Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tài liệu Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên thế giới. ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.45 KB, 12 trang )








Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên thế giới




















Thực tế, mô hình tố tụng hình sự là sự thể hiện cách ứng xử của Nhà
nước đối với người bị tình nghi phạm tội, quyết định toàn bộ quy trình tố tụng
hướng tới sự tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tố tụng hay là sự bảo vệ


quyền lợi của công dân và nhiều nội dung quan trọng khác. Nội dung dưới
đây giới thiệu và phân tích cơ bản về hai mô hình tố tụng đặc trưng là mô
hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng hình sự công bằng
và sự đối sánh giữa chúng.
Trong tiến trình thực hiện chiến lược về cải cách tư pháp tại Việt Nam theo
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020, một trong những vấn đề quan trọng của chiến lược này là xác định hướng đi
đổi mới căn bản mô hình tố tụng hình sự, đảm bảo hơn nữa yếu tố công bằng trong
xét xử, tranh tụng, xây dựng những công cụ pháp lý bảo vệ cho công dân bị tình
nghi buộc tội… Do vậy, việc tìm hiểu các mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên
thế giới hiện nay là rất cần thiết đối với Việt Nam, từ đó, tìm ra những nguyên tắc
căn bản và nhân tố hợp lý áp dụng phù hợp.
Thực tế, mô hình tố tụng hình sự là sự thể hiện cách ứng xử của Nhà nước đối
với người bị tình nghi phạm tội, quyết định toàn bộ quy trình tố tụng hướng tới sự
tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tố tụng hay là sự bảo vệ quyền lợi của công dân
và nhiều nội dung quan trọng khác. Nội dung dưới đây giới thiệu và phân tích cơ
bản về hai mô hình tố tụng đặc trưng là mô hình tố tụng hình sự kiểm soát tội
phạm và mô hình tố tụng hình sự công bằng và sự đối sánh giữa chúng.
1. Một vụ án - hai quan niệm xử lý
Vụ án xảy ra tại Mỹ: Cảnh sát Williams nhìn thấy Peter Jones giật ví tiền
của cô Virginia Spry và bỏ chạy. Cảnh sát Williams đã đuổi theo, bắt được Jones
và tiến hành tra hỏi về vụ cướp. Jones thú nhận ngay hành vi phạm tội của mình và
với sự chứng thực của viên cảnh sát Williams, chúng ta có thể khẳng định là Jones
đã phạm tội. Nếu đối chiếu với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tình huống này
có thể dẫn tới việc buộc tội và kết án một cách nhanh chóng và dứt khoát đối Peter
Jones. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự Mỹ lại nhấn mạnh cách thức mà các
nhân viên nhà nước (ở đây là viên cảnh sát Williams) sử dụng quyền lực được nhà
nước giao cho mình để can thiệp vào cuộc sống của Peter Jones. Hành vi của viên
cảnh sát sẽ được rà soát lại để xem xét tính hợp pháp. Ví như, nếu xác định được
rằng, Jones thú tội mà không được nhắc nhở trước về “quyền được im lặng”[1] của

