phí từ đó tránh thuế TNDN.
e. Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ:
- Bằng hình thức này các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý
như dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư
dài hạn (không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu) nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính
lên cao như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay… và chuyển một phần lợi nhuận
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 5
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
về nước dưới dạng lãi vay và chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế TNDN, tránh lỗ
do chênh lệch tỷ giá về sau.
f. Chuyển giá thông qua hoạt động tài trợ:
- Đây là hình thức chuyển giá thường xuất hiện ở các dự án ODA. Lợi dụng sự
ưu tiên cung cấp thiết bị, máy móc, dịch vụ tư vấn cho nước được tài trợ vốn, nhiều
nhà cung cấp ở nước tài trợ nâng giá thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ lên
cao… đẩy giá đầu tư lên cao có lợi cho nhà nước tài trợ.
Trên thực tế, các hình thức chuyển giá quốc tế rất đa dạng, phong phú. Do đó,
tuỳ vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các MNC sử dụng các biện pháp khác
nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.
3. Tác động của việc Chuyển Giá
3.1. Vai trò:
a. Đối với các tập đoàn đa quốc gia:
- Kích thích các MNC mở ra nhiều công ty ở nước ngoài để chiếm lĩnh thị
trường và lợi thế của các quốc gia khác; đồng thời phân tán rủi ro ngoài mục tiêu
chuyển giá để tối đa hóa các khoản lợi nhuận thu được.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản hữu hình và vô hình của tập đoàn bằng
cách định giá cao khi chuyển các nguồn vốn này ra nước ngoài để đầu tư.
- Kích thích các MNC đa dạng hóa ngành nghề phục vụ cho hoạt động “chuyển
giá” như: tư vấn; huấn luyện, đào tạo; cung cấp bao bì; công ty in ấn; công ty may mặc
(cung cấp trang phục cho các công ty thành viên); công ty quản lý…
-Ngoài ra để đảm bảo giá trị đồng tiền mà MNCs kiếm được ở những nước có

tình hình chính trị hay lạm phát cao.
- Vai trò lớn nhất của hoạt động chuyển giá nhằm tối thiểu hóa các khoản thuế
mà các tập đoàn phải nộp, để tối đa hóa lợi nhuận thu được.
b. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư (nơi có công ty mẹ của các tập đoàn đa
quốc gia):
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 6
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
- Thông qua hành vi “chuyển giá”, các công ty con ở nước ngoài chuyển lợi
nhuận; doanh thu về nước (của công ty mẹ) dưới các hình thức như: mua giá cao đối
với hàng hóa, nguyên vật liệu; trả chi phí đơn vị tư vấn, cung cấp quản trị, nguồn nhân
lực… Điều này làm cho nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp
phần cải thiện các cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế.
- Nếu hoạt động của các công ty mẹ tốt hơn về “hình thức” thì cũng tác động tốt
hơn đến hiệu quả kinh tế - xã hội như: đóng góp nhiều thuế hơn cho Nhà nước, tác
động tốt đến tăng trưởng GDP của nước xuất khẩu vốn đầu tư.
c. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (nơi có các công ty con của các tập đoàn đa
quốc gia):
Khi có hoạt động “chuyển giá” ngược: lợi nhuận từ công ty mẹ chuyển sang các
công ty con dưới hình thức trả chi phí mua hàng cao… (do nước thu hút đầu tư có mức
thuế thấp) làm tăng thu nhập ngoại cho nước tiếp nhận vốn.
Ở một số nước lại là thiên đường cho các doanh nghiệp thành lập công ty và
phát triển do thuế thấp hoặc do quản lý chuyển giá ở những nơi này khá thông thoáng
việc này là một thực tế và đã giúp cho nước tiếp nhận đầu tư thu được nhiều khoản
khác thuế như là: các loại phí thành lập doanh nghiệp, phí duy trì doanh nghiệp, phí
ngân hàng…. Làm tăng nguồn vốn ngoại tệ, tăng trưởng kinh tế
3.2. Hậu quả:
a. Đối với các tập đoàn đa quốc gia:
- Hậu quả của hoạt động “chuyển giá” đối với chủ đầu tư (MNC) là nếu hành
vi chuyển giá bị phát hiện thì các MNC sẽ bị thực hiện chế tài phạt về hoạt động
chuyển giá tuỳ theo mức độ vi phạm và theo quy định về chống “chuyển giá” của từng

quốc gia. Hình thức phạt có thể là phần trăm áp dụng trên số thuế phải nộp hoặc phạt
chuyển giá bằng mức thuế bổ sung cho những điều chỉnh vượt ngoài phạm vi mục
tiêu, phạt trên số thuế trốn tránh được.
- Kết quả hạch toán của từng công ty con của tập đoàn không phản ánh thực
chất kết quả hoạt động kinh doanh, cho nên từng công ty thiếu cơ sở thực tiễn tin cậy
để xây dựng chiến lược kinh doanh cho chính mình.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 7
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
- Phân tích hoạt động tài chính của tập đoàn phức tạp vì chính sách thuế, chi phí
của từng nước thay đổi dẫn tới chiến lược “chuyển giá” của công ty thay đổi.
b. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư (nơi có công ty mẹ của các tập đoàn đa
quốc gia):
Khi các khoản thuế VAT, thuế TNDN, thuế nhập khẩu ở nước xuất khẩu vốn
cao hơn ở nước nhập khẩu vốn, nếu không xét đến các yếu tố khác thì nước được lợi
hơn là nước quy định mức các loại thuế thấp. Cụ thể việc nâng giá chuyển giao từ
công ty con sang công ty mẹ, lợi nhuận được núp bóng dưới các hình thức nâng giá
nguyên vật liệu, trả phí đơn vị, tư vấn… sẽ chạy từ công ty mẹ ra nước ngoài sang các
công ty con vì nơi đây có mức thuế thấp. Hình thức này làm cho nước có nhà đầu tư
xuất khẩu vốn thất thu một khoản thuế do hoạt động “chuyển giá” của các MNC gây
ra.
c. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (nơi có các công ty con của các tập đoàn đa
quốc gia):
- Trong một số trường hợp, công ty mẹ bán giá nguyên liệu rẻ, hỗ trợ tiền quảng
cáo, chi phí tiếp thị… cho các công ty con, để các công ty con ở nước ngoài này sản
xuất sản phẩm với giá thành thấp, nhờ đó mà chiếm lĩnh thị trường, loại đối thủ cạnh
tranh là những nhà sản xuất nội địa cùng ngành hàng ra khỏi thị trường. Và khi đã độc
quyền thì các công ty con mới nâng giá lên cao đạt được lợi nhuận siêu ngạch, lúc bấy
giờ công ty mẹ mới nâng giá nguyên vật liệu đầu vào lên cao để chuyển lợi nhuận về
nước.
- Mặt khác, khi các MNC bán hàng hóa, nguyên liệu, dịch vụ với giá cao cho các

