Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thống việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.68 KB, 24 trang )


0
z

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM













TIỂU LUẬN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ĐƯỜNG
BÁNH KẸO



Chuyên đề: Công nghệ sản xuất một số loại kẹo
truyền thống Việt Nam








GVHD : Hồ Xuân Hương
SVTH : Vũ Thị Hiền
Phạm Thị Tuyết Nhung
Nguyễn Quỳnh Như
Phạm Văn Quí
Lớp : ĐHTP5LT




TP.HCM – 2011



Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra
lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa
lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền.
Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú,
đa dạng.
Trong đó, kẹo là món ăn chơi nhưng cũng rất đa dạng, nhiều loại kẹo sản xuất thủ công
đã trở thành đặc sản các vùng miền của đất nước như kẹo cu đơ, kẹo sầu riêng, kẹo dừa, kẹo
mè xửng v.v. Trước đây, các món kẹo truyền thống này được chế biến chủ yếu bằng phương

pháp thủ công trong gia đình, tuy không có hình thức đẹp mắt, màu sắc rực rỡ và nổi bật như
những loại bánh kẹo thực hiện trong công nghiệp; nhưng có hương vị đậm đà đặc biệt của các
loại nguyên liệu thiên nhiên. Ngày nay có nhiều cơ sở sản xuất bánh và cả những công ty sản
xuất bánh mứt kẹo cổ truyền có quy mô lớn không chỉ đáp ứng về mặt thẩm mỹ mà còn đảm
bảo được về chất lượng. Sản phẩm được tiêu thụ rộng rãi khắp nơi trên toàn quốc và vươn xa
hơn trên thị trường quốc tế, để khắp nơi trên thế giới có cơ hội tiếp cận nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận môn học, chúng em xin giới thiệu một số loại kẹo
truyền thống nổi tiếng của Việt Nam đã được thế giới biết đến: kẹo mè xửng, kẹo chuối, kẹo
dừa, kẹo lạc.
Vì thời gian và kiến thức có hạn nên bài tiểu luận vẫn còn nhiều hạn chế và sai xót. Kính
mong cô góp ý để chúng em có thể hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.











Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 2
1. Tổng quan nguyên liệu
1.1. Đường
Đường saccharose còn gọi là đường kính trắng có công thức hoá học là C

12
H
22
O
11
, có vị
ngọt, tan trong nước. Khi hoà tan trong nước tạo ra áp suất thẩm thấu, nồng độ càng cao thì áp
suất thẩm thấu càng lớn có tác dụng ức chế các vi sinh vật phát triển. Khả năng ức chế các vi
sinh vật của đường còn do nó tạo ra nồng độ chất khô cao, giảm lượng nước và lượng oxi hoà
tan trong dung dịch.
Tiêu chuẩn của đường trắng thể hiện ở bảng sau:
Tiêu chuẩn của đường trắng
Chỉ tiêu
Đường kính
thượng hạng
Đường kính
loại I
Hàm lượng đường saccharose (% chất
khô không nhỏ hơn).
99,75 99,62
Độ ẩm (% chất khô không lớn hơn).
0,05 0,07
Hàm lượng đường khử (% chất khô
không lớn hơn).
0,05 0,10
Hàm lượng tro (% chất khô không lớn
hơn).
0,05 0,07
Khi xử lý đường ở nhiệt độ trên 120
o