anh ta thì lời thú tội này sẽ không được sử dụng để chống lại chính anh ta. Mà khi
lời thú tội với tư cách là một bằng chứng đã không có giá trị, thì vụ án xét xử Jones
sẽ không thể buộc tội được anh ta hoặc bị bác bỏ. Theo pháp luật Mỹ, Jones không
“phạm tội về mặt pháp lý” đối với tội cướp ví tiền, vì pháp luật bảo vệ quyền được
im lặng của anh ta và như vậy, pháp luật bảo vệ tính hợp nhất của quá trình tố tụng
không được đưa vào áp dụng. Việc phạm tội thực tế có thể là hiển nhiên hay được
phát hiện một cách hợp pháp, nhưng việc phạm tội về mặt pháp lý lại được xác
định thông qua quá trình như đã mô tả.
Quy trình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ trong vụ án Peter Jones nói trên đã
làm không ít người ngạc nhiên, bởi vì, một thực tế hiển nhiên là cảnh sát Williams
đã “bắt tận tay day tận trán” đối với hành vi giật ví tiền của Peter Jones, nhưng khi
đưa ra xét xử thì toà án tuyên bố vô tội đối với Peter Jones chỉ vì lý do cảnh sát đã
không thông báo quyền được im lặng cho Jones.
Như vậy, nảy sinh một vấn đề tranh luận trong pháp luật tố tụng hình sự trên
thế giới: một mặt muốn nhấn mạnh việc trừng trị tội phạm (kiểm soát tội phạm),
một mặt muốn điều chỉnh hành vi của các nhân viên thừa hành pháp luật và đảm
bảo các quyền công dân. Thực ra, vấn đề tranh luận này xuất phát từ một nguyên
nhân sâu xa hơn, đó là sự cạnh tranh giữa những giá trị của của hai mô hình: Mô
hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm và Mô hình tố tụng hình sự công bằng.
Sự thực là hệ thống tố tụng hình sự nào cũng gặp phải một mâu thuẫn hay
một sức ép giữa một bên là những yêu cầu về giải quyết nhanh chóng và hiệu quả
các vụ án hình sự để đảm bảo sự ngăn ngừa các hành vi phạm tội, với một bên là
việc đảm bảo tính công bằng để bảo vệ các quyền lợi của công dân (khi người này
bị tình nghi là phạm tội). Bởi rằng, nếu chúng ta kích hoạt các yếu tố nhấn mạnh sự
ngăn ngừa tội phạm thì vô hình trung, hay một tất yếu xảy ra là những “rào chắn”
bảo vệ quyền lợi của công dân sẽ bị xâm hại; và ngược lại. Trên lý thuyết, có thể
phân biệt hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng nêu trên, vì dù các quốc gia thường
áp dụng mô hình hỗn hợp kết hợp giữa hai mô hình này, nhưng họ lại cũng thường
“ưu tiên” áp dụng một mô hình nhất định trong hai mô hình đó.
2. Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng

2.1. Mô hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm
Hệ thống giá trị của mô hình này kết luận rằng, việc trấn áp các hành vi
phạm tội là chức năng quan trọng nhất của tố tụng hình sự. Tính tối cao của chức
năng này là cần thiết để đảm bảo tự do cho mọi người và để các công dân được an
toàn về thân thể và tài sản. Tố tụng hình sự đảm bảo mục tiêu này bằng các hoạt
động có hiệu quả nhằm sàng lọc những người bị tình nghi, xác định tội phạm và áp
dụng các chế tài thích hợp đối với những người đã bị buộc tội.
Để được coi là hiệu quả, mô hình kiểm soát tội phạm này cần hoạt động tố
tụng được tiến hành nhanh chóng, dứt khoát và có tỷ lệ buộc tội cao. Có thể so
sánh mô hình này với một dây chuyền lắp ráp có một hệ thống băng chuyền chở
các vụ kiện chuyển động không ngừng và có các công nhân là những người bảo vệ
pháp luật trực tại các chốt, thực hiện các thao tác cụ thể để hướng các vụ kiện này
đi tới kết quả cuối cùng. Tốc độ chuyển động của băng chuyền phải ở mức độ cao
vì không có thủ tục nào mang tính hình thức làm cản trở hoạt động tố tụng và làm
chậm quá trình chuyển động tới đích của các vụ kiện. Tốc độ xử lý trong mô hình
này cũng cao vì các vụ kiện được xử lý theo các cách thức mang tính khuôn mẫu
và trùng lặp. Theo cách hiểu này, mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm có thể được
mô tả một cách thích hợp là một mô hình mang tính hành chính, hay gần như vậy.
Việc nhấn mạnh tính dứt khoát đồng nghĩa với việc giảm thiểu các cơ hội
cho những thách thức đối với tố tụng và kết quả của tố tụng. Sử dụng phép ẩn dụ
trên, chúng ta có thể chỉ ra những vấn đề có thể nảy sinh khi các công nhân của dây
chuyền lắp ráp cần phải được đặt dưới sự kiểm soát của các giám thị. Hậu quả làm
ngắt quãng dây chuyền sản xuất đã là tồi tệ, nhưng ta cứ thử hình dung hậu quả đối
với “tính dứt khoát” sẽ còn tối tệ đến mức nào, nếu một sản phẩm đã được kết thúc
cách đây vài tuần, thậm chí vài tháng lại bị trả lại cho những người công nhân của
dây chuyền. Tất nhiên phép ẩn dụ ở đây chỉ là một cách nói. Một quy trình tố tụng
hình sự hiệu quả nghĩa là khi vụ án được chuyển giai đoạn từ người bị hại, nhân
chứng tới cảnh sát, tới công tố viên, thẩm phán thì mỗi một “công nhân” đều phải
thực hiện công việc của mình một cách nhanh chóng mà không sợ bị phản bác về
sau này.