công ty con ở nước ngoài, khiến lượng ngoại tệ thực chất là tiền lời của các công ty
con được chuyển về công ty mẹ, làm cho lượng ngoại tệ (vốn) rời khỏi quốc gia tiếp
nhận vốn đầu tư, tác động xấu đến hoạt động vĩ mô của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Tóm lại, hoạt động “chuyển giá” của các công ty đa quốc gia trong nhiều trường
hợp làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu bị phá sản, tác động
tiêu cực đến nền kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.
Nhiều nhà kinh tế trên thế giới nghiên cứu nghiêm túc hiện tượng “chuyển giá”
trong đầu tư quốc tế đã đưa ra kết luận: tác động tiêu cực lớn hơn, nhiều hơn so với
lợi ích do chuyển giá mang lại cho nước xuất khẩu vốn, lẫn nước nhập khẩu vốn. Vì
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 8
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
vậy, chính phủ các nước đã và đang tìm các giải pháp chống “chuyển giá” trong đầu
tư quốc tế.
4. Kinh nghiệm chống chuyển giá của một số nước trên thế giới.
Như ta đã biết, hiện tượng chống “chuyển giá” đã xuất hiện từ lâu trên thế giới – khi
các công ty đa quốc gia hình thành mạng lưới trên toàn cầu. Tuy nhiên, luật chống
chuyển giá chỉ xuất hiện khoảng hơn một thập kỉ trở lại đây mà thôi.
Dựa vào các cơ sở phân tích như trên, ta đi tóm lược lại một số nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng Chống chuyển giá như sau:
Một là, tác hại của thủ thuật chuyển giá không chỉ là ngân sách nhà nước bị
mất đi một khoản thuế lớn, mà hàng năm chúng ta còn phải cân đối một lượng
ngoại tệ không nhỏ cho việc nhập về những máy móc, nguyên liệu cao hơn giá
trị thực của nó.
Hai là, nguy hiểm hơn, nó còn tạo ra một mội trường kinh doanh cạnh tranh
không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước.
Ba là, khi tình trạng thua lỗ ảo kéo dài, trong liên doanh bị kiệt sức và rút vốn,
nhường sân cho đối tác là những dẫn dắt cho tình trạng thôn tính của những
doanh nghiệp nước ngoài, cá lớn nuốt cá bé.
Chính vì vậy, luật chống chuyển giá ra đời trong hơn một thập kỉ trở lại đây phần nào
hướng dẫn và kiểm soát hiện tượng chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia. Tuy

không mang tính triệt để nhưng góp phần giảm thiểu lượng vốn thất thoát ra nước
ngoài của các quốc gia trên thế giới.
Dưới đây, ta đi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước điển hình trên thế giới
để từ đó có những đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong giai đoạn phát
triển hội nhập.
4.1. Kinh nghiệm chống Chuyển giá của Hoa Kỳ
Năm 1998, Hoa Kỳ ban hành đạo luật IRS ( Internal Revenue Service) section 482 dựa
trên nguyên tắc giá thị trường đề làm cơ sở xác định giá chuyển giao giữa các MNC’s.
4.1.1 Định nghĩa định giá chuyển giao:
Là việc sử dụng các phương pháp để xác định giá cả của các nghiệp vụ chuyển
giao nội bộ trong một MNC phù hợp với thông lệ quốc tế và được chấp nhận bởi các
quốc gia mà có các công ty con của công ty MNC đang hoạt động.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 9
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
Việc xác định giá chuyển giao là cần thiết cho công tác quản trị của các công ty
thành viên trong MNC’s, nhưng khi giá chuyển giao nội bộ cao hoặc thấp hơn giá thị
trường thì xảy ra hoạt động chuyển giao.
Do vậy, nguyên tắc giá thị trường là cơ sở rất quan trọng cho việc xác định giá cả
chuyển giao giữa công ty mẹ, công ty con.
4.1.2 Các phương pháp định giá chuyển gia trong IRS section 482:
Phương pháp tự do có thề so sánh được (Comparable Uncontroller Price –
CUP): phương pháp này dựa vào đơn giá sản phẩm, được áp dụng trong trường
hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liện kết. Tuy
nhiên, khi đi vào thực tế thì phương pháp này lại không phát huy được hiệu quả
khi xác định giá chuyển giao của các tài sản hữu hình, vì công ty phải xuất trình
rất nhiều tài liệu mà những tài liệu này rất khó để kiểm chứng tính trung thực
của nó
Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method): phương pháp này áp dụng
trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, không có thêm công
đoạn gia công, lắp ráp làm tăng giá trị hàng hóa.

