Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN:Thực trạng chung về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của của Công ty GILIMEX sang thị trường Nhật Bản pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 34 trang )



0








LUẬN VĂN

Thực trạng chung về xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của của Công ty GILIMEX
sang thị trường Nhật Bản































1
Mục lục
Lời nói đầu
…………………………………………………………………… 1
Chương I: Công ty cổ phần SXKD&XNK Bình Thạnh xâm nhập thị trườn
g

. Nhật Bản …………… ………………… 3
Chương II: Phân tích môi trường kinh tế Nhật Bản tác động đến quyết định
. .thâm nhập thị trường Nhật Bản của GILIMEX
……… … 9
2.1. Môi trường kinh tế Nhật Bản và những điểm cơ bản tác động
đến quá trình xâm nhập của GILIMEX
……………………………… …9
2.2. Thực trạng chung về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của của

Công ty GILIMEX sang thị trường Nhật Bản
…………………….…15
2.2.1 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta ……15
2.2.2 Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công m
ỹ nghệ của
Công ty sang thị trường Nhật bản
……………………………… 16
2.2.2.1 Những chuyển biến tích cực từ phía môi trường kinh
tế Nhật Bản ……………… … ………………….…… …17
2.2.2.2 Tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế Nhật
Bản…19
Chương III: Bài học kinh nghiệm và gợi ý đối với GILIMEX khi thâm nhập
. .vào thị trường Nhật Bản ……………………….…21
3.1 Bài học kinh nghiệm …………………………………………….…21
3.1.1 Cần phải đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường
… …21
3.1.2 Việc đáp ứng những yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm
3.1.3 Vấn đề thu thập thông tin thị trường và những chuyển biến
mới của môi trường kinh tế nơi công ty hoạt động
……………….22
3.1.4 Kinh nghiệm từ hoạ
t động Marketing …………………… 23
3.1.5 Đẩy mạnh khả năng xuất khẩu qua việc gia tăng hợp tác kinh
doanh với các đối tác Nhật Bản ……………………………….…23


2
3.2 Những gợi ý đối với GILIMEX khi thâm nhập thị trường Nhật
Bản
3.2.1 GILIMEX cần đáp ứng những đòi hỏi gì ………….………24

3.2.2 Cơ cấu lại xuất khẩu, khắc phục tính đơn điệu ………….…25
3.2.3 Việc đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng & Qui chế ……………25
3.2.4 Tiếp thị và xúc tiến thị trường như thế nào ……………… 26
Kết luận ………………………………………………………………….……28


3
Lời nói đầu
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay,
hoạt động xuất nhập khẩu được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất để thúc đẩy tăng trưởng của mỗi quốc gia. Kinh tế Việt nam cũng không
nằm ngoài xu thế đó, Việt nam đã và đang nỗ lực hết mình để đưa nền kinh tế
trong nước ngày một hòa nhập một cách ch
ủ động và hiệu quả vào đời sống
kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trước sự vận động hết sức sôi động và phức tạp, mỗi một thị
trường nước ngoài lại mang trong nó những nét đặc thù và rất phức tạp. Giờ
đây khi việc hàng hóa sản xuất ra rất đa dạng trên thị trường quốc tế, người tiêu
dùng cũng vì thế mà có được nhiều sự lựa chọ
n hơn. Song song với nó là sự đòi
hỏi ngày một khắt khe của khách hàng đối với các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng
quốc tế.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta vốn có lịch sử phát triển rất lâu
đời. Bằng khối óc thông minh và bàn tay khéo léo của mình, từ ngàn xưa ông
cha ta đã tạo ra biết bao nhiêu sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo mang đậm
bản sắc văn hoá dân tộc. Trải qua bao thă
ng trầm của kinh tế xã hội, hàng thủ
công mỹ nghệ vẫn giữ được vị trí của nó vẫn duy trì và phát triển cho đến ngày
nay. Không phải ngẫu nhiên mà mặt hàng này được nằm trong mười mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của quốc gia. Ngoài ý nghĩa kinh tế, đó là xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ, góp phần cải thiện cán cân
thanh toán, nó còn mang ý nghĩa xã hội rất lớ
n là góp phần tạo ra công ăn việc
làm cho người lao động, nâng cao đời sống của người dân. Thông qua hoạt
động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ với các sản phẩm tinh xảo, độc đáo,
chúng ta đã giới thiệu được với bạn bè thế giới về đời sống văn hoá của con
nguời Việt Nam, giúp cho họ hiểu rõ hơn về chúng ta để chúng ta tôn trọng, giữ
gìn và phát huy nguồn tài sản quý giá mà ông cha ta để l
ại.
Không như những thị trường ở EU và Bắc Mỹ, Nhật Bản hiện đang là thị
trường xuất khẩu lớn nhất đối với Việt nam, với những nét đặc thù về kinh tế,


4
con người và môi trường kinh doanh của Nhật Bản đã và đang đặt ra nhiều
những thách thức cũng như cơ hội đối với hàng hóa của Việt nam nói chung và
hàng thủ công mỹ nghệ của GILIMEX nói riêng khi quyết định xâm nhập vào thị
trường Nhật Bản. Do đó tôi chọn công ty GILIMEX làm đề tài đề án môn học,
bài viết này sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về môi trường kinh tế Nhật Bản và
đưa ra một số giải pháp nh
ằm thúc đẩy quá trình xuất khẩu hàng hóa Việt nam
vào thị trường Nhật Bản. Trong quá trình hoàn thành Đề án này chắc chắn
không tránh khỏi thiếu sót do trình độ hạn chế, tôi mong có được sự góp ý nhiệt
tình từ phía Thầy cô và bạn bè để tôi có thể làm tốt hơn cho những bài viết sau.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Hường đã hướng dẫn
giúp đỡ em hoàn thành đề án này .
Sinh viên:
Nguyễn Minh
Hải
















Chương I:


5

Công ty cổ phần SXKd&XNK Bình Thạnh xâm nhập thị trường Nhật Bản
Công ty cổ phần SXKD&XNK Bình Thạnh tiền thân là công ty cung ứng
hàng xuất khẩu Quận Bình Thạnh được thành lập năm 1982 theo quyết định số
39/QĐ-UB ngày 19/3/1982, được chuyển thành công ty cổ phần theo quyết định
số 134/2000/QĐ-TTg ngày 24/11 năm 2000 của thủ tướng Chính phủ.
Tên công ty: Công ty Cổ phần sản xuất kinh doanh XNK Bình Thạnh
Tên giao dịch quốc tế Binh Thanh Import-Export Production and Trade
Stock Company
Tên viế
t tắt : GILIMEX
Trụ sở chính : 24C Phan Đăng Lưu, P6, Quận Bình Thạnh, Tp.HCM