Một kết thúc thành công trong mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm là một
người bị bắt, nhưng không phạm tội, phải được giải thoát ngay từ giai đoạn đầu
của tố tụng, trong khi những người khác phải bị buộc tội một cách nhanh chóng và
chắc chắn. Thực tế, mô hình này đã sử dụng quan niệm “suy đoán có tội” để mô tả
xu hướng những người không được thả vì không chắc chắn là không phạm tội.
Nguyên lý suy đoán phạm tội là cần thiết cho mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm
vì nó cho phép hệ thống này xử lý một cách có hiệu quả một số lượng lớn các vụ
án. Mô hình này thể hiện sự tin tưởng vào quá trình sàng lọc của cảnh sát và công
tố viên khi họ quyết định thả những người bị tình nghi nhưng “hình như vô tội” và
duy trì các hoạt động chống lại những người “hình như có tội”. Nghĩa là, sau khi
đã có đủ bằng chứng buộc tội để có thể tiến hành các hoạt động tiếp theo, tất cả các
hành vi tiếp theo đó cần phải nhắm thẳng vào người bị tình nghi với quan niệm
rằng, họ chính là những người phạm tội.
Một điều cần đề cập trong phần phân tích về mô hình tố tụng kiểm soát tội
phạm là quá trình điều tra ban đầu của một vụ án là cực kỳ quan trọng. Các giai
đoạn tố tụng tiếp theo cần phải được thực hiện hết sức ngắn gọn, đơn giản thì mới
bảo đảm được tính nhanh chóng và dứt khoát của mô hình này.
2.2. Mô hình tố tụng hình sự công bằng
Nếu mô hình tố tụng công bằng được đưa vào thay thế cho dây chuyền lắp
ráp được vận hành bằng mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm, thì một trong những
thay đổi đầu tiên có thể sẽ là sự gia tăng về số lượng và mức độ thường xuyên của
các hành vi kiểm tra chất lượng trên dây chuyền. Sự nhanh chóng và dứt khoát vốn
được coi là mục tiêu của mô hình kiểm soát tội phạm, thì trong mô hình tố tụng
công bằng, chúng lại bị xem như sự lạm dụng quyền lực nhà nước, vì mô hình tố
tụng công bằng được xây dựng trên quan điểm tôn trọng các quyền cá nhân và hạn
chế quyền lực của các cơ quan và quan chức nhà nước. Mô hình tố tụng công bằng
nhấn mạnh một quy trình tìm kiếm bằng chứng nặng tính hình thức thông qua
tranh tụng. Nếu cho rằng quy trình tranh tụng của mô hình này là chậm chạp và
không dứt khoát thì cũng đúng: “Trước hết là vì hiệu quả trong việc đặt các cá
nhân đối mặt một cách công bằng với quyền lực ghê gớm của nhà nước mà quá