Phương pháp chi phí vốn cộng thêm ( Cost plus Method): Phương pháp này
được lựa chọn khi giao dịch liện kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho
các bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết.
Hai phương pháp giá bán lại và chi phí vốn cộng thêm được sử dụng rất rộng
rãi ở Mỹ vì doanh nghiệp dễ xuất trình các tài liệu khi được đòi hỏi và cũng
không quá phức tạp khi thu thập các thông tin và tài liệu
Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Slipt Method): Phương pháp này cho
phép tính ra thu nhập thuần trước thuế, là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh
nghiệp. Phương pháp này ở Mỹ là dễ ứng dụng nhất và ít tốn kém nhất nhưng
độ tin cậy của nó thì không cao.
Phương pháp chiết tách lợi nhuận có thể so sánh được ( The Comparable Profit
Method): Các bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp.
Được mệnh danh là cường quốc số 1 về kinh tế của thế giới, những kinh nghiệm về
Chống Chuyển giá của Hoa Kỳ tạo ra tiền đề cũng như cơ sở để các nước áp dụng vào
tình hình thực tế của đất nước. Từ bài học ấy, có thể rút ra được là:
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 10
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
Phải hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm đặt ra cơ sở pháp lý cho việc phát
hiện ra và phạt hiện tượng chuyển giá
Tùy vào từng trường hợp mà áp dụng các phương pháp định giá chuyển giao
phù hợp, có thể kết hợp nhiều phương pháp để xác định hiện tượng chuyển giá.
Coi trọng công tác lưu trữ tài liệu tài chính của các công ty đa quốc gia để theo
dõi một cách có hệ thống. Song song đó, tuyển chọn, đào tạo về nghiệp vụ và
trình độ nhân viên thuế của các cơ quan quản lý để có nghiệp vụ giỏi, đối thoại
với các đại diện tài chính của các công ty đa quốc gia nhằm phát hiện ra một
cách thuyết phục các hành vi chuyển giá của các công ty này.
4.2. Kinh nghiệm chống chuyển giá của Trung Quốc
Tiếp theo, ta đi nghiên cứu thêm kinh nghiệm về Chống chuyển giá của một
nước ở châu Á để có cái nhìn cận cảnh và dựa trên nhiều điểm tương đồng về hoàn
cảnh lịch sử, địa lý vói Việt Nam. Và đất nước chúng ta quan tâm ở đây là Trung

Quốc. Lựa chọn này dựa trên mấy cơ sở tiêu biểu như sau:
Trung Quốc và Việt Nam cùng là nước Á Đông. Có rất nhiều năm có cùng thể chế,
chính sách giống nhau, cùng có xuất phát điểm như nhau là đi theo con đường phát
triển XHCN, và hiện nay thì đang trong quá trình phát triển theo nền kinh tế thị trường
với sự tham gia điều tiết và quản lý kinh tế của nhà nước.
Năm 1998, Trung Quốc cũng đã xây dựng luật chống chuyển giá dựa theo hướng dẫn
của OECD, cũng lấy nguyên tắc giá thị trường là cơ sở để xác định giá chuyển giao
tương tự như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, luật chống chuyển giá của Trung Quốc có một số
điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, Cơ chế hạch toán thuề đối với các nhà đầu tư nước ngoài không
thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Điều này có nghĩa là sao? Nghĩa
là Chính phủ Trung quốc sẽ xem xét, vùng nào cần đầu tư mạnh thu hút nhiều
vốn FDI để phát triển thì sẽ có rất nhiều chính sách ưu đãi về thuế cho các nhà
đầu tư nước ngoài, chẵng hạn như những vùng Tứ Xuyên và các tỉnh phía Tây
Trung quốc, ngược lại họ sẽ thắt chặt quản lý ở những thành phố có sự đầu tư
FDI ồ ạt, như ở Bắc Kinh, Thượng Hải…Như vậy, họ sẽ có thể vừa thu hút
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 11
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
được FDI, mà vẫn có thể vừa điều tiết được nó và vẫn kiểm soát được tình hình
“Chuyển giá”
Thứ hai, ngoài việc sử dụng các phương pháp định giá chuyển giao để chống
“Chuyển giá” người ta còn sử dụng đồng thời cả thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu…để hạn chế hoạt động chuyển giá của các
MNC’s.
Thứ ba, theo nghiên cứu mới nhất của KPMG cũng có đề cập rằng, thuận lợi
trong công tác chống chuyển giá của Trung Quốc là việc được hỗ trợ các phần
mềm, máy tính…để lưu trữ các dữ liệu phục vụ cho việc theo dõi, giám định,
phát hiện các hành vi chuyển giá chẳng những của các MNC’s mà còn có cả các
công ty nội địa.
Thứ tư, Cơ quan thuế Trung quốc áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là