C sẽ xảy ra phản ứng caramel, đường bị nhiệt phân
thành nhiều sản phẩm phân hủy khác nhau, chúng có phân tử lớn, màu sậm được gọi là
caramel. Phản ứng này được xúc tác bằng acid (pH=2 - 4) hay bazơ (pH=9 - 10), và cũng có
thể xúc tác bằng muối amonium. Người ta đã phát hiện một số chất có khả năng sinh ung thư
hay các độc tố kích thích thần kinh trong thành phần của sản phẩm caramel (chủ yếu là 4-
methylimidazole và các hợp chất có liên quan).
Ngoài ra, đường còn có khả năng tương tác với các hợp chất amino để tạo nên phản ứng
melanoidin (còn gọi là phản ứng maillard). Sản phẩm của phản ứng này là một hỗn hợp các
chất có kích thước phân tử khác nhau, chúng tạo ra màu từ vàng đến nâu, có khả năng chống
oxi hoá bảo vệ được chất béo. Phản ứng này xảy ra mạnh ở môi trường kiềm (mạnh nhất ở
pH=9 - 10), khi độ hoạt động của nước bằng 0,7 thì phản ứng xảy ra mạnh nhất (tương ứng
với thực phẩm có 40 - 70% ẩm).
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 3
Trong công nghệ thực phẩm, người ta thường sử dụng đường để tạo màu, tạo mùi, tạo
vị, tạo đông và để bảo quản sản phẩm.
1.2. Mạch nha
Mạch nha là một chất đường lấy từ gạo nếp. Người ta thường dùng mộng lúa để làm
mạch nha (tên mạch nha có nghĩa là mộng lúa). Mạch nha có đặc tính ngọt thanh và dịu, ăn
nhiều không thấy gắt, cái dẻo của mạch nha cũng khác đường non, cầm thố hay lon đựng
mạch nha nghiêng qua một bên thấy mạch nha không đổ dồn, sờ không dính tay, ăn có chứa
nhiều sinh tố vì dùng toàn mộng lúa pha với mộng nếp hay toàn mộng nếp thay vì mộng lúa,
nên mạch nha có thể để lâu mà vẫn giữ nguyên mùi vị thơm ngon, dễ bảo quản.
Quy trình sản xuất mạch nha gồm 3 giai đoạn chính:
1) Ngâm lúa thành mộng
2) Nấu, ép và lọc
3) Giai đoạn "cô", giai đoạn cuối cùng, quyết định chất lượng của mạch nha. Mạch nha
đặc hay lỏng, ngon hay dở, để lâu được hay không phần lớn phụ thuộc kỹ thuật "cô".

Sau khi ép lấy nước xong, người ta dùng nồi (đã lau thật sạch) đổ nước đã ép và lọc vào
nồi bắc lên lò đun lửa cho thật to, vừa đun vừa canh chừng tới khi mạch nha vích lên thấy bọt
như tổ ong liền bớt lửa, chỉ để than và khuấy đũa xem chừng.
Công việc này tùy theo kinh nghiệm của từng người thợ, nhưng trên nguyên tắc chung
thì khi thấy mạch nha vích lên có tơ bay hoặc nhỏ trong nước, lấy tay bóp không chảy rơi
xuống là mạch nha đã đúng độ kết thành. Sau đó cho vào bao bì (lon), dán nhãn hiệu.
Mạch nha có thể là sản phẩm hoàn chỉnh (kẹo mạch nha), nhưng cũng nguyên liệu chính
cho một số loại kẹo khác như kẹo dừa đặc sản.










Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 4
Quy trình sản xuất mạch nha



















2. Công nghệ sản xuất
2.1. Kẹo mè xửng

2.1.1. Giới thiệu
Mè xửng là sản phẩm truyền thống của cố đô Huế. Bản chất thanh lịch, cần cù, khéo léo
của người dân Kinh kỳ đã tạo nên loại kẹo nức tiếng thiên hạ này bằng những nguyên vật liệu
quen thuộc của vùng đất miền Trung. Mè (vừng) và xửng (cách hoán đường) hợp thành tên
Thóc
n
ếp