trình tố tụng trong mô hình này phải đặt dưới sự kiểm soát để tránh sự vận hành
với năng suất tối đa”.
Một trong những phương thức để thực thi những giá trị chống lại quyền lực
quá lớn của nhà nước là học thuyết có tội về mặt pháp lý. Có tội về mặt pháp lý
khác với có tội thực tế. Điều này có thể thấy qua ví dụ sau đây, mà từ ví dụ này,
khái niệm “cảnh báo Miranda” xuất hiện.
Chiều ngày 3/3/1963, một cô gái mười tám tuổi bị bắt cóc và bị cưỡng hiếp
tại Phoenix, bang Arizona, Hoa Kỳ. Mười ngày sau, cảnh sát đã bắt Ernesto
Miranda tại nhà, áp giải tới đồn và đặt người này vào hàng những người đứng để
được nhận dạng. Nạn nhân đã nhận ra Miranda ngay và tên này đã bị đưa vào
phòng riêng để thẩm vấn. Sau hai giờ thẩm vấn, Miranda đã ký giấy thú tội là hắn
đã bắt cô gái và hiếp cô ta. Tại phiên toà, luật sư của Miranda đã chỉ ra rằng, cảnh
sát đã không thông báo cho Miranda biết về quyền được có luật sư và quyền của
luật sư có mặt tại cuộc thẩm vấn (quy định này đã được xác lập bằng án lệ
Escobedo kiện bang Illinois năm 1964). Miranda vẫn bị toà án sơ thẩm kết án,
nhưng khi xét xử phúc thẩm, Toà án tối cao liên bang đã huỷ bản án sơ thẩm, bởi
vì bị cáo đã thú nhận với cảnh sát mà không được báo trước rằng, bị cáo có quyền
được từ chối việc tự kết tội mình hay quyền được im lặng (không khai báo) “không
ai phải tham gia vụ án hình sự với tư cách là người làm chứng để chống lại chính
mình”[2] và quyền có luật sư đại diện. Toà án đã đưa ra các biện pháp tố tụng cần
phải tuân thủ để những bằng chứng trong cuộc thẩm vấn được sử dụng chống lại
chính bị cáo; đó là, nếu cảnh sát muốn thẩm vấn người bị buộc tội khi bắt giữ
người đó thì bốn câu cảnh sát phải nói với người bị bắt giữ là: (1) Anh được quyền
giữ im lặng; (2) Bất kỳ câu nói nào của anh có thể và sẽ được sử dụng để chống lại
anh; (3) Anh có quyền trao đổi ý kiến với luật sư; (4) Nếu anh không mời luật sư
thì một luật sư sẽ được cử để đại diện cho anh.
Các biện pháp này sau đó được gọi là “cảnh báo Miranda”. Nói tóm lại,
một người bị cảnh sát bắt giữ và thẩm vấn phải được thông báo về các quyền của
mình trước khi bị thẩm vấn, thì những tuyên bố của cảnh sát chống lại anh ta mới
có giá trị. Việc bắt giữ của cảnh sát ở đây được hiểu là hạn chế tự do của một

người dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, nội dung trên có một ý nghĩa sâu xa
hơn, khi một người phạm tội trên thực tế nhưng nếu anh ta không được điều tra,
truy tố, xét xử theo đúng quy trình tố tụng thì về mặt pháp lý, anh ta có thể không
bị buộc tội.
3. Nhận định về hai mô hình tố tụng hình sự
Mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm cho rằng, tự do quan trọng tới mức mọi
hoạt động tố tụng đều phải hướng tới mục tiêu hạn chế tội phạm, trong khi mô hình
tố tụng công bằng lại cho rằng, tự do quan trọng tới mức mọi hoạt động tố tụng đều
cần phải đảm bảo rằng, các quyết định của toà án trong các vụ án hình sự phải
được dựa trên những thông tin đáng tin cậy. Cả hai mô hình đều có mục tiêu là tự
do xã hội. Một mô hình thì tìm cách đạt được mục tiêu đó bằng việc nhấn mạnh
một thủ tục tố tụng hiệu quả đối với người vi phạm, trong khi mô hình kia thì nhấn
mạnh việc hạn chế có hiệu quả sự can thiệp của nhà nước vào cuộc sống riêng tư
của công dân. Vậy ai là người tạo ra mối đe doạ can thiệp vào tự do của công dân
nhiều hơn? Mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm thì trả lời rằng, đó là tên tội phạm
xâm hại cá nhân và tài sản của mọi người. Câu trả lời của mô hình tố tụng công
bằng lại chỉ ra: đó chính là các nhân viên của nhà nước như cảnh sát và công tố
viên. Cả những tên tội phạm và những viên cảnh sát hay công tố viên đều có thể
xâm phạm tới quyền lợi của chúng ta, lấy đi tài sản và hạn chế sự tự do đi lại của
chúng ta. Nhưng tự do xã hội cần phải được hiểu là mỗi công dân tuân thủ pháp
luật phải được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý của cả hai đối tượng trên. Tuy nhiên,
dường như không thể đạt tới hai mục tiêu trên cùng một lúc. Mỗi mô hình đều
nhấn mạnh cái mà bên kia thiếu hụt, nhưng không thể vì thế mà có thể kết luận mô
hình nào tốt hơn mô hình nào.
4. So sánh hai mô hình tố tụng hình sự
Có một xu hướng cho rằng, các giá trị của mô hình tố tụng công bằng đối lập
với các giá trị của mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm. Nhận định này không đúng,
vì nó cho rằng mô hình tố tụng công bằng không quan tâm tới việc hạn chế tội
phạm. Thực ra, sự khác biệt có thể nhìn thấy rõ nhất lại chính là ở quy trình tố tụng
chứ không phải ở kết quả tố tụng. Để làm rõ nhận định này, chúng ta hãy xem bảng