phương pháp chiết tách lợi nhuận, tính ra thu nhập thuần của doanh nghiệp
nhằm phát hiện ra hiên tượng “chuyển giá”.
Thứ năm, Trung Quốc thực hiện kiểm toán mang tính bắt buộc và thường
xuyên, các đối tượng có khả năng vi phạm “Chuyển giá”. Do vậy, phần nào hạn
chế được tình trạng chuyển giá tràn lan như những năm của thập kỉ trước.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 12
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA
DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM
2.1 Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI tại Việt Nam
2.1.1 Giai đoạn 1998-2003
Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1996: Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện mở
cửa thu hút, kêu gọi đầu tư. Năm 1988 cũng là năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư
nước ngoài, ngay năm 1988 chúng ta đã thu hút được 37 dự án đăng ký với số vốn
là 371,8 triệu USD. Sau hai năm thì số dự án được cấp phép hoạt động đã lên tới 107
dự án với tổng số vốn là 839 triệu USD, tốc độ tăng thu hút vốn tăng cao và quy mô
vốn trung bình đạt 8,42 triệu USD/dự án. Đồng thời trong gia đoạn (1991- 1995) luật
đầu tư sửa đổi kịp thời (2 lần vào năm 1990 và1992) đã bổ sung và tăng cường
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả. Trong giai đoạn này,
chính phủ đồng thời quyết định thành lập một loạt các khu công nghiệp tại các địa
phương cũng đã tạo ra được một lực hút mạnh đối với FDI. Kết quả đạt được là số
dự án được cấp phép đã đạt 6,24 lần tổng vốn đăng ký và gấp 9,3 lần so với thời kỳ
hai năm đầu 1988 và 1989. Đồng thời trong giai đoạn này thì tổng vốn FDI cũng
đạt đỉnh điểm tại năm 1996 với con số là 8 497,3 triệu USD.
Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2003: Tháng 7 năm 1997 xảy ra cuộc khủng
hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất của cuộc khủng
hoảng này là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia… Nước ta lại nằm ngoài
“tâm bão”, đây chính là thời cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các
nước trong khu vực phải đang đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế.
2.1.2 Giai đoạn 2004-2010

Đây là giai đoạn phục hồi và tăng tốc một cách nhanh chóng của việc
thu hút vốn FDI. Sau khi cơn bão tài chính qua đi, kinh tế của các nước Châu Á đã
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 13
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
vực dậy và phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Việt Nam và Trung Quốc trở thành những quốc gia có sức hút mạnh đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài, và luôn nằm trong danh sách các quốc gia dẫn đầu thu hút
FDI. Năm 2006, Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp mới ra đời đánh dấu một bước
ngoặc mới và một bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
lĩnh vực luật pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố việc
thẩm định và cấp phép. Việc này đã tạo ra sự chủ động trong việc quản lý nguồn
vốn FDI tại các địa phương và quan trọng hơn là tạo ra một cuộc thi đua giữa các địa
phương thực hiện việc cải cách hành chính thông thoáng, tạo ra điều kiện tốt cho môi
trường đầu tư. Từ đó tăng cường việc thu hút đầu tư và tạo cho các nhà đầu tư cảm
thấy thuận tiện. Kết quả của việc cải cách hành chính của các địa phương cho ta kết
quả hết sức khả quan là năm 2006 đạt mức thu hút vốn 10,2 tỷ USD vượt qua mức
kỷ lục năm 1996.
Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thu hút đầu
tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 21/12/2010 đạt 18,6 tỷ USD, bằng 82,2%
cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 969 dự án được cấp phép mới đạt 17,2
tỷ USD (Giảm 16,1% về số dự án; tăng 2,5% về số vốn so với năm trước); vốn đăng
ký bổ sung của 269 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 1,4 tỷ USD. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2010 ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 10% so
với năm 2009, trong đó giá trị giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 8 tỷ USD.
Top các ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài TPHCM năm 2010. (Nguồn: Cục thống kê TPHCM).
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 14
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
2.1.3 Năm 2011
Cục Đầu tư nước ngoài vừa công bố tình hình hút vốn đầu tư nước ngoài tháng

11 năm 2011 và 11 tháng đầu năm.12,7 tỷ USD là tổng số vốn đăng ký cấp mới và
tăng thêm 11 tháng đầu năm 2011 (tính đến 20/11/2011).
Hồng Kông đứng đầu danh sách đối tác cấp vốn FDI cho Việt Nam. Tổng vốn
FDI khu hành chính này “rót” vào Việt Nam 11 tháng đầu năm đạt hơn 3,09 tỷ USD,
chiếm 24% tổng hút vốn. Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc là 3 quốc gia cấp vốn FDI
cho Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD trong 11 tháng.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 15
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
.
Tổng hợp cả số vốn đăng ký mới và tăng thêm, trong 11 tháng năm 2011, cả
nước đã thu hút được gần 12,7 tỷ USD vốn FDI, bằng 84% so với cùng kỳ. So với chỉ
tiêu thu hút 20 tỷ USD vốn đăng ký trong năm nay, kết quả như trên cho thấy thực tế
thu hút FDI đã khó khăn hơn rất nhiều so với dự kiến. Nhưng điểm rất đáng chú ý là
thu hút vốn FDI có sự dịch chuyển sang lĩnh vực chế biến, chế tạo, thay vì bất động
sản như năm trước.
2.2 Hoạt động chuyển giá của các Doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
2.2.1 Khái quát chung
Hơn 20 năm mở cửa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có
nhữngđóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao
động và hiện đang trở thành đầu tàu tăng trưởng về giá trị sản xuất của ngành công
nghiệp. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực kinh tế này cho ngân sách quốc gia lại khác
hẳn.
Sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại: Thứ nhất là
sản phẩm trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường
nướcngoài theo đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ
trong nước.Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghiệp FDI thực chất là một công
xưởng vớinguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được
xuất khẩu để đi qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán. Như vậy,
về thực chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghiệp này hầu như không hạch toán lợi
nhuận. Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà

K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 16
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
ngược lại các doanhnghiệp FDI được hoàn thuế; thuế thu nhập doanh nghiệp cũng coi
như không có vì không lợi nhuận
Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghiệp FDI tuy có chút lãi nhưng không đáng
kể. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không được phép biết hoặc tham gia gì vì
vốn của chủ doanh nghiệp nước ngoài, như vậy việc xuất khẩu được bao nhiêu cũng
không đóng góp giá trị gia tăng trong GDP. Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu
thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên vật liệu chính đều được nhập khẩu từ bên
ngoài. Chẳng hạn như bột ngọt gần như 100%nguyên vật liệu là nhập khẩu, da cứng
chiếm 83%; giày thể thao là 76%; sứ vệ sinh 74%;sơn hóa học 68,3%; bột giặt 56%
Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các doanh nghiệp FDI, nên dù là tiêu
thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu.
2.2.2 Các quy định, quy chế liên quan đến kiểm soát chuyển giá
Thông tư 60/1996/TT-BTC: Hướng dẫn, quy định về chế độ kế toán, kiểm toán,
kê khai-nộp thuế đối với DN có vốn Đầu tư nước ngoài
Thông tư 74/1997/TT-BTC : hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài
Thông tư 89/1999/TT-BTC: ngày 16/07/1999 của Bộ Tài chính về việc hướng
dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước
ngoài.
Thông tư 13/2001/TT-BTC: ngày 08/03/2001 về việc hướng dẫn thực hiện quy
định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài.
Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi ngày 17/06/2003 có hiệu lực từ ngày
01/01/2004 tại Điều 11 Chương III quy định: “các cơ sở kinh doanh có trách nhiệm
mua bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ theo giá thị trường”
Ngày 22/4/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC quy định
việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết, thay thế Thông tư 117/2005/TT-
BTC (có hiệu lực từ 6/6/2010). Quy định mới chủ yếu phục vụ xác định nghĩa vụ thuế
thu nhập doanh nghiệp. Thông tư này hướng dẫn nội dung cụ thể, như nguyên tắc giá
thị trường; phương pháp xác định giá thị trường; phân tích, so sánh và các vấn đề liên

quan việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết So với Thông tư
117/2005/TT-BTC, Thông tư 66/2010/TT-BTC có một số sửa đổi quan trọng về kỹ
thuật theo hướng thắt chặt quy định.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 17
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
Các doanh nghiệp có giao dịch liên kết đều phải tuân thủ các nghĩa vụ sau:
Trước hết, doanh nghiệp phải lập và lưu trữ hồ sơ xác định giá thị trường làm bằng
chứng cho việc tuân thủ nguyên tắc giá thị trường. Hồ sơ phải tại thời điểm diễn ra
giao dịch và được cập nhật trong suốt quá trình diễn ra giao dịch. Như vậy, doanh
nghiệp có nghĩa vụ chủ động cung cấp bằng chứng chứng minh việc tuân thủ nguyên
tắc giá thị trường trong các giao dịch của mình với bên liên kết. Theo quy định, cơ
quan thuế có thể ấn định thuế thu nhập doanh nghiệp và áp dụng các chế tài phạt trong
trường hợp doanh nghiệp không có hoặc không thể xuất trình bộ chứng từ trong khung
thời gian quy định.
Doanh nghiệp phải nộp tờ khai giao dịch liên kết và các phương pháp xác định
giá thị trường hàng năm theo Mẫu số 01/GCN-01/QLT, cùng tờ khai quyết toán thuế
thu nhập doanh nghiệp. Thông tư 66/2010/TT-BTC có đưa ra một số thay đổi trong
biểu mẫu, yêu cầu phải kê khai các giao dịch liên kết của mình chi tiết theo bên liên
kết, tiêu chí xác định quan hệ liên kết và phương pháp định giá giao dịch liên kết.
2.2.3 Thực trạng hoạt động chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI
Theo Tổng cục Thuế, trong năm 2011 tổng số 585 doanh nghiệp FDI bị thanh
tra do nghi ngờ có dấu hiệu chuyển giá trong 9 tháng đầu năm 2011, có 494 doanh
nghiệp thuộc diện bị xử lý với nhiều kiểu vi phạm. Sai phạm phổ biến nhất được phát
giác là hạch toán chi phí trước nhưng chưa chi; trích lập dự phòng chưa đúng quy
định; chi phí không có hóa đơn, chứng từ, vượt định mức; hạch toán chi phí không
phục vụ sản xuất kinh doanh; chi phí tiền lương, khấu hao không đúng quy định của
Bộ Tài chính; nhập nguyên liệu giá cao nhưng bán sản phẩm giá thấp Từ đó, nhiều
doanh nghiệp lỗ kéo dài, trong khi vẫn mở rộng sản xuất.
Sau khi yêu cầu hạch toán lại, các doanh nghiệp này giảm lỗ 1.544 tỷ đồng,
chiếm gần 54% tổng số giảm lỗ mà Tổng cục Thuế xác định được. Cùng đó, có 104