Chủ tịch hội đồng quản trị : Nguyễn Băng Tâm – Giám đốc công ty
Công ty hoạt động trong các lĩnh vực:
Sản xuất, chế biến và xuất klhẩu hàng, nông lâm, thủy hải sản, thủ công
mỹ nghệ, hàng may mặc ( Ba lô, túi xách), hàng da, cao xu, lương thực, thực
phẩm, thiết bị, máy móc, vật liệu xây dựng, các loại vật liệu và các sản phẩm
khác…
Thời điểm Công ty sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu Bình thạnh
(GILIMEX) chính thức thâm nhập thị trường Nhật Bản là vào năm 1994, ngay
trước khi Việt nam gia nhập tổ chức ASEAN năm 1997, vào năm đó GILIMEX
là một trong số ít những công ty của Việt nam có tham vọng tham nhập thị
trường nước ngoài và đặc biệt hơn nữa là GILIMEX đã dám mạnh dạn đưa mặt
hàng thủ công mỹ nghệ của Vi
ệt nam ra thị trường nước ngoài, điều mà không
phải doanh nghiệp Việt nam nào cũng đủ can đảm hay nói đúng hơn là sự tự tin
với sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mình có thể chiếm lĩnh được thị trường
nước ngoài. Với GILIMEX có những lý do riêng biệt khi theo duổi tham vọng
đưa sản phẩm thủ công mỹ nghệ thâm nhập thị trường Nhật Bản.

Kể từ sau khi Việt nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 7
năm 1976, quan hệ Nhật – Việt chỉ thực sự phát triển vững chắc từ sau Hội nghị
hòa bình về Campuchia vào năm 1991, bắt đầu bằng việc thảo luận mở lại Viện
trợ Phát triển chính thức (ODA) cho Việt nam. Đây thực sự là một điểm mốc


6
quan trọng cho quan hệ kinh tế ngày một sâu sắc giữa hai nước, việc nối lại hoạt
động tàI trợ cho Phát triển chính thức của Nhật Bản thực sự mang lại cơ hội phát
triển cho Việt nam cũng như là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt nam đẩy mạnh
giao lưu hợp tác buôn bán, xuất khẩu hàng hóa của mình sang thị trường Nhật
Bản.

Với bản thân GILIMEX khi quyết định thâm nhập thị tr
ường Nhật Bản họ
có những lý do riêng của mình:
Môi trường kinh tế Nhật Bản thực sự hứa hẹn những cơ hội làm ăn lớn
đối với công ty GILIMEX, Nhật Bản là thị trường có khả năng chi trả cao, thu
nhập bình quân tính theo đầu người thuộc dạng cao trên thế giới lúc bấy giờ, đạt
khoảng 15.250 USD. Không dừng lại ở con số GDP, Nhật Bản còn thể hiện sức
h
ấp dẫn của mình qua mức chi cho tiêu dùng luôn chiếm tỷ lệ cao thường là 60 –
70% GDP, GILIMEX nhận thấy rõ đặc điểm tiêu dùng sản phẩm của người
Nhật Bản, họ thường mua những hàng hóa hay đồ dùng mà đồng nghiệp của
mình có hay đã mua…đây thực sự là cơ hội tốt cho GILIMEX phát triển sản
phẩm, tăng thị phần cũng như doanh số bán
Nhật Bản trang bị cho mình một hệ thống phân ph
ối đa dạng và sâu rộng,
việc làm ăn với các đối tác Nhật sẽ là cơ hội tốt cho GILIMEX đẩy mạnh khả
năng thâm nhập sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mình khi có được những hiểu
từ phía đối tác là đại lý phân phối, bán lẻ của Nhật, họ thực sự quá hiểu về thị
hiếu cũng như đặc tính tiêu dùng của người dân nước họ, từ
đó GILIMEX sẽ
biết làm thế nào để sản phẩm của mình được người tiêu dùng Nhật Bản chấp
nhận tạo cơ sở cho việc kinh doanh một cánh hiệu quả cho GILIMEX trên thị
trường Nhật Bản
Mặt khác, với mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt nam đặc biệt khuyến
khích và có những ưu đãi đối việc sản xuất và xuất khẩu. GILIMEX được nhà
nước đặc bi
ệt dành cho những ưu đãi trong việc sản xuất kinh doanh và xuất
khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ, cụ thể bằng việc nhà nước cho vay những
khoản tiền có lãi suất ưu đãi, đặc biệt hơn là trợ cấp xuất khẩu, giảm thiểu khoản
thuế xuất khẩu cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty, bên cạnh đó phải



7
kể đến khả năng giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động cứ xuất khẩu được
1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì đã tạo việc làm và thu nhập cho khoảng
từ 3000 – 4000 lao động, nhất là lực lượng nông nhàn, đây là công việc có thể
lôi cuốn và hướng những đối tượng này tham gia, nâng cao được phúc lợi cho xã
hội
GILIMEX tự thấy việc quyết định thâm nhập thị trường Nhật Bản là
một quyết định đúng đắn, đây thực sự là cơ hội lớn cho GILIMEX tự hoàn
thiện mình bằng việc không ngừng thử nghiệm những kiểu dáng sản phẩm
mới lôI cuốn khách hàng Nhật Bản đồng thời tạo lập cho mình khả năng
cạnh tranh ngày một cao cho sản phẩm thủ công mỹ ngh
ệ của công ty. Hơn
thế nữa, công ty cũng nhận thức được rằng họ không chỉ nhằm mục tiêu
bán hàng thông thường, họ thực sự ý thức rõ sự khác biệt trong việc kinh
doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên thương trường quốc tế, GILIMEX
đã và đang nỗ lực không ngừng thổi được cái hồn Việt nam trong các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, sản phẩm thủ công mỹ nghệ
còn mang nặng trong
nó tài hoa, sức sáng tạo của người thợ làm ra nó thực sự là một cách giới
thiệu với bạn bè Nhật Bản về một loại sản phẩm truyền thống mang đậm
bản sắc của Việt nam
Công ty xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật
Bản chủ yếu bằng cả phương thức xuất khẩu trực tiếp là 70% và gián tiế
p
là 30%, với hệ thống bán lẻ tương đối rộng kết hợp với việc ủy thác xuất
khẩu cho các đối tác Nhật Bản chủ yếu qua ba loại kênh phân phối chính:
Nhà sản xuất – Nhà đại lý – Nhà Nhập khẩu, Nhà sản xuất – Người bán sỉ
trong khu vực tiêu dùng – Người bán lẻ, cửa hàng bách hóa tổng hợp, Nhà

sản xuất – Nhà thầu - Đại lý, điểm phân phối bán hàng…. GILIMEX thực
hiện bán hàng theo nhiều kêng phân phối h
ướng tới thị trường mục tiêu,
công ty đã thực hiện nhiều buổi trình chiếu, quảng cáo hàng thủ công mỹ