so sánh giữa hai mô hình tố tụng và luận giải khái quát về sự so sánh này:


hình ki
ểm soát tội
phạm
Mô hình tố tụng công bằng
.
Cho r
ằng quyền tự do
của công dân quan trọng tới
mức, mọi cố gắng đều phải
hướng tới việc hạn chế tội
phạm
Cho r
ằng quyền tự do của công
dân quan trọng tới mức, mọi cố gắng
đều phải hướng tới việc đảm bảo sự can
thiệp của chính quyền vào quyền này
phải luôn tuân thủ pháp luật
.
Ra các quy
ết định dựa
trên các tình tiết phạm tội thực
tế
Ra các quy
ết định dựa tr
ên
nguyên lý phạm tội về mặt pháp lý
.

Tuân theo các quy t
ắc
nhấn mạnh việc hạn chế tội
phạm
Tuân theo quy t
ắc nhấn mạnh
mức độ can thiệp của chính quyền vào
đời sống công dân
.
Nh
ấn mạnh tính hiệu
quả của các hoạt động tố tụng
Nh
ấn mạnh tính hợp pháp trong
các hoạt động tố tụng
.
Yêu c
ầu có tỷ lệ buộc tội
cao thông qua tố tụng xét hỏi
và cho phép loại bỏ những
người dường như không phạm
Yêu c
ầu các hoạt động tố tụng
phải mang tính chính thức, tìm kiếm
bằng chứng thông qua tranh tụng, mặc
dù những yêu cầu này có thể hạn chế
t
ội ra khỏi quá tr
ình t
ố tụng

ngay từ đầu
hi
ệu quả tối đa của hoạt động tố tụng

Thứ nhất, mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm đặt nhiệm vụ quan trọng là
phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những công dân luôn tuân thủ pháp luật
tránh khỏi sự xâm phạm của những hành vi phạm tội; mô hình tố tụng công bằng
lại đặt nhiệm vụ quan trọng là bảo đảm các quyền của người bị tình nghi tránh tối
đa sự xâm phạm từ phía cơ quan công quyền. Từ nội dung này, chúng ta không nên
hiểu rằng, mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm để đạt được mục tiêu của mình thì
phải tăng tỷ lệ buộc tội lên cao, còn mô hình tố tụng công bằng thì ngược lại. Thực
ra, cả hai mô hình đều có mục đích cơ bản là tìm ra sự thật và mỗi mô hình đều
hoạt động theo nguyên tắc người có tội phải bị trừng phạt, người vô tội phải được
tự do. Điều khác biệt của hai mô hình trong nội dung này chỉ là sự nhấn mạnh hay
thiên lệch về nhiệm vụ do từng mô hình đặt ra.
Thứ hai, để giải thích nội dung này, chúng ta quay trở lại vụ án Perter Jones
đã nêu ở trên. Jones không phạm tội về mặt pháp lý theo mô hình tố tụng công
bằng và phạm tội hiển nhiên theo mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm. Điều này
dẫn đến một khác biệt là mô hình tố tụng công bằng quá quan tâm tới cách thức xử
lý người bị tình nghi, mà đôi khi bỏ qua cả việc xác định liệu thực tế tội phạm có
xảy ra không và liệu người bị tình nghi có thực sự là người phạm tội hay không,
khi tính pháp lý của quy trình tố tụng không được đảm bảo; còn mô hình tố tụng
kiểm soát tội phạm chỉ cần xác định thực sự người tình nghi tiến hành hành vi
phạm tội thì một bản án kết tội chắc chắn sẽ được tuyên cho người phạm tội.
Lưu ý, không phải mô hình tố tụng công bằng đã mở đường cho người phạm
tội thoát tội trong một số trường hợp, mà thực chất ở đây, pháp luật hướng tới một
mục tiêu lớn hơn là mọi công dân phải được xử lý theo một quy trình tố tụng đúng
luật và công bằng (như nhau), đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Thứ ba, một câu hỏi được đặt ra là: ai là người tạo ra mối đe doạ can thiệp