Ngâm thành mộng
Phơi khô
Giã thành bột
m
ầm
Nấu
Nếp đã xôi
Ép, lọc

Cô đặc
M
ạch nha


Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 5
kẹo. Ngoài vừng còn có bột đậu, mạch nha, bánh đa nữa. Hoán đường cộng với gia giảm
nguyên vật liệu là khâu quan trọng nhất. Nó làm nên các loại mè xửng khác nhau. Mè xửng
dẻo, dẻo đến mức có thể cuộn tròn hoặc bẻ gập thanh kẹo, nhưng bỏ tay ra nó lại trở về cái thế
ban đầu. Mè xửng giòn, thành phần bột đậu nhiều hơn, đường ít hơn, được bọc ngoài một lớp
bánh đa nướng, ăn giòn tan trong miệng. Mè xửng gương, giơ lên ngắm thấy trong suốt như
gương. Mè xửng đen gồm toàn vừng đen bùi và bổ…
Người xứ Huế có thói quen phong nhã: uống trà sen (ướp bằng sen ở hồ Tĩnh Tâm)
và nhâm nhi thanh mè xửng, vừa thưởng thức vừa ngẫm nghĩ, hoặc vừa thưởng thức vừa đọc
sách. Một nét văn hóa rất Huế. Có thể nói, mè xửng đã trở thành một trong những biểu tượng
văn hóa Huế.
Ngày nay, ở thành phố Huế có hàng chục cơ sở sản xuất mè xửng: Song Hỷ, Thiên
Hương, Thông Hương, Thanh Bình, Song Nhân, Nam Thuận, Hồng Thuận… Công ty mè
xửng Thiên Hương do nữ doanh nhân Hồ Thị Hoa đảm nhiệm và cơ sở sản xuất Thông
Hương được nhiều người biết đến do quyết tâm giữ vững nghề truyền thống của gia đình và
mạnh dạn đổi mới phương pháp sản xuất, đổi mới mẫu mã, tạo cho mè xửng của cơ sở mình
có một hương vị riêng.
2.1.2. Nguyên liệu
Bột gạo, (bột sắn tinh), đường, lạc, vừng. Trước đây người ta sản xuất kẹo mè xửng từ
tinh bột sắn, hiện nay đã thay thế hoàn toàn bằng bột gạo chất lượng tốt. Có hai loại mè xửng
chính là mè xửng dai và mè xửng dòn (bằng cách đổ kẹo lên bánh tráng nướng rồi gập lại
giống như kẹo cu đơ của vùng Bắc Trung bộ (Nghệ an, Hà Tĩnh).











Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 6
2.1.3. Quy trình sản xuất



























2.1.4. Thuyết minh quy trình
Hồ hóa
Hồ hóa nhằm mục đích làm bột trương nở hoàn toàn, tránh hiện tượng lại bột trong quá
trình bảo quản kẹo.
Cho acid (l
ần 3)

Cho acid (l
ần 2)

Cho acid (l
ần 1)

Đư
ờng kính

Tinh b
ột


Ngâm
Trộn đều
Nấu kẹo(15 phút sau khi sôi)
Nấu đến 125
0
C
Trộn mè, đậu phộng
Làm nguội
Tạo hình
Bao gói
Lọc
Hồ hóa
Hòa tan
Lọc
Làm nguội(60
0
C)
Mè x
ửng

Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 7
Trước tiên tinh bột được hòa với nước trong thời gian 30-60 phút, sau đó lọc qua rây để
loại bỏ bột thô, xơ, cát, sạn…Gia nhiệt dịch tinh bột ở 60°C trong 20 phút, khi gia nhiệt được
5 phút thì bổ sung acid citric (khoảng 1/4 lượng acid trong công thức chế biến) để cắt đứt
mạch tinh bột, chuyển tinh bột sang dạng Dextrin.
Lọc đường
Nhằm giữ lại những cục đường to chưa tan hết, loại bỏ tạp chất lẫn trong đường và