8
nghệ không chỉ qua danh mục hàng hóa mà còn tích cực tham gia vào các
hộ trợ riển lãm hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức tại Nhật Bản…
Trong những năm đầu tiến hành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang
thị trường Nhật Bản( 1994 – 1998) kim ngạch xuất khẩu thực sự chưa cao,
nhưng Nhật Bản lai là thị trường có kim ngạch xuất khẩu cao hơn cả so với các
thị trường khác của GILIMEX, trong khoảng thời gian đó, GILIMEX xuất khẩu
với tổng kim ngạch xuất riêng cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 350
triệu VND trung bình năm
Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của
GILIMEX đạt gần 700 triệu VND, mức tăng khá về kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng này của công ty đã được đánh giá cao mặc dù so với cả nước thì kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này của công ty con khiêm tốn, bởi bối cảnh kinh tế Nhật
Bản lúc bấy giờ mới chỉ phục hồi đ
ôi chút sau cơn khủng hoảng kinh tế khu vực
nên tác động không nhỏ đến việc kinh doanh ở Nhật của GILIMEX
Kể từ sau năm 1999 đến nay công ty GILIMEX đã đạt được những kết
quả mới khả quan hơn so với các năm trước đó, thể hiện rõ qua bảng sau:
(Bảng1): Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của GILIMEX sang thị trường Nhật Bản

Đơn vị: 1000đ
STT Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002
1 Tổng doanh thu 689.260 1.010.000 1.070.230 1.334.120

2 Tổng chi phí 657.660 946.947 987.860 1.208.518
3 Tổng lợi nhuận 29.600 63.026 82.370 125.602
4 Vốn kinh doanh 900.760 1.120.950 1.203.250 1.284.250
5 Lợi nhuận/chi phí 4,50 6,65 8,34 10,4
6 Lợi nhuận/vốn 3,29 5,62 6,85 9,9
(Nguồn VASC,công bố ngày 18/9/2003, 8h45)


9
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, GILIMEX thực
sự đã và đang gặp phải những trở ngại không nhỏ từ phía môi trường kinh tế
Nhật Bản, thể hiện rõ những tác động có tính hai mặt đối với hoạt động kinh
doanh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật
Bản
Một mặt, môi trường kinh tế Nhật Bản tạo đ
iều kiện cho các doanh nghiệp
nước ngoài làm ăn hiệu quả, Nhật Bản coi trọng sự cạnh tranh lành mạnh, họ có
xu hướng tiêu dùng những sản phẩm có tính thẩm mỹ, nghệ thuật cao, giá cả
hợp lý, và đặc biệt thích thú với các dịch vụ sau bán hàng hấp dẫn. Đối với mặt
hàng thủ công mỹ nghệ, những trạng thái trên của thị trường Nhật Bản trở nên
phù hợp hơn bao giờ
hết, điều này cũng thực sự là điểm mà GILIMEX rất quan
tâm chú ý để nhằm gây ấn tượng tốt về mặt hàng thủ công mỹ nghệ của mình
đối với người tiêu dùng Nhật Bản…ngoài ra Nhật Bản còn đặc biệt có những
chính sách giảm thuế cho mặt hàng nhập khẩu là thủ công mỹ nghệ của một số
nước và tất nhiên Việt nam không phải là một ngoại lệ, ví dụ
như việc Nhật Bản
áp dụng mức thuế phổ cập cho Việt nam hay những gợi mở khác từ phía đối tác
Nhật đã và đang thực sự là những cơ hội lớn cho GILIMEX mở rộng hoạt động
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của mình sang thị trường Nhật Bản

Mặt khác, môi trường kinh tế Nhật Bản còn mang tới những thách thức
không nhỏ đố
i với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của GILIMEX
sang thị trường này, thể hiện bằng hệ thống những vấn đề đặt ra cần có sự giải
quyết từ phía công ty: Người tiêu dùng Nhật Bản rất khó tính trong việc lựa
chọn tiêu dùng hàng hóa, bất luận như thế nào họ luôn muốn sản phẩm mà mình
mua phải đáp ứng được hệ thống những yêu cầu kh
ắt khe nhất như: phải có
chứng nhận kiểm định hàng hóa của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản
như các tiêu chuẩn công nghiệp, nông nghiệp ( JIS, JAS, Ecomark…) ngoài ra
hàng hóa đó còn phảI đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, hay rõ hơn là vấn đề
về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm là một đòi hỏi thường xuyên và hết sức
bức xúc.


10
Vấn đề đặt ra nữa mà GILIMEX cũng đã rất thấm nhuần đấy là hàng hóa
của công ty cũng như hàng hóa của Việt nam hiện chưa được hưởng chế độ tối
huệ quốc (MFN) một cách chưa đầy đủ, đây chính là lý do vì sao khi mặt hàng
thủ công mỹ nghệ của công ty khi xuất sang thị trường Nhật Bản thì tính cạnh
tranh yếu hẳn đi và không đủ sức hấp dẫn người tiêu dùng Nh
ật Bản như những
sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Thái
Lan…do những nước này hiện đã được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN) đầy
đủ trong khi Việt nam mới chỉ được hưởng chế độ thuế suất phổ cập (GSP) mà
phía Nhật Bản dành cho
Hơn nữa, không nằm ngoài qui luật phát triển kinh tế, kinh tế Nhật Bả
n đã
và đang chứa đựng những biến chuyển sâu sắc về kinh tế như vấn đề tăng trưởng
cao gắn liền với suy thoái theo chu kỳ thực sự là một bài toán cần có sự đầu tư

giải quyết từ phía các doanh nghiêp như GILIMEX để từ đó có những đánh giá
đúng và đầy đủ về môi trường kinh tế Nhật Bản và quan trọng hơn là tự rút ra
những liệu pháp h
ợp lý đối với hoạt động xuất khẩu của mình vào Nhật Bản sao
cho phù hợp với mỗi một giai đoạn phát triển của nền kinh tế Nhật Bản cũng
như những diễm biến phức tạp của môi trường kinh tế Nhật Bản .





















11












Chương II:
phân tích môI trường kinh tế Nhật Bảntác động đến quyết định thâm nhập
thị trường Nhật Bản của GILIMEX
2.1. Môi trường kinh tế Nhật Bản và những điểm cơ bản tác động đến quá
trình xâm nhập của GILIMEX
Nền kinh tế Nhật Bản đang hồi phục dần dần từ sau mức tăng trưởng âm
1998. Năm 2000, mức t
ăng trưởng kinh tế Nhật Bản là 1,7% tăng 0,8% so với
năm 1999. Tuy nhiên, không có sự thay đổi trong những khoản chi ngân sách.
Mức chi tiêu cho tiêu dùng, chiếm 60% GDP, đã giảm 0,6% so với năm trước.
Sức tiêu thụ của thi trường đang yếu đi. GNP của Nhật tăng 23,4$ trong 10 năm
từ 1989 đến 1999, trong khi, trong cùng thời kỳ, GNP của Hoa Kỳ tăng gấp 3
lần (69,4%). Tuy nhiên, GPP trên đàu người của Nhật Bản cao hơn chút so với
Hoa Kỳ.