vào quyền và lợi ích của công dân nhiều hơn - người phạm tội hay cơ quan công
quyền? Mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm thì trả lời rằng, đó là tên tội phạm xâm
hại cá nhân và tài sản của mọi người. Câu trả lời của mô hình tố tụng công bằng lại
là: đó chính là các nhân viên của nhà nước như cảnh sát và công tố viên. Bởi vậy,
hai mô hình đều xây dựng và tuân theo những quy tắc nhất định để hạn chế những
sự xâm hại mà hai mô hình xác định.
Thứ tư, tính hiệu quả của mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm trong nội dung
này không đồng nhất với tính chính xác, mà là việc quá trình tố tụng được tiến
hành nhanh chóng, dứt khoát và có tỷ lệ buộc tội cao. Tính hợp pháp trong tố tụng
hình sự của mô hình tố tụng công bằng chính là việc đảm bảo quy trình tố tụng
phải được tiến hành đúng theo những trình tự pháp luật quy định và công bằng đối
với mọi công dân;
Thứ năm, thực ra vấn đề này đề cập đến giai đoạn xét xử tại toà, mô hình tố
tụng kiểm soát tội phạm cho rằng, việc xác định ai có tội, ai không có tội gần như
được định đoạt ngay sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, việc xét xử chỉ mang tính
công khai hay tiếp tục quá trình điều tra, nên tỷ lệ buộc tội tại toà rất cao (những
người dường như không phạm tội đã được loại bỏ từ giai đoạn điều tra). Trong khi
đó, mô hình tố tụng công bằng cho rằng, vấn đề chỉ được quyết định tại toà án sau
khi trải qua một quy trình tranh tụng công khai các bằng chứng và tranh luận giữa
hai bên gỡ tội và buộc tội.

Trên đây là sự khác biệt giữa hai mô hình tố tụng, và sự khác biệt này dựa
trên sự nhấn mạnh những yếu tố nhất định của quy trình tố tụng hình sự theo mục
tiêu của từng mô hình đặt ra. Lưu ý, sự nhấn mạnh này không phải sự thiên lệch
hoàn toàn, không phải bỏ rơi các yếu tố đối lập khác; mô hình tố tụng công bằng
“ra các quyết định dựa trên nguyên lý phạm tội về mặt luật pháp” thì không phải
không chú trọng đến việc “ra các quyết định dựa trên các tình tiết phạm tội thực
tế”. Sự nhấn mạnh ở đây cần được hiểu là nhằm đảm bảo mô hình tố tụng được
vận hành một cách tốt nhất; giả dụ việc bảo đảm sự can thiệp của chính quyền vào
các quyền của công dân theo đúng pháp luật là yếu tố không thể thiếu trong việc

vận hành mô hình tố tụng công bằng. /.

[1] Theo “Cảnh báo Miranda”, pháp luật Mỹ quy định, nếu cảnh sát muốn
thẩm vấn người bị buộc tội khi bắt giữ người đó thì bốn câu cảnh sát phải nói với
người bị bắt giữ là: (1) Anh được quyền giữ im lặng; (2) Bất kỳ câu nói nào của
anh có thể và sẽ được sử dụng để chống lại anh; (3) Anh có quyền trao đổi ý kiến
với luật sư; (4) Nếu anh không mời luật sư thì một luật sư sẽ được cử để đại diện
cho anh.
[2] Điều bổ sung thứ 5 Hiến pháp Hoa Kỳ.

×