Glucose để thu được nước đường tinh khiết. Sau khi lọc phải làm nguội nước đường trước khi
cho vào nồi nấu để tránh làm chín bột.
Nấu kẹo
Mục đích: làm cho nước đường và dịch tinh bột trở thành hỗn hợp đồng nhất có độ dẻo
dai nhất định.
Công đoạn nấu kẹo có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ lúc cho nước đường vào nấu với dịch tinh bột đến khi cho acid lần thứ 2
(khoảng 50% lượng acid trong công thức chế biến).
Giai đoạn 2: Tiếp tục làm bốc hơi dung dịch kẹo và bổ sung acid lần 3 (lượng acid còn
lại) để làm phá vỡ những phân tử nước cứng, kẹo có độ dẻo dai thích hợp, màu sắc sáng và
trong.
Giai đoạn 3: Sau khi bổ sung acid lần 3 khoảng 15 phút, ta cho mè, đậu phộng vào trộn
đều.
Kết thúc quá trình nấu, nhiệt độ khối kẹo vào khoảng 126-127°C.
Làm nguội
Kẹo được đổ ra và dàn đều trên các khay đã được chuẩn bị sẵn, chiều dày lớp kẹo
khoảng 1cm. Sau đó rắc lên mặt kẹo một lớp mè mỏng, làm nguội 30 phút trước khi tạo hình.
Tạo hình
Những miếng kẹo lấy ra từ khay được đưa đến máy cắt dọc và máy cắt ngang thành
những mảnh nhỏ có kích thước tùy theo yêu cầu.
Bao gói
Kẹo được gói bằng 2 lớp giấy, bên trong là lớp giấy tinh bột, bên ngoài là lớp giấy bóng
kính.



Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 8

2.2. Kẹo dừa
2.2.1. Giới thiệu

Kẹo dừa Bến Tre vừa là một đặc sản ẩm thực, vừa là một nghề thủ công truyền thống
mang đậm văn hóa xứ sở. Đất nước ta có nhiều vùng trồng dừa nhưng Bến Tre chính là nơi ra
đời và phát triển nghệ thuật chế biến kẹo dừa. Các nghệ nhân ẩm thực Bến Tre đã không
ngừng kế thừa nghệ thuật làm kẹo dân gian này để nâng lên thành một ngành hàng chủ lực
đem lại lợi ích kinh tế và quảng bá văn hóa ẩm thực Bến Tre trong và ngoài nước.
Ngày xưa người Bến Tre làm kẹo dừa để ăn trong gia đình hay để biếu bè bạn, người
thân trong những dịp lễ tết. Sau đó, nghệ thuật làm kẹo dừa đã không ngừng được cải tiến và
đã trở thành một sản phẩm truyền thống đặc biệt của Bến Tre.
Kẹo dừa Bến Tre có nguồn gốc từ huyện Mỏ Cày. Theo các tư liệu sưu tầm được thì
người đầu tiên làm ra kẹo là bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1914, cư ngụ tại khu phố 1, thị
trấn Mỏ Cày. Kẹo dừa lúc đó có tên là kẹo Mỏ Cày. Vào năm 1970, bà Nguyễn Thị Vinh,
sinh năm 1945, cư ngụ tại thị xả Bến Tre, thay đổi mới cách chế biến kẹo. Bà thành lập cơ sở
sản xuất kẹo dừa Thanh Long, cơ sở đầu tiên ở thị xã Bến Tre, và từ đó tạo ra tên kẹo dừa Bến
Tre.
Từ nguồn nguyên liệu dừa rất phong phú của Bến Tre, cộng thêm tài khéo léo của người
chế biến, người xứ dừa đã biết tăng thêm giá trị văn hóa, giá trị của lao động thủ công truyền
thống vào sản phẩm để làm cho trái dừa không chỉ là nguồn nguyên liệu thô mà nó đã được
nâng giá trị lên nhiều lần. Ở đây yếu tố văn hóa trong sản phẩm thủ công đã làm nên giá trị
kinh tế, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân xứ dừa. Mặt khác, chính nhờ
có sự phát triển kinh tế như vậy mà nghệ thuật thủ công truyền thống lại được trân trọng, gìn
giữ và không ngừng phát triển.


Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 9

2.2.2. Nguyên liệu
Nguyên liệu làm kẹo dừa gồm: nước cốt dừa, mạch nha, đường (trước kia người ta dùng
đường thùng nhưng ngày nay dùng đường cát). Mạch nha được chắt lọc từ chất đường của hạt
nếp khi được ủ cho lên mầm.
Dừa: Dừa dùng làm kẹo dừa phải là dừa khô, loại dừa bên trong còn rất ít và hầu như
không còn nước dừa, cơm dừa phải dầy, có độ béo cao và màu trắng, không lên mọng dừa hay
bị "trăng ăn". Dừa khô lựa trái "rám vàng" mới vừa hái xuống. Vì trái dừa mới bắt đầu khô
này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh.
2.2.3. Quy trình sản xuất























Xay cơm dừa
Dừa khô
Ép lấy nước cốt

Phối trộn

Sên

Vô khuôn, làm khô

Cắt kẹo

Gói kẹo

Kẹo dừa

Đường Mạch nha
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 10
2.2.4. Thuyết minh quy trình
Ép lấy nước cốt dừa
Dừa khô được lột vỏ, lấy phần cơm dừa cho vào máy xay nhỏ. Cho tất cả cơm dừa xay
nhuyễn vào một cái bao và dùng máy ép lấy nước cốt dừa.

Phối trộn
Phần nước cốt dừa sau khi ép ra được phối trộn với mạch nha, đường. Có thể cho thêm
nguyên liệu phụ vào như: sầu riêng, lá dứa, sôcôla, dâu… để làm hương vị phong phú thêm.

Sên kẹo
Cho tất cả phần đã phối trộn vào một cái chảo rồi cho lên bếp, khuấy liên tục đều tay.
Ngày xưa, khi làm kẹo dừa, người dân Nam Bộ phải dùng tay khuấy liên tục bên bếp lửa, nếu
không khuấy, phần nước dừa khi sên sẽ đặc lại và “chết”. Ngày nay, máy móc đã hỗ trợ trong
khâu này nhưng phần giữ lửa cho phần sên kẹo cũng rất công phu, vì lửa lớn sên kẹo sẽ khó
khăn, lửa nhỏ kẹo sẽ rất lỏng.

Vô khuôn, làm khô, cắt kẹo
Khi phần nước cốt cô đặc và chuyển màu, người ta sẽ cho lên giàn khuôn, khuôn đã
được bôi trơn một lớp dầu dừa để chống dính. Tại khâu này, người ta có thể phối trộn hoặc
cho thêm nguyên liệu lần cuối vào để kẹo có nhiều mùi vị khác nhau như : đậu phộng giã
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 11
nhuyễn, phối màu xanh cho kẹo dừa lá dứa rồi hòa vào kẹo sầu riêng. Hay cho thanh kẹo nửa
màu trắng, nửa màu đen là kẹo dừa sầu riêng sôcôla…
Dùng dao cắt ra làm nhiều phần theo kích thước định sẵn.


Gói kẹo
Phần cuối cùng là gói kẹo trong một lớp bánh tráng mỏng phía bên ngoài. Bánh tráng
dùng trong kẹo dừa là bánh tráng ăn được, dùng để làm không ướt tay và có tác dụng phụ trợ
trong công việc hút ẩm của kẹo dừa. Gói bao bì bằng bánh giấy.