12




(Hình 2.1)
Qua những chỉ số phát triển kinh tế trên ta có thể thấy rằng, Nhật Bản là
một thị trường rất phát triển có thể nói, nền kinh tê Nhật Bản là một nền kinh tế
phát triển cao về bậc nhất thế giới, việc kinh doanh của các doanh nghiệp nước
ngoài tại đây sẽ vừa tạo nhiều cơ hội cho chính họ, cũng như đặt ra nhiều thách
thức. Khi b
ước vào môi trường kinh doanh của Nhật Bản, thì việc hiểu biết về
đặc điểm môi trường kinh tế và nền văn hoá cũng như con người Nhật Bản là rất
quan trọng. Nó có thể quyết định thành công hay thất bại trong quá trình kinh
doanh. Khi một doanh nghiệp muốn tiếp cận một thị trường nào đó, cần tìm hiểu
mức độ hấp dẫn của nó, hay nói cách khác là môi trường vận hành Marketing,
đó là việc xác định nhu c
ầu thị trường, sự thích hợp của sản phẩm của mình với
người tiêu dùng, và làm thế nào để đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng,
đó điều quyết định để mở rộng phạm vi cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc tiến hành các hoạt động marketing, cụ thể là nghiên cứu và tiếp cận thị
trường, chọn kênh phân phối nếu không phù h
ợp sẽ phản tác dụng, thậm chí để
lại hậu quả nghiêm trọng. Văn hoá là yếu tố quan trọng trong môi trường vận
hành marketing, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hoạt động của nó. Bởi vậy, hiểu biết
sâu sắc về văn hoa cũng như con người Nhật Bản là cơ sở để có những cách vận


13
dụng hiệu quả trong khi hoạt động trong môi trường này, từ đó sẽ có những
quyết định và hành động đúng đắn.
Bên cạch đó, thị hiếu của người tiêu dùng bắt nguồn từ truyền thống và
điều kiện của Nhật Bản trở thành một yếu tố quan trọng trong việc bán và phát
triển sản phẩm. Ta cũng cần chú ý đến tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài
g

ần đây nên người Nhật Bản có xu hướng thích mua các hàng hoá có giá cả hợp
lý. Người tiêu dùng Nhật Bản đề ra các tiêu chuẩn về độ bền và chất lượng rất
cao cho sản phẩm, cũng như tạo ra các yêu cầu cho các sản phẩm phải tuân theo
ví dụ : hệ thống các tiêu chuân JIS, JAS, ECOMARK… Chính việc đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng này của các hãng sản xuất Nhật Bản đã đem lại những tiến bộ
trong chất lượng hàng hoá và ng
ược lại các sản phẩm chất lượng cao đã tạo nên
danh tiếng cho các hãng sản xuất cua Nhật Bản. Như vậy, việc đưa những sản
phẩm của doanh nghiệp nước ngoài như Việt Nam sang thị trường Nhật Bản thì
sẽ vấp phải những khó khăn và trở ngại từ các hãng sản xuất của Nhật Bản. Khi
mà người dân đã có thói quen tiêu dung hàng hoá chất lượng cao như vậy, c
ũng
như sự đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng chính quốc. Người tiêu dùng Nhật
Bản tương đối khó tính, ví dụ: một lỗi nhỏ, chẳng hạn một vết xước trên đò gia
dụng có thể bị phàn nàn, mặc dù đây chỉ là một khiếm khuyết nhỏ mà đa số
hàng hoa đều mắc phải. Và người tiêu dùng sẽ chán nản ngay cả với những vết
xước nhỏ nh
ư vậy, nên đội ngũ nhân viên thấy rằng cần phải thận trọng trong
việc sắp xếp, đóng gói cũng như vận chuyển hàng hoá. Đấy là một lỗi nhỏ, còn
chất lượng hàng hoá, điều quan trọng để thu hút khách hàng, nếu như người tiêu
dùng cảm thấy họ đã mua một hàng hoá mà không đáp ứng về mặt chất lượng
như ý, họ sẽ ngay lập tức chuyển sang mua sả
n phẩm nhãn hiệu khác. Như vậy,
để tạo được sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của mình hay một
nhãn hiệu nào đó là một điều khó khăn. Và doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
và tiếp cận thị trường Nhật Bản cần phải tạo lòng tin ban đầu của khách hàng
với sản phẩm của mình bằng một sản phẩm với chất lượng cao, cũng như nhiều
v
ấn đề có liên quan, như kiểu dáng đẹp, phù hợp, tiện lợi, giá cả phải chăng đấy
là điều quan trọng, và nếu có thể là dịch vụ sau bán hàng, nư bảo hanh sản



14
phẩm. Người tiêu dùng muốn những hàng hoá có thể tin cậy và những dịch vụ
sau bán hàng giúp họ hài lòng. Điều đó có thể thúc đẩy họ nhớ đến nhãn hiệu
sản phẩm nhiều lần khi đi mua sắm, nếu chúng ta xuất khẩu hàng hoa sang Nhật
Bản, cũng cần phải chú ý đến khâu vận chuyển, bảo quản, đồng thời kiểm tra
một cách kỹ càng trước khi xuất hàng, để tránh khỏi việc m
ắc phải một số lỗi cơ
bản, cho dù là nhỏ nhưng sẽ gây ấn tượng không tốt đối với người tiêu dùng
Điểm đáng quan tâm nữa đấy là thái độ của người tiêu dùng Nhật Bản
-Người Nhật Bản là người tiêu dùng khắt khe nhất:
Nhật Bản là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất lượng sản
phẩm cao nhất, gồm cả
độ bền và khả năng hoạt động. Những khiếm khuyết mà
ở các quốc gia khác không thành vấn đề như một vết xước nhỏ, đường viền
không cân hay màu sơn bị mờ trong một sản phẩm thì ở Nhật Bản đều bị coi là
hàng hỏng. Nhu cầu về bảo hành hàng hoá là rất cần thiết, người tiêu dùng muốn
những hàng hoá có thể tin cậy và những dịch vụ sau bán hàng giúp họ hài lòng.
Khi người tiêu dùng đ
ã thấy mình mua được một hàng hoá không như ý, họ sẽ
ngay lập tức chuyển sang mua sản phẩm nhãn hiệu mới. Nếu có một vấn đề nào
đó đối với sản phẩm sản xuất thì người tiêu dùng Nhật Bản muốn được giải
quyết ngay lập tức. Đây cũng chính là yếu tố gây ra nhiều những trở ngại đối với
GILIMEX khi thâm nhập vào thị trương Nhật Bản, cũ
ng chính bởi lý do trên
GILIMEX cảm thấy mình như vẫn còn chưa đáp ứng thật tốt đối với yêu cầu của
thị trường, bài toán này đã đặt ra những thay đổi phù hợp trong cung cách thâm
nhập của GILIMEX khi đưa hàng hóa thủ công mỹ nghệ thâm nhập vào thị
trường Nhật Bản

