Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.16 KB, 11 trang )

Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên thế giới
20:9' 9/12/2009
Thực tế, mô hình tố tụng hình sự là sự thể hiện cách ứng xử của Nhà
nước đối với người bị tình nghi phạm tội, quyết định toàn bộ quy trình tố tụng
hướng tới sự tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tố tụng hay là sự bảo vệ
quyền lợi của công dân và nhiều nội dung quan trọng khác. Nội dung dưới
đây giới thiệu và phân tích cơ bản về hai mô hình tố tụng đặc trưng là mô
hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng hình sự công bằng
và sự đối sánh giữa chúng.
Trong tiến trình thực hiện chiến lược về cải cách tư pháp tại Việt Nam theo
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020, một trong những vấn đề quan trọng của chiến lược này là xác định hướng đi
đổi mới căn bản mô hình tố tụng hình sự, đảm bảo hơn nữa yếu tố công bằng trong
xét xử, tranh tụng, xây dựng những công cụ pháp lý bảo vệ cho công dân bị tình
nghi buộc tội… Do vậy, việc tìm hiểu các mô hình tố tụng hình sự đặc trưng trên
thế giới hiện nay là rất cần thiết đối với Việt Nam, từ đó, tìm ra những nguyên tắc
căn bản và nhân tố hợp lý áp dụng phù hợp.
Thực tế, mô hình tố tụng hình sự là sự thể hiện cách ứng xử của Nhà nước đối
với người bị tình nghi phạm tội, quyết định toàn bộ quy trình tố tụng hướng tới sự
tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tố tụng hay là sự bảo vệ quyền lợi của công dân
và nhiều nội dung quan trọng khác. Nội dung dưới đây giới thiệu và phân tích cơ
bản về hai mô hình tố tụng đặc trưng là mô hình tố tụng hình sự kiểm soát tội
phạm và mô hình tố tụng hình sự công bằng và sự đối sánh giữa chúng.
1. Một vụ án - hai quan niệm xử lý
Vụ án xảy ra tại Mỹ: Cảnh sát Williams nhìn thấy Peter Jones giật ví tiền của
cô Virginia Spry và bỏ chạy. Cảnh sát Williams đã đuổi theo, bắt được Jones và
tiến hành tra hỏi về vụ cướp. Jones thú nhận ngay hành vi phạm tội của mình và
với sự chứng thực của viên cảnh sát Williams, chúng ta có thể khẳng định là Jones
đã phạm tội. Nếu đối chiếu với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tình huống này
có thể dẫn tới việc buộc tội và kết án một cách nhanh chóng và dứt khoát đối Peter
Jones. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự Mỹ lại nhấn mạnh cách thức mà các