2.3. Kẹo chuối

Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo



Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 12
2.3.1. Quy trình sản xuất























2.3.2. Thuyết minh quy trình
Bóc vỏ chuối
Chọn những quả chuối chín, dễ bóc vỏ, loại bỏ những phần hỏng. Sau khi bóc vỏ, chuối
được ngâm trong dung dịch nước sát trùng (2% NaSHO
3

hay NaHCO
3
) trong 20 phút, sau đó
vớt ra để ráo 15 phút trước khi chà.
Chà chuối
Có thể dùng tay hoặc chà chuối bằng máy qua lỗ lưới nhỏ để thu được bột chuối ở dạng
lỏng.
Chu
ối

Đư
ờng

Bóc vỏ
Chà
Cô đặc 70
0
Bx
Hòa tan
Bao gói
Tạo hình
Làm nguội
Nấu kẹo
Lọc
Kẹo chuối
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 13
Cô đặc

Bột chuối ở dạng lỏng được cô đặc bằng nồi có cánh khuấy, tốt nhất cô đặc bột chuối
đến 70°Brix. Trong quá trình cô đặc có thể thêm 5-10% đường kính so với lượng bột chuối để
tăng vị, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản. Nếu cấn thiết có thể bổ sung 0.05% NaSHO4
hoặc acid Sorbic để chống ôi chua mốc
Nấu kẹo
Cho nước đường đã lọc sạch và bột chuối vào nồi nấu kẹo có cánh khuấy. Trong quá
trình nấu, dưới tác dụng của nhiệt độ cánh khuấy đảo trộn nên nước đường và bột chuối được
trộn lẫn vào nhau thành một hỗn hợp đồng nhất, tạo nên khối kẹo quánh nhuyễn.
Khi nhiệt độ kẹo đạt 150
0
C thì cho mè, đậu phộng đã được rang chín và bóc vỏ vào trộn
đều. Cuối cùng, chuyển kẹo đến bộ phận làm nguội.
Làm nguội
Kẹo được dàn mỏng trên bề mặt làm nguội, chiều cao lớp kẹo khoảng 1-1,2cm. Sau
khoảng 15 phút, ta chia lớp kẹo thành những miếng nhỏ có kích thước 25x25cm. Tiếp tục chờ
khi kẹo nguội đến 40-45
0
C, ta rắc lên hai mặt miếng kẹo một lớp mè mỏng, rồi đưa đi cán
phẳng mặt kẹo.
Tạo hình
Miếng kẹo được cắt thành những thỏi nhỏ có kích thước khoảng 23x26x10mm bằng
máy cắt dọc và máy cắt ngang.
Bao gói
Sau khi tạo hình, kẹo được bao gói ngay. Thông thường mỗi viên kẹo được gói bằng 3
lớp giấy: lớp trong cùng là giấy tinh bột, lớp giữa là giấy có tráng lớp thiếc hoặc nhôm, ngoài
cùng là lớp giấy có in nhãn. Kẹo được gói thủ công bằng tay rồi cho vào túi polyetylen.
2.4. Kẹo Cu Đơ
2.4.1. Giới thiệu
Kẹo Cu Đơ là một loại kẹo đặc sản của tỉnh Hà Tĩnh. Kẹo được nấu từ mật mía, đường,
mạch nha, gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai miếng bánh tráng ép lại. Cái tên Cu Đơ

xuất phát từ tên ghép Cu Deux trong đó deux là hai trong tiếng Pháp.Ngày xưa, ở một làng
thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, một gia đình nọ có hai đứa con trai khôi ngô tuấn tú
nhưng nhà lại rất nghèo. Họ làm quần quật suốt ngày mà cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm.
Một hôm cậu con trai cả về thưa với cha mẹ là sẽ cưới vợ. Hai ông bà lo lắng không biết lấy
đâu ra đồ sính lễ. Nhà lại không có rượu, không có heo, không có nếp lấy gì mà đãi bà con
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 14
chòm xóm. Trong lúc bế tắc, người cha mới đánh liều nấu mật mía sôi lên rồi đổ lạc (đậu
phộng) vào. Khi đem ra đãi, ai ăn cũng thấy ngon. Được mọi người ưa thích, ông tiếp tục nấu
và đem đi bán ở những làng lân cận. Từ đó, kiểu nấu mật mía với lạc lan rộng khắp huyện
Hương Sơn.