doanh nghiệp vi phạm hạch toán không đúng lãi vay làm số lỗ phát sinh thêm 258,8 tỷ
đồng. Kế hoạch thanh tra 1.276 doanh nghiệp FDI trong năm 2011 xuất phát từ cơ sở
phân tích thông tin, các doanh nghiệp này có số lỗ lớn, liên tục, lỗ âm vốn chủ sở hữu
nhưng vẫn đầu tư mở rộng.Gần 90% doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 18
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
(FDI) thuộc diện thanh tra trong 9 tháng năm 2011 bị phát hiện có dấu hiệu sai phạm
về hạch toán chi phí và chuyển giá.
Hiện quy định trong nước còn thiếu cụ thể về việc xác định giá thị trường cho
dịch vụ giữa các bên liên kết. Điều này đặt ra thách thức đối với các doanh nghiệp khi
phải chứng minh tính hợp lý của các khoản phí phải trả cho dịch vụ cung cấp nội bộ
hoặc các khoản hoàn trả phí dịch vụ cho hoạt động quản lý vùng. Thông lệ quốc tế cho
thấy, việc có hồ sơ chứng minh lợi ích thu được, các hoạt động cung cấp dịch vụ thực
tế được thực hiện, cùng với phương pháp tính phí là cơ sở hỗ trợ việc khấu trừ chi phí
đối với các khoản phí dịch vụ trả cho bên liên kết khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Việc sử dụng tài sản vô hình và lợi nhuận kinh doanh còn chưa nhất quán.
Doanh nghiệp nên chú ý việc lý giải mức lợi nhuận đạt được với chi phí trả cho bên
liên kết, liên quan đến các khoản thanh toán chi phí như tiền bản quyền cho việc sử
dụng bí quyết kỹ thuật hoặc nhãn hiệu. Ví dụ, trong giao dịch giữa các bên liên kết tại
các nước đang phát triển, cơ quan thuế đặc biệt quan ngại việc doanh nghiệp thanh
toán quá nhiều tiền phí bản quyền, nhãn hiệu, trong khi doanh nghiệp cũng chi trả
nhiều cho marketing trong nước.
Sự không nhất quán giữa chính sách xác định giá nội bộ đã được ghi chép trong
hồ sơ với kết quả kinh doanh thực tế. Bên cạnh đó, là tình trạng chính sách định giá
không được áp dụng đúng, mặc dù được ghi chép đầy đủ vào hồ sơ. Ví dụ, trường hợp
giá chuyển nhượng không được xác định theo các chính sách định giá nội bộ hoặc
doanh nghiệp không điều chỉnh để đạt được mức lợi nhuận đã được hoạch định theo
chính sách từ trước đó.
2.2.4 Một số hình thức chuyển nhượng giá xảy ra ở Việt Nam :
Chuyển nhượng tài sản hữu hình : thực tế việc xác định giá tài sản thuộc các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có một số sai sót. Theo các cuộc
giám định chính thức được công bố rộng rãi, nhiều đối tác nước ngoài cố ý khai
báo cao trị giá máy móc và thiết bị đóng góp vốn ban đầu vào liên doanh so với
giá trị thực.
Chuyển nhượng tài sản vô hình : thực tế việc xác định giá những tài sản vô
hình là một vấn đề rất phức tạp, khó xác định vì hầu hết những tài sản này đều
là những tài sản mang tính độc quyền của chủ sở hữu, cho nên việc xác định giá
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 19
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
theo nguyên tắc thị trường rất khó áp dụng. Nói một cách khác, giá chuyển
nhượng những tài sản vô hình về thực chất hầu như là phụ thuộc vào sự tính
toán một cách chủ quan của công ty mẹ, bởi vì quy định của Việt Nam về vấn
đề này còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc cơ quan chức năng không thể kiểm soát
hết được.
Chuyển nhượng trong việc cung ứng dịch vụ : về mặt lý thuyết, việc cung
cấp dịch vụ giữa các doanh nghiệp liên kết liên quan đến ba trường hợp :
+ Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có liên
kết ở mức độ thấp hơn giá thị trường hoặc miễn phí.
+ Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải trả phí cao hơn giá thị trường cho các dịch
vụ được cung cấp bởi doanh nghiệp liên kết.
+ Một sự phân bổ bất hợp lý các khoản chi phí quản lý chung của công ty mẹ cho
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Chuyển nhượng đối với tài trợ các nghiệp vụ : khi một doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài vay vốn từ một bên liên kết (một công ty con khác hoặc công ty mẹ)
và được tính một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất bình thường của thị trường
đối với một khoản nợ cùng loại.
Chuyển nhượng đối với nguyên liệu nhập khẩu : các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài có thể định giá thấp các mặt hàng nhập khẩu trước năm 1996, khi
mà các mức thuế nhập khẩu vẫn còn ở mức cao, nhưng có thể định giá cao các
mặt hàng này sau đó khi mà các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được hưởng

các ưu đãi về thuế và các mức thuế suất này dần dần được giảm.
Quy định về thuế và các giá phí theo hiệp định : theo quy định tại điều 9 của
hiệp định tránh đánh thuế hai lần, khi các nghiệp vụ kinh tế xảy ra giữa hai xí
nghiệp liên kết ký kết các hợp đồng mua, bán, trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch
vụ, chuyển giao công nghệ, hợp đồng tín dụng, thanh toán tiền lãi cổ phần, lãi
từ tiền cho vay thực hiện trên cơ sở giá thị trường như áp dụng trong trường
hợp các nghiệp vụ kinh tế giữa hai doanh nghiệp độc lập, cơ quan thuế của một
nước sẽ có quyền tính toán và ấn định lại giá cả ghi trên các hợp đồng phù hợp
với giá cả thực tế trên thị trường để xác định lợi tức chịu thuế của một doanh
nghiệp tại nước ký kết đó.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 20
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
2.2.5 Một số ví dụ điển hình
2.2.5.1 Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành
phẩm hay thành phẩm
“Vừa rồi, chúng tôi phát hiện một DN FDI tại Lâm Đồng, làm xuất khẩu chè.
Đây là một DN đến từ Đài Loan, cũng lỗ 9-10 năm nay, thậm chí, số lỗ gấp 2-3 lần
vốn điều lệ. Thế nhưng thực tế thì DN này vẫn đầu tư, phát triển.
Giá xuất khẩu chè của DN đó sang Đài Loan còn thấp hơn cả giá thành. Đó là điều rất
vô lý. Nhưng khi kiểm tra sổ sách chứng từ của họ thì lại đầy đủ cả. Có thể, ở Bình
Dương, Đồng Nai cũng có tình trạng này.” (Theo Phạm Duy Khương – Phó tổng cục
trưởng tổng cục Thuế )
Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Coca – cola tại VN năm
1998, xem xét tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí
nguyên vật liệu chiếm tới 60,14% trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi
phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%. Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh
thu và chi phí tại công ty Coca Cola so sánh với các công ty trong cùng ngành sản xuất
nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi
nhuận của ngành này. Trong đó, hơn 40% nguyên vật liệu là được nhập từ công ty mẹ
ở nước ngoài. Liên tục từ năm 1996 – 1998, Coca Cola Việt Nam báo lỗ

Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt
Nam bán cho các đại lý là 240.000 đồng/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia
chai là 75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:102.857 VND. Chủ đầu
tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một công ty TNHH Foster’s
Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm do
hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s của hai nhà máy bia
cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Thuế TTĐB 58.929 VND,
thuế GTGT là 11.429 VND.Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị
gia tăng mà chủ đầu tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty
TNHH Foster’s Việt Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358
VND. Nếu chúng ta đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và
sau khi thành lập công ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 21
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
tư đã tiết kiệm được một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương
31,60%).
2.2.5.2 Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình:
Công ty Liên doanh gia cầm Việt Thái đi vào hoạt động với phần vốn góp của
đối tác Thái Lan là dây chuyền giết mổ, giá trị thực tế của dây chuyền này được thẩm
định chỉ có 400.000 USD. Nhưng khi tham gia góp vốn bên đối tác Thái Lan đã kê
khai khống nâng giá trị vốn góp của dây chuyền này lên đến 600.000 USD. Giá trị vốn
góp nâng lên chiếm đến 50% giá trị thật của dây chuyền giết mổ. Ngay khi góp vốn
nếu máy móc này được mua từ công ty mẹ thì đối tác nước ngoài đã chuyển 200.000
USD này về cho công ty mẹ. Và nếu máy móc này được khấu hao theo đường thẳng
trong 10 năm thì mỗi năm chi phí khấu hao tăng thêm do phần định giá nâng lên là
20.000 USD một năm. Thuế suất hiện nay là 25% thì Chính phủ Việt Nam mỗi năm
mất thêm 5.000 USD tiền thuế TNDN.
2.2.5.3 Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình:
Ban đầu liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm phán đòi chi phí bản
quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Do có khấu hao tài sản vô hình nên nếu

như hợp đồng này thành công, phía Đức sẽ chuyển giao được về nước một số tiền rất
lớn. Tuy nhiên, sau khi phía Việt Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu
USD; giảm đi 77% so với chi phí ban đầu. Tức là giá trị của tài sản này bị đội lên rất
nhiều.
Vào năm 1987, Công ty IBM trình báo cáo tài chính hàng năm trước đại hội cô
đông thì hãng này cho rằng 1/3 lợi nhuận kiếm được trong năm là từ hoạt động kinh
doanh trên đất Mỹ. Tuy nhiên khi kê khai với cơ quan thuế thì IBM đã kê khai rất
nhiều chi phí R&D liên quan đến thị trường Mỹ vì vậy mà phần lợi nhuận kiếm được
trên thị trường Mỹ gần như bằng không và kết quả là IBM tránh được nghĩa vụ nộp
thuế cho chính phủ Mỹ mặt dù doanh thu thuần của IBM vào năm 1987 là 25 tỷ USD.
2.2.54 .Các hình thức khác:
Mới đây, trong đợt thanh tra những công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ
trên địa bàn TP.HCM, cục Thuế thành phố còn lưu ý đến đại gia bất động sản Saigon
Metropolitan (SM), liên doanh giữa công ty TNHH một thành viên xây dựng Bình
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 22
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
Minh thuộc tổng công ty Xây dựng Sài Gòn và công ty Saigon Metropolitan Limited
(SML) thuộc British Virgin Island của Anh.
Báo cáo tài chính mới nhất của liên doanh này cho thấy, dù đã qua bốn lần tăng
vốn từ 29 triệu USD lên 49,7 triệu USD nhưng ở thời điểm hiện tại, SM vẫn đang lỗ
luỹ kế gần 20 triệu USD và nợ thuế hơn 7 tỉ đồng. Không khó để hình dung vì sao mới
đây công ty xây dựng Bình Minh - trong hợp đồng mới ký kết lại - đã đồng ý chuyển
nhượng 30% vốn thuộc sở hữu của mình cho Saigon Metropolitan Limited. Kịch bản
tăng vốn lần thứ năm nhằm giải quyết khó khăn tài chính hẳn đã được đặt ra! Với ký
kết này, Saigon Metropolitan Limited trở thành đối tác nắm 90% vốn trong liên doanh
SM!
Nguyên nhân gây lỗ là giá cho thuê văn phòng quá thấp, chi phí cho các chuyên gia
làm việc quá cao. Dần dần đối tác nước ngoài trở thành chủ doanh nghiệp
2.2.6 Hệ quả của việc Chuyển giá trong đầu tư quốc tế:
2.2.6.1 Ảnh hưởng tiêu cực