nhân viên nhà nước (ở đây là viên cảnh sát Williams) sử dụng quyền lực được nhà
nước giao cho mình để can thiệp vào cuộc sống của Peter Jones. Hành vi của viên
cảnh sát sẽ được rà soát lại để xem xét tính hợp pháp. Ví như, nếu xác định được
rằng, Jones thú tội mà không được nhắc nhở trước về “quyền được im lặng”[1] của
anh ta thì lời thú tội này sẽ không được sử dụng để chống lại chính anh ta. Mà khi
lời thú tội với tư cách là một bằng chứng đã không có giá trị, thì vụ án xét xử Jones
sẽ không thể buộc tội được anh ta hoặc bị bác bỏ. Theo pháp luật Mỹ, Jones không
“phạm tội về mặt pháp lý” đối với tội cướp ví tiền, vì pháp luật bảo vệ quyền được
im lặng của anh ta và như vậy, pháp luật bảo vệ tính hợp nhất của quá trình tố tụng
không được đưa vào áp dụng. Việc phạm tội thực tế có thể là hiển nhiên hay được
phát hiện một cách hợp pháp, nhưng việc phạm tội về mặt pháp lý lại được xác
định thông qua quá trình như đã mô tả.
Quy trình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ trong vụ án Peter Jones nói trên đã
làm không ít người ngạc nhiên, bởi vì, một thực tế hiển nhiên là cảnh sát Williams
đã “bắt tận tay day tận trán” đối với hành vi giật ví tiền của Peter Jones, nhưng khi
đưa ra xét xử thì toà án tuyên bố vô tội đối với Peter Jones chỉ vì lý do cảnh sát đã
không thông báo quyền được im lặng cho Jones.
Như vậy, nảy sinh một vấn đề tranh luận trong pháp luật tố tụng hình sự trên
thế giới: một mặt muốn nhấn mạnh việc trừng trị tội phạm (kiểm soát tội phạm),
một mặt muốn điều chỉnh hành vi của các nhân viên thừa hành pháp luật và đảm
bảo các quyền công dân. Thực ra, vấn đề tranh luận này xuất phát từ một nguyên
nhân sâu xa hơn, đó là sự cạnh tranh giữa những giá trị của của hai mô hình: Mô
hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm và Mô hình tố tụng hình sự công bằng.
Sự thực là hệ thống tố tụng hình sự nào cũng gặp phải một mâu thuẫn hay
một sức ép giữa một bên là những yêu cầu về giải quyết nhanh chóng và hiệu quả
các vụ án hình sự để đảm bảo sự ngăn ngừa các hành vi phạm tội, với một bên là
việc đảm bảo tính công bằng để bảo vệ các quyền lợi của công dân (khi người này
bị tình nghi là phạm tội). Bởi rằng, nếu chúng ta kích hoạt các yếu tố nhấn mạnh sự
ngăn ngừa tội phạm thì vô hình trung, hay một tất yếu xảy ra là những “rào chắn”
bảo vệ quyền lợi của công dân sẽ bị xâm hại; và ngược lại. Trên lý thuyết, có thể

phân biệt hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng nêu trên, vì dù các quốc gia thường
áp dụng mô hình hỗn hợp kết hợp giữa hai mô hình này, nhưng họ lại cũng thường
“ưu tiên” áp dụng một mô hình nhất định trong hai mô hình đó.
2. Hai mô hình tố tụng hình sự đặc trưng
2.1. Mô hình tố tụng hình sự kiểm soát tội phạm
Hệ thống giá trị của mô hình này kết luận rằng, việc trấn áp các hành vi
phạm tội là chức năng quan trọng nhất của tố tụng hình sự. Tính tối cao của chức
năng này là cần thiết để đảm bảo tự do cho mọi người và để các công dân được an
toàn về thân thể và tài sản. Tố tụng hình sự đảm bảo mục tiêu này bằng các hoạt
động có hiệu quả nhằm sàng lọc những người bị tình nghi, xác định tội phạm và áp
dụng các chế tài thích hợp đối với những người đã bị buộc tội.
Để được coi là hiệu quả, mô hình kiểm soát tội phạm này cần hoạt động tố
tụng được tiến hành nhanh chóng, dứt khoát và có tỷ lệ buộc tội cao. Có thể so
sánh mô hình này với một dây chuyền lắp ráp có một hệ thống băng chuyền chở
các vụ kiện chuyển động không ngừng và có các công nhân là những người bảo vệ
pháp luật trực tại các chốt, thực hiện các thao tác cụ thể để hướng các vụ kiện này
đi tới kết quả cuối cùng. Tốc độ chuyển động của băng chuyền phải ở mức độ cao
vì không có thủ tục nào mang tính hình thức làm cản trở hoạt động tố tụng và làm
chậm quá trình chuyển động tới đích của các vụ kiện. Tốc độ xử lý trong mô hình
này cũng cao vì các vụ kiện được xử lý theo các cách thức mang tính khuôn mẫu
và trùng lặp. Theo cách hiểu này, mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm có thể được
mô tả một cách thích hợp là một mô hình mang tính hành chính, hay gần như vậy.
Việc nhấn mạnh tính dứt khoát đồng nghĩa với việc giảm thiểu các cơ hội
cho những thách thức đối với tố tụng và kết quả của tố tụng. Sử dụng phép ẩn dụ
trên, chúng ta có thể chỉ ra những vấn đề có thể nảy sinh khi các công nhân của dây
chuyền lắp ráp cần phải được đặt dưới sự kiểm soát của các giám thị. Hậu quả làm
ngắt quãng dây chuyền sản xuất đã là tồi tệ, nhưng ta cứ thử hình dung hậu quả đối
với “tính dứt khoát” sẽ còn tối tệ đến mức nào, nếu một sản phẩm đã được kết thúc
cách đây vài tuần, thậm chí vài tháng lại bị trả lại cho những người công nhân của
dây chuyền. Tất nhiên phép ẩn dụ ở đây chỉ là một cách nói. Một quy trình tố tụng