-Người tiêu dùng Nhật Bản rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa:
Thời tiết ảnh hưởng rất nhiều t
ới tiêu dùng. Mức tiêu dùng của một loại hàng
hoá, đồ trang sức, đồ nội thất trong gia đình, chịu ảnh hưởng của khí hậu và
thời tiết. Mùa hè ở Nhật thường nóng và ẩm trong khi đó mùa đông lạnh và khô,
từ đó những hàng hoá chịu ảnh hưởng của thời tiết thì chất liệu, màu sắc cũng
như kiểu dáng cần phải phù hợp. Nếu GILIMEX tung ra những hàng hoá phù


15
hợp với mỗi mùa nhưng khí hậu không thay đổi theo đúng như dự tính thì những
sản phẩm này sẽ bán không chạy.
-Người tiêu dùng Nhật Bản thường chọn nhiều sản phẩm:
Với những hàng hoá có màu sắc khác nhau thì người tiêu dùng rất muốn các
nhà tư vấn đưa ra các lời khuyên về màu sắc thích hợp nhất với thị hiếu cá nhân.
GILIMEX cần cung cấp thông tin cụ thể về sản phẩm và dịch vụ sau khi bán vì
đối với người tiêu dùng Nhật Bản như đã nói ở trên thì họ rất quan tâm tới tiêu
chuẩn chất lượng của hàng hoá, đồng thời nhu cầu về bảo hành là rất cần thiế
t,
người tiêu dùng muốn những hàng hoá có độ tin cậy và những dịch vụ sau bán
hàng giúp họ hài lòng.
Mặt khác, Nhật Bản có cho mình một hệ thống luật qui định chặt chẽ cho
từng loại hàng hóa, sản phẩm của doanh nghiệp nước ngoài muốn tồn tại được
cũng như đứng vững được thì việc nghiên cứu và tìm cách thích ững với những
qui định đó là một yêu cầu hết sức cấ
p thiết, hệ thống qui định liên quan bao
gồm có: Luật gán nhãn hàng chất lượng sử dụng trong gia đình, Luật an toàn
sản phẩm cho người tiêu dùng (ký hiệu S), Luật trách nhiệm pháp lý đối với
sản phẩm, Các loại tiêu chuẩn về hàng hóa của Nhật Bản
Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản(JIS) là một hệ thống tiêu chuẩn sản

phẩm, sản phẩm đạt tiêu chuẩn này ghi nhãn hiệu chấp thuận vớ
i ký hiệu JIS.
Xuất hàng trong khoảng 5 năm kể từ sau khi thiết lập, tiêu chuẩn JIS đã được ủy
ban Tiêu chuẩn côg nghiệp Nhật Bản kiểm tra, xác nhận, điều chỉnh hoặc bãi bỏ.
Bốn chữ số nằm bên phải của các số của JIS ( ví dụ : “1993” trong “S1102-
1993” biểu thị năm khi tiêu chuẩn đã được kiểm tra.
Có ba tiêu chuẩn của JIS áp dụng cho đồ gỗ gia dụng đó là các loại
gi
ường ngủ thường (JIS S1102-1993), giường ngủ trẻ em (JIS S1102-1995) va
giường xếp (JIS S1104-1995).
JIS (Japan Industrial Standards) là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng áp dụng
cho hàng hoá công nghiệp. JAS (Japan Agricultural Standards) là hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng áp dụng cho nông sản, thực phẩm. Hàng hoá đáp ứng được
tiêu chuẩn JIS, JAS sẽ dễ tiêu thụ hơn trên thị trường Nhật bởi người tiêu dùng


16
rất tin tưởng chất lượng của những sản phẩm được đóng dấu JIS hoặc JAS.
GILIMEX có thể xin dấu chứng nhận này cho sản phẩm của mình tại Bộ Công
Thương và Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản. Trong quá trình xem xét, Nhật
Bản cho phép sử dụng kết quả giám định của tổ chức giám định nước ngoài nếu
như tổ chức giám định đó được Bộ trưởng B
ộ Công Thương hoặc Bộ Nông Lâm
Ngư nghiệp Nhật Bản chấp thuận.
Chế độ xác nhận trước về chất lượng của thực phẩm nhập khẩu được Nhật
bản đưa vào áp dụng từ tháng 3/1994. Nội dung của chế đọ này là kiểm tra trước
các nhà máy đó đáp ứng được các quy định của Luật Vệ sinh an toàn Thực
phẩm. Nếu thực phẩm được c
ấp xác nhận này thì việc tiêu thụ trên thị trường
Nhật Bản sẽ trở nên dễ dàng hơn, thủ tục nhập khẩu cũng được giải quyết nhanh

chóng hơn ( trong vòng 1 ngày thay vì 7 ngày). Hiện nay Thái Lan rất quan tâm
đến chế độ này và 8 nhà xuất khẩu của Thái Lan được Chính phủ Nhật cấp giấy
chứng nhận cho 27 chủng loại thực phẩm. Thái Lan là nước thứ tư, sau Mỹ,
Oâxtrâylia và Đài Loan, được Chính phủ Nhật c
ấp giấy chứng nhận này.
Ecomark là dấu chứng nhận sản phẩm không là hại sinh thái, ra đời từ
năm 1989. Do vấn đề môi trường đang ngày càng được dân Nhật (cũng như dân
các nước phát triển khác) quan tâm nên GILIMEX phải nhanh chân xin dấu
chứng nhận này của Nhật đặc biệt là cho các sản phẩm đồ gỗ thủ công mỹ nghệ.
Ngoài những động thái chuyển biến về mặt pháp lý, môi trường kinh tế
Nhật Bả
n cũng đang có những chuyển biến ngày một phức tạp, những năm gần
đây cho thấy những chỉ số phát triển kinh tế như : Nguồn vốn trong nước có sự
nhàn rỗi và ứ đọng, Chính phủ Nhật Bản hiện đang khuyến khích các doanh gia
Nhật đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài nhất là ở các nước đang phát triển để phát
huy tốt mục tiêu khai thác những nguồn lực có lợ
i thế so sánh… Sự kiện đồng
Yen tăng giá là một điển hình, các quan chức chính phủ Nhật Bản đang rất lo
lắng trước khả năng đồng Yen tăng giá quá nhanh, điều này thật sự không có lợi
cho kinh tế Nhật, khi đồng Yen tăng giá nhanh so với USD sẽ làm cho khả năng
xuất khẩu của nước này sang thị trường nước ngoài đứng trước sự thua thiệt,
mặt khác kim ngạch xuất khẩ
u của Nhật Bản sẽ chững lại do lượng ngoại tệ


17
giảm đi vì đồng Yen trở nên đắt hơn so với USD là lý do khiến nguòn ngoại tệ
thu được sẽ không cao như khi đồng Yen xuống giá so với USD, mặt khác đây
là cơ hội cho các nước gia tăng nguồn ngoại tệ do giá trị kim ngạch xuất khẩu
tăng khi Yen lên giá.