Thông qua chuyển giá, các MNC kiểm soát các công ty con trên toàn thế giới.
Các công ty con tuân thủ theo mục tiêu chiến lược toàn cầu của công ty mẹ và đảm
bảo mức lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, khi các MNC lạm dụng chuyển giá để đạt được
mục tiêu của họ, các hành động của họ cũng tạo ra các tác động bất lợi đến sự phát
triển của các nước địa phương với các khía cạnh chính như sau:
2.2.6.1.1 Đối nghịch với sự công bằng thuế, nguy hại nghiêm trọng
đến doanh thu thuế của nước địa phương
Các MNC lạm dụng chuyển giá để đạt được các thu nhập bất hợp pháp trái với
nguyên tắc công bằng thuế, làm phá vỡ sự công bằng và trật tự của nền kinh tế quốc
tế, gây ra sự phát triển không bình thường của thương mại quốc tế vả đầu tư. Hơn nữa,
các MNC sử dụng chuyển giá với “giá cao - giá thấp” để chuyển lợi nhuận của các
công ty con ra ngoài nước địa phương, làm giảm rất lớn khoản thuế thu nhập phải nộp
của các MNC tại các nước địa phương, gây thiệt hại nghiêm trọng về doanh thu thuế
của các nước địa phương.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 23
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
2.2.6.1.2 Sự sụt giảm thu nhập và các khoản thanh toán quốc tế tại
các quốc gia địa phương
Việc chuyển giá “giá cao - giá thấp” của các MNC làm giảm mạnh các khoản
thu nhập và thanh toán quốc tế ở các nước địa phương. Một mặt, việc sử dụng chuyển
giá có thể gia tăng lợi nhuận tổng thể của các MNC bằng cách nhập khẩu các hàng
hóa có thể sản xuất nội địa, là nguyên nhân gia tăng hàng hóa nhập khẩu tại các nước
địa phương. Mặt khác, khi các MNC mua cùng một số lượng các sản phẩm, dịch vụ,
kỹ thuật trên hoặc bán cùng một số lượng các sản phẩm cho các công ty nước ngoài
có liên quan, việc chuyển giá “giá cao - giá thấp” sẽ là nguyên nhân làm cho các nước
địa phương gia tăng hàng hóa nhập khẩu và các chi phí vô hình đồng thời giảm hàng
hóa xuất khẩu, từ đó làm giảm thu nhập và thanh toán quốc tế của các nước địa
phương.
2.2.6.1.1 Phá hoại môi trường cạnh tranh công bằng của thị trường
Đôi khi để nắm bắt thị trường và ngăn chặn đối thủ cạnh tranh, các MNC xây

dựng giá chuyển giao nội bộ thấp hơn, vì vậy các công ty con có thể bán các sản phẩm
với một mức giá thấp hơn giá bình thường và thậm chí thấp hơn chi phí sản xuất tất
nhiên là vẫn đảm bảo đầy đủ hồ sơ chứng từ hợp pháp. Bên cạnh đó, các công ty con
có thể có một số lợi thế cạnh tranh không lành mạnh do mức thuế thực sự của các
công ty con là thấp hơn mức thuế bình thường thông qua hoạt động chuyển giá. Điều
này đã tạo ra một vị thế cạnh tranh không công bằng giữa các công ty con và các công
ty tương tự tại thị trường các nước địa phương. Hành động này gây nguy hại cho thị
trường cạnh tranh, cản trở sự tồn tại và phát triển bền vững của thị trường.
2.2.6.1.3 Làm hư hỏng hình ảnh của nước địa phương khi hấp thụ
đầu tư nước ngoài
Thông qua chiến lược chuyển giá “giá cao - giá thấp”, các MNC chuyển lợi
nhuận từ các công ty con tại nước địa phương về, làm xuất hiện lợi nhuận thấp hoặc lỗ
tại công ty con. Từ đó tạo nên một ấn tượng sai lầm rằng đầu tư vào nước địa phương
là không hiệu quả. Sai lầm này có thể tác động đến dòng tiền đầu tư nư ớc ngoài vào
nước địa phương. Điều này không chỉ làm tổn hại đến uy tín của môi trường đầu tư
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 24
GS.TS Võ Thanh Thu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế
các nước địa phương trên toàn thế giới, mà nó còn tổn hại đến việc nhập khẩu các quỹ
đầu tư nước ngoài và công nghệ tiên tiến để phát triển kinh tế tại địa phương đó.
2.2.6.1.4 Ảnh hưởng đến việc kiểm soát vĩ mô của nước địa phương
Các chính sách tài chính là một công cụ quan trong của quốc gia trong việc kiểm
soát nền kinh tế vĩ mô, trong đó hệ thống thuế là quan trọng nhất. Một mặt, Chính phủ
có thể điều chỉnh sự phân phối tài nguyên giữa các ngành công nghiệp khác nhau
thông qua hệ thống thuế và hướng các nguồn lực chảy vào các ngành công nghiệp mà
quốc gia khuyến khích phát triển. Ví dụ, quốc gia khuyến khích sự phát triển của
ngành công nghiệp công nghệ cao thì áp dụng một mức thuế suất thấp, không khuyến
khích ngành sản xuất chất gây nghiện thì sẽ áp dụng một mức thuế suất cao. Mặt khác,
thuế thu nhập là một nguồn quan trọng đối với doanh thu tài chính của một quốc gia
và nó cũng có thể điều chỉnh quá trình phân bổ doanh thu.
Các MNC sử dụng chiến lược chuyển giá để chuyển lợi nhuận, trốn thuế, với

mức thuế suất thực tế thấp hơn mức thuế bình thường, hoặc thậm chí là bằng với mức
thuế suất của các ngành được quốc gia khuyến khích. Các hành động trên làm giảm
các nguồn lực chảy vào các ngành công nghiệp được quốc gia khuyến khích, từ đó
làm cho việc điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp không đạt được hiệu quả như
mong đợi.
2.2.6.2 Ảnh hưởng tích cực
Tuy vậy, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, chúng ta đang cần rất
nhiều vốn, công nghệ cao…thông qua dòng vốn FDI để phát triển đất nước. Trong khi
đó, rất nhiều các quốc gia khác cũng có những đặc thù về nền kinh tế, chính trị như
nước ta, ví dụ như: Trung Quốc, Lào…và tất nhiên các nước này cũng đang rất cần
vốn để phát triền (về một số ngành hoặc một số vùng nào đó). Do đó, nếu như Việt
Nam có các chính sách thông thoáng đối với việc chuyển giá hơn so với các quốc gia
khác thì Việt Nam sẽ là điểm đến cho nhiều MNC, tất nhiên lúc này chúng ta phải
đánh đổi việc mất một nguồn thu thuế với nhửng tác động tích cực từ nguồn vờn FDI
như việc tạo ra công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ… Với góc độ này thì
chuyển giá lại như là một yếu tố cạnh tranh có hiệu quả trong thu hút FDI.
K20_Thương mại_Nhóm 3 Trang 25

×