hình sự hiệu quả nghĩa là khi vụ án được chuyển giai đoạn từ người bị hại, nhân
chứng tới cảnh sát, tới công tố viên, thẩm phán thì mỗi một “công nhân” đều phải
thực hiện công việc của mình một cách nhanh chóng mà không sợ bị phản bác về
sau này.
Một kết thúc thành công trong mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm là một
người bị bắt, nhưng không phạm tội, phải được giải thoát ngay từ giai đoạn đầu
của tố tụng, trong khi những người khác phải bị buộc tội một cách nhanh chóng và
chắc chắn. Thực tế, mô hình này đã sử dụng quan niệm “suy đoán có tội” để mô tả
xu hướng những người không được thả vì không chắc chắn là không phạm tội.
Nguyên lý suy đoán phạm tội là cần thiết cho mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm
vì nó cho phép hệ thống này xử lý một cách có hiệu quả một số lượng lớn các vụ
án. Mô hình này thể hiện sự tin tưởng vào quá trình sàng lọc của cảnh sát và công
tố viên khi họ quyết định thả những người bị tình nghi nhưng “hình như vô tội” và
duy trì các hoạt động chống lại những người “hình như có tội”. Nghĩa là, sau khi
đã có đủ bằng chứng buộc tội để có thể tiến hành các hoạt động tiếp theo, tất cả các
hành vi tiếp theo đó cần phải nhắm thẳng vào người bị tình nghi với quan niệm
rằng, họ chính là những người phạm tội.
Một điều cần đề cập trong phần phân tích về mô hình tố tụng kiểm soát tội
phạm là quá trình điều tra ban đầu của một vụ án là cực kỳ quan trọng. Các giai
đoạn tố tụng tiếp theo cần phải được thực hiện hết sức ngắn gọn, đơn giản thì mới
bảo đảm được tính nhanh chóng và dứt khoát của mô hình này.
2.2. Mô hình tố tụng hình sự công bằng
Nếu mô hình tố tụng công bằng được đưa vào thay thế cho dây chuyền lắp
ráp được vận hành bằng mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm, thì một trong những
thay đổi đầu tiên có thể sẽ là sự gia tăng về số lượng và mức độ thường xuyên của
các hành vi kiểm tra chất lượng trên dây chuyền. Sự nhanh chóng và dứt khoát vốn
được coi là mục tiêu của mô hình kiểm soát tội phạm, thì trong mô hình tố tụng
công bằng, chúng lại bị xem như sự lạm dụng quyền lực nhà nước, vì mô hình tố
tụng công bằng được xây dựng trên quan điểm tôn trọng các quyền cá nhân và hạn
chế quyền lực của các cơ quan và quan chức nhà nước. Mô hình tố tụng công bằng

nhấn mạnh một quy trình tìm kiếm bằng chứng nặng tính hình thức thông qua
tranh tụng. Nếu cho rằng quy trình tranh tụng của mô hình này là chậm chạp và
không dứt khoát thì cũng đúng: “Trước hết là vì hiệu quả trong việc đặt các cá
nhân đối mặt một cách công bằng với quyền lực ghê gớm của nhà nước mà quá
trình tố tụng trong mô hình này phải đặt dưới sự kiểm soát để tránh sự vận hành
với năng suất tối đa”.

×