Việc Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách bình ổn hối đoái, hay cụ
thể là việc phá giá đồng Yen thực sự là một bước trở
ngại đối với các nhà xuất
khẩu nước ngoài bởi vì khi đó nguồn ngoại tệ thu về từ kim ngạch xuất khẩu
hàng sang Nhật sẽ giảm sút rõ rệt… là một trong những yếu tố cần có sự tiên
liệu từ trước của những nhà xuất khẩu như GILIMEX.
Nhật bản là nước có mức độ quan tâm đầu tư phát triển rất lớn cho các
ngành công nghiệp chế tạo cũ
ng như rất khuyến khích đầu tư phát triển ứng
dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào đời sống, những ngành
như nông nghiệp tuy không có được sự quan tâm đặc biệt bằng các ngành công
nghiệp chế tạo, ứng dụng công nghệ. Tuy nhiên, đây là ngành Nhật Bản luôn có
chế độ ưu đãi và bảo vệ nhằm phục vụ cho những ục đích không chỉ là kinh tế
mà còn xem trọ
ng nó như những vấn đề bình ổn, đảm bảo an ninh quốc gia, để
không bị lệ thuộc vào một nguồn cung ứng nào từ bên ngoài… Đây thực sự
cũng là những thực tế gây nên những khó kăhn không nhỏ đối với các nhà cung
cấp nước ngoài không chỉ nông nghiệp mặc dù vậy Nhật Bản luôn có cái nhìn
thiện chí và thực sự đối xử công bằng và đãi ngộ đối với những ngành hàng thủ
công mỹ nghệ xuất phát từ những mục tiêu hợp tác giao lưu văn hóa, chính trị
với các bạn hàng quốc gia khác. Bởi lẽ, không như những ngành hàng khác,
ngành hàng thủ công mỹ nghệ không mang trong nó yếu tố công nghệ đặc sắc
mà chủ yếu là sự kết tinh từ những khối óc sáng tạo mang bản sắc quốc gia, do
đó đây là cơ hội để Nhật Bản hiểu rõ hơn về các ngành hàng thủ công truyền
th
ống của các nước.
Với những đặc điểm hết sức đặc thù của môi trường kinh tế Nhật Bản nêu
trên đã và đang thực sự trở thành những cơ hội cũng như những thách thức
không nhỏ đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng hóa thủ



18
công mỹ nghệ nói riêng của các công ty nước ngoài khi quyết định thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản.
2.2.
Thực trạng chung về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của của Công ty
GILIMEX sang thị trường Nhật Bản

2.2.1 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta:
Trong giai đoạn năm 1990-1992, quan hệ thương mại Việt nam – Nhật
Bản đã phát triển khá tốt đẹp và mạnh mẽ. Kim ngạch 2 chiều tương đối ổn
định.
Năm 1997 đạt kim ngạch 121 triệu USD
Năm 1998 đạt kim ngạch 111 triệu USD
Năm 1999 đạt kim ngạch 168 triệu USD
Năm 2000 đạt kim ngạch 250 triệu USD
Năm 2001 và năm 2002
đạt từ 200 đến 300 triệu USD, chiếm từ 12% -
17% kim ngạch xuất khẩu của Việt nam và Nhật Bản luôn là một trong những
thị trường xuát khẩu lớn nhất của Việt nam
Theo số liệu của Bộ Thương Mại, 8 tháng đầu năm nay, mặt hàng thủ
công mỹ nghệ vẫn đạt 230 triệu USD, dự kiến 4 tháng cuối năm đạt 170 triệu
USD, cả năm ước đạt 400 triệu USD t
ăng 33,3% so với cùng kỳ năm ngoái (năm
2002)
Hiện Việt nam có 14.000 làng nghề truyền thống chuyên sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ, những tổ chức kinh doanh rộng khắp trong nhiều địa phương
trên khắp nước đang mở ra một hướng đi triển vọng cho các doanh nghiệp kinh
doanh ngành hàng này.
Hiện nay, Việt nam có tới 11 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất

khẩu,trong đó có 5 nhóm chủ lực bao gồm gốm sứ mỹ
nghệ, mây tre đan, ren
thổ cẩm, đồ gỗ mỹ nghệ và thảm các loại. Trước năm 2001, hàng thủ công mỹ
nghệ Việt Nam chủ yếu mới xuất khẩu sang Đông Âu, hiện nay đã có mặt tại thị
trường 37 quốc gia và cùng lãnh thổ. Trong đó, Nhật, Mỹ, Hồng Kông, NaUy và
Thụy Sĩ là những thị trường nhập khẩu nhiều mặt hàng này của Việt nam với số
lượ
ng tăng rất nhanh.


19
Với những thế mạnh về nguồn nguyên liệu phong phú, lực lượng lao động
dồi dào, tay nghề khéo léo, ngành thủ công mỹ nghệ đang phấn đấu đạt mục tiêu
xuất khẩu 900 triệu - 1 tỷ USD vào năm 2005.
Để đạt được mục tiêu này, Bộ thương Mại đã kiến nghị Chính phủ chỉ đạo
triển khai thực hiện ngay trong năm nay các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp
trong ngành thủ công mỹ ngh
ệ về vốn, thuế, về định hướng thị trường và mặt
hàng xuất khẩu. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam cũng đang xây
dựng sàn giao dịch điện tử cho hàng thủ công mỹ nghệ và dự kiến sẽ bắt đầu
triển khai vào năm 2003
2.2.2 Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty
sang thị trường Nhật bản
Điều đầu tiên có th
ể nói về mối quan hệ giữa công ty và Nhật Bản đó là
Nhật Bản vừa là bạn hàng, vừa là đối tác làm ăn của công ty trên nhiều lĩnh vực.
Nhờ có mối quan hệ như thế nên công ty cũng có nhiều thuận lợi khi thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản so với các thị trường khác.
Hiện nay công ty có hai khách hàng truyền thống tại thị trường Nhật Bản,
nhờ có sự hiểu biế

t và tin cậy lẫn nhau nên hai bên thường thanh toán cho nhau
bằng phương thức chuyển tiền bằng điện, có khi phía Nhật Bản dùng phương
thức thanh toán trước, cấp tín dụng để công ty có vốn sản xuất. Kim ngạch xuất
khẩu của công ty sang Nhật Bản luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng xuất
khẩu kim ngạch của công ty, hơn nữa kim ngạch xuất khẩu của công ty còn có
tốc độ tăng nhanh từ nă
m này qua năm khác. Đặc biệt là năm 2000, kim ngạch
xuất khẩu sang Nhật Bản của GILIMEX là hơn 1 tỷ đồng, chiếm 33,8% tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty và vượt năm 1999 hơn 400 triệu.
Các mặt hàng chủ yếu của công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: Ba lô
túi sách, may mặc, gốm sứ mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, gỗ mỹ nghệ, mây tre đan.
Công ty xuất khẩu sang Nhật B
ản với hai hình thức chính là xuất khẩu trực tiếp
và uỷ thác xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu trực tiếp chiếm khoảng 70% tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty. So với hình thức xuất khẩu gián tiếp, hình
thức này thường có lợi nhuận cao hơn và giá cả ổn định hơn. Các mặt hàng xuất


20
khẩu dưới hình thức này là gốm sứ mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ và phần lớn các mặt
hàng tạp phẩm. Hình thức xuất khẩu gián tiếp chiếm khoảng 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu của công ty, các sản phẩm được xuất khẩu dưới hình thức này
là mây tre đan và một phần nhỏ hàng tạp phẩm.
Từ những phân tích trên ta thấy, Nhật Bản là một thị trường lớn c
ủa công ty
không những trong hiện tại mà thực sự còn có triển vọng trong cả tương lai.
Có thể nói Nhật Bản là một thị trường khó tính nhất và cũng khó xâm nhập
nhất của phần lớn công ty nào muốn xâm nhập vào đó. Đối với công ty
GILIMEX, trước khi đi vào sản xuất công ty đã xác định Nhật Bản là thị trường
mục tiêu quan trọng vì dù sao Nhật Bản cũng là một nước Châu á, có vị trí địa lý

khá thuậ
n lợi cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá. Văn hoá Nhật Bản mang
đậm phong cách á Đông và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Quan hệ
giữa Việt Nam và Nhật Bản gần đây có nhiều dấu hiệu tích cực và quan trọng
hơn là thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ - mặt
hàng mà công ty sản xuất và kinh doanh.
Vì Nhật Bản là một thị trường khó tính nên công ty rất th
ận trọng trong tất
cả các khâu xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản.
Bằng những nỗ lực của các cán bộ, công nhân công ty, từ khi thành lập đến
nay, đặc biệt là 2 năm gần đây hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường
Nhật Bản đã đạt được những hiệu quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu của
công ty không ngừng tăng lên, tạo công ăn việc làm th
ường xuyên và ổn định
cho cán bộ công nhân viên trong công ty ( những số liệu ở bảng 1 có thể minh
chứng được điều đó )
2.2.2.1 Những chuyển biến tích cực từ phía môi trường kinh tế Nhật Bản
Trong những năm gần đây, Nhật Bản thực sự đã có những chuyển biến
hết sức tích cực, GDP bình quân tính trên đầu người liên tục tăng, hệ thống
chính sách phát triển kinh tế
hoạt động rất hiệu quả và được đánh giá rất cao,
bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học cơ bản mở ra những cơ hội
cho phát triển bền vững


21
Môi trường kinh tế Nhật Bản thực sự hứa hẹn những cơ hội làm ăn lớn
đối với công ty GILIMEX, Nhật Bản là thị trường có khả năng chi trả cao, thu
nhập bình quân tính theo đầu người thuộc dạng cao trên thế giới, đạt khoảng
34.780 USD. Không dừng lại ở con số GDP, Nhật Bản còn thể hiện sức hấp dẫn

của mình qua mức chi cho tiêu dùng luôn chiếm tỷ lệ cao thường là 60 – 70%
GDP, GILIMEX nh
ận thấy rõ đặc điểm tiêu dùng sản phẩm của người Nhật
Bản, họ thường mua những hàng hóa hay đồ dùng mà đồng nghiệp của mình có
hay đã mua…đây thực sự là cơ hội tốt cho GILIMEX phát triển sản phẩm, tăng
thị phần cũng như doanh số bán
Nhật Bản trang bị cho mình một hệ thống phân phối đa dạng và sâu rộng,
việc làm ăn với các đối tác Nh
ật sẽ là cơ hội tốt cho GILIMEX đẩy mạnh khả
năng thâm nhập sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mình khi có được những hiểu
từ phía đối tác là đại lý phân phối, bán lẻ của Nhật, họ thực sự quá hiểu về thị
hiếu cũng như đặc tính tiêu dùng của người dân nước họ, từ đó GILIMEX sẽ
biết làm thế nào để sản phẩm củ
a mình được người tiêu dùng Nhật Bản chấp
nhận tạo cơ sở cho việc kinh doanh một cánh hiệu quả cho GILIMEX trên thị
trường Nhật Bản
Mặt khác, nếu công ty nắm bắt được cơ hội hợp tác kinh doanh với các
đối tác của Nhật thì sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc sản phẩm của công ty
sẽ có thể xuất khẩu trở lại, những trở ngại về m
ặt pháp lý hay chính sách thuế sẽ
mềm dẻo hơn, tạo nên khả năng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ trong tương lai cho công ty
Điều thuận lợi nữa là gần đây hai phía Việt nam và Nhật Bản thường
xuyên có những trương trình đẩy mạnh sự hiểu biết về nhau cũng như tăng
cường khả năng hợp tác trên nhiều lĩnh vực, hai bên đã qua nhiề
u vòng đàm
phán song phương cũng như đa phương trong việc Nhật Bản thực hiện những
chính sách có tính chất đãi ngộ hơn đối với hàng hóa Việt nam khi thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản, song song với việc thành lập nên nhiều những tổ chức
hợp tác, nghiên cứu phát triển quan hệ hai nước như : các tổ chức xúc tiến

thương mại tại Việt Nam như VCCI, Vietrade, Jetro. Nhằm mục đ
ích cung cấp


22
thông tin thị trường Nhật Bản cho các doanh nghiệp Việt nam khi tiến hành hoạt
động thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
2.2.2.2 Tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế Nhật Bản
Môi trường kinh tế Nhật Bản mang trong nó những thách thức không nhỏ
đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của GILIMEX sang thị
trường này, thể hiện bằng hệ thống những vấn đề
đặt ra cần có sự giải quyết từ
phía công ty: Người tiêu dùng Nhật Bản rất khó tính trong việc lựa chọn tiêu
dùng hàng hóa, bất luận như thế nào họ luôn muốn sản phẩm mà mình mua phải
đáp ứng được hệ thống những yêu cầu khắt khe nhất như: phải có chứng nhận
kiểm định hàng hóa của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản như các tiêu
chuẩn công nghiệp, nông nghiệp ( JIS, JAS, Ecomark…) ngoài ra hàng hóa
đó
còn phải đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, hay rõ hơn là vấn đề về trách
nhiệm pháp lý đối với sản phẩm là một đòi hỏi thường xuyên và hết sức bức
xúc.
Vấn đề đặt ra nữa mà GILIMEX cũng đã rất thấm nhuần đấy là hàng hóa
của công ty cũng như hàng hóa của Việt nam hiện chưa được hưởng chế độ tối
huệ quốc (MFN) một cách chưa đầ
y đủ, đây chính là lý do vì sao khi mặt hàng
thủ công mỹ nghệ của công ty khi xuất sang thị trường Nhật Bản thì tính cạnh
tranh yếu hẳn đi và không đủ sức hấp dẫn người tiêu dùng Nhật Bản như những
sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Thái
Lan…do những nước này hiện đã được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN) đầy
đủ trong khi Vi

ệt nam mới chỉ được hưởng chế độ thuế suất phổ cập (GSP) mà
phía Nhật Bản dành cho, bên cạnh đó phải kể đến sự cạnh tranh khốc liệt từ
những sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ Nhật Bản cũng như các quốc gia khác,
lý do thì nhiều nhưng phải kể đến một lý do chủ yếu nhất đấy là các sản phẩm
của công ty nói riêng và củ
a Việt nam nói chung hiện chưa được hưởng chế độ
tối huệ quốc (MFN) cho nên sản phẩm của công ty bị giảm đi phần nhiều khả
năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản
Mặt khác những chuyển biến mới gần đây từ môi trường kinh tế Nhật Bản
cho thấy, nguy cơ về ứ đọng vốn, tỷ giá tăng đột biến hay lớn h
ơn là khả năng


23
khủng hoảng chu kỳ sắp xảy ra, theo đó là những thay đổi lớn về chính sách tăng
trưởng, chi tiêu chính phủ cũng sẽ có điều chỉnh… thực sự đã và đang tạo ra
những thách thức không nhỏ đối với công ty khi tiến hành xuất khẩu hàng hóa
của mình vào thị trường Nhật Bản và tác động xấu có thể gây ra đối với công ty
đó là sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của công ty, hay
nguy cơ thiếu thị trường tiêu thụ do những thay đổi trong mức chi tiêu, tiêu dùng
của khách hàng Nhật Bản…
Tóm lại, trong môi trường kinh tế Nhật Bản tồn tại những tác động có
tính hai mặt thiết nghĩ công ty cần lưu tâm và có hướng giải quyết đúng đắn cho
phù hợp để có thể nâng cao khả năng thâm nhập của công ty như những chuyển
biến tất yếu : Bởi m
ột lẽ, không nằm ngoài qui luật phát triển kinh tế, kinh tế
Nhật Bản đã và đang chứa đựng những biến chuyển sâu sắc về kinh tế như vấn
đề tăng trưởng cao gắn liền với suy thoái theo chu kỳ thực sự là một bài toán cần
có sự đầu tư giải quyết từ phía các doanh nghiêp như GILIMEX để từ đó có

những đánh giá đúng và đầy đủ về môi trường kinh t
ế Nhật Bản và quan trọng
hơn là tự rút ra những liệu pháp hợp lý đối với hoạt động xuất khẩu của mình
vào Nhật Bản sao cho phù hợp với mỗi một giai đoạn phát triển của nền kinh tế
Nhật Bản cũng như những diễm biến phức tạp của môi trường kinh tế Nhật Bản
.
Do đó việc thường xuyên có những hoạt động nh
ư nghiên cứu, đánh giá
môi trường kinh doanh Nhật Bản phải là một công việc thường xuyên và liên
tục, là những bước quan trọng để công ty có thể tìm cho mình những bước thâm
nhập hiệu quả vào thị trường Nhật Bản.












24




Chương III:
bàI học kinh nghiệm và gợi ý đối với GILIMEX khi thâm nhập vào thị

trường Nhật Bản
3.1 BàI học kinh nghiệm:
3.1.1 Cần phải đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường
Các doanh nghiệp Việt Nam khi quyết định thâm nhập thị trường Nhật
Bản cần đánh giá rõ và đầy đủ những đặc điểm về nhu cầu tiêu dùng cũ
ng như
tập quán tiêu dùng của người Nhật Bản, như nghiên cứu ở phần thái độ của
người tiêu dùng Nhật Bản chúng ta thấy rằng người Nhật Bản rất khắt khe trong
việc đánh giá cũng như lựa chọn sản phẩm, khi người tiêu dùng đã thấy mình
mua được một hàng hoá không như ý, họ sẽ ngay lập tức chuyển sang mua sản
phẩm nhãn hiệu mới. Nếu có một vấ
n đề nào đó đối với sản phẩm sản xuất thì
người tiêu dùng Nhật Bản muốn được giải quyết ngay lập tức. Do đó các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung cần hết sức lưu ý và cần hơn hết là phải biết thật
nhiều những thông tin về người tiêu dung Nhật Bản đấy mới thực sự là tiền đề
để các doanh nghiệp Việt Nam có thể có được sự lư
u tâm của người tiêu dùng
Nhật Bản, đây là kinh nghiệm quan trọng đầu tiên mà các doanh nghiệp của Việt
Nam cần lưu tâm chú ý.
Mặt khác, người tiêu dùng Nhật Bản rất nhạy cảm với những thay đổi
theo mùa, người tiêu dùng muốn những hàng hoá có độ tin cậy và những dịch vụ
sau bán hàng giúp họ hài lòng. Do đó vấn đề rất đáng lưu tâm đối doanh nghiệp
Việt Nam đó là cần có những sự thay đổi thích ứng đúng đắn để có thể chiếm
được cảm tình cũng như sự chú ý của người tiêu dùng Nhật Bản. Qua đ
ây,
chúng ta rút ra được một bài học kinh nghiệm quí, đó là sẽ thực sự đầy đủ hơn
trong việc đánh giá các nhu cầu thị hiếu của thị trường Nhật nếu các doanh
nghiệp Việt Nam lưu tấm hơn nữa trong việc thay đổi linh hoạt và từng bước
thích ứng đối với thị hiếu thị trường Nhật Bản đồng thời tạo lập cho mình một

×