Ban đầu nó có tên là kẹo lạc (vì chỉ có mật mía và lạc) nhưng người ta thấy như vậy là
bất công cho người sáng chế nên gọi là kẹo “cu Hai” (một người cha có hai thằng con trai).
Khi phong trào Tây học nở rộ, những ông nghè ở đây mới đổi từ "Hai" thành "Deux" (tiếng
Pháp có nghĩa là hai, số 2) cho "trí thức". Còn "cu" chỉ có người Việt Nam mới dùng, là tên
gọi thân mật dành cho con trai (cu Tý, cu Tèo). Các cụ vắt óc suy nghĩ cũng không biết đổi từ
“cu” như thế nào, đành kết hợp cách gọi Việt - Pháp là "cu deux" (cu đơ). Xung quanh cái tên
gọi dân dã này cũng có nhiều cách giải thích. Đó là vào thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, khi
những người lính Pháp vô tình ăn trúng kẹo “cu Hai”, ghiền quá mới cho người truy tìm. Khi
biết tên gọi của nó, họ mới đổi từ "Hai" thành "Deux" cho phổ thông, để người Pháp tiện gọi.
Còn "cu" thì chịu, không biết đổi cách nào đành kết hợp đầu Việt, đuôi Pháp là "cu Deux" (cu
đơ).
Trước kia, kẹo Cu Đơ chỉ đơn thuần chỉ là mật mía và lạc thì giờ nguyên liệu vô cùng
phong phú. Người ta đã biết kết hợp một cách hoàn hảo giữa mật mía, đường, mạch nha,
gừng, lạc và bánh tráng. Chính những thứ gần gũi đó đã tạo nên một hương vị độc đáo cho
kẹo Cu Đơ.




Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 15
2.4.2. Quy trình sản xuất


















2.4.3. Thuyết minh quy trình
Mật mía được bỏ vào chảo ( chuyên dùng), sau khi đun sôi chảy, cần thêm một số phụ
gia như gừng, bột mạch nha để bánh được mềm hơn sau khi tráng và một nguyên liệu rất quan
trong đó là lạc nhân ( đậu phộng hạt). Lạc được bỏ vào chảo mật đang sôi, với nhiệt độ nhất
định, lạc sẽ giòn tan và rất thơm trong miếng bánh Cu Đơ. Sau khi mọi thứ đã vừa độ, người

làm bánh sẽ dùng những miếng bánh tráng cắt sẵn theo hình tròn, đổ hỗn hợp kẹo lên và ốp
hai mẩu bánh tráng lại với nhau. Sau khi đã hoàn thành công đoạn chế biến cu đơ, người ta
thường xếp chồng lên nhau khoảng 5 đến 10 cặp bánh gói vào giấy báo và đựng vào túi nilon
để bánh được giòn lâu và không bị ẩm.
Mật mía
Đun sôi
Phối trộn
Tạo hình
Đóng gói
Kẹo Cu Đơ
Bánh tráng
Gừng
Mạch nha
Đậu phộng
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 16

Bếp nấu kẹo đa năng và chiếc máy khuấy kẹo Cu Đơ
Kẹo Cu Đơ được nấu từ lạc và mật mía, lúc đầu mật được bỏ vào chảo đun sôi chảy ra
thành khuôn và thêm một số phụ gia như gừng, bột mạch nha và lạc vừng (đậu phộng). Sau
đó tất cả được đổ ra bánh đa nướng (bánh tráng) và ốp hai mẩu bánh tráng lại với nhau thay
cho miếng giấy lót dưới kẹo lạc mà mỗi lần ăn phải bóc bằng tay, vừa sạch sẽ, lại đỡ mất công
bóc giấy mà ăn vẫn giòn, ngon, hợp khẩu vị. Một loại nấu non (mềm hơn), múc vào bát con
(đọi) và dùng thìa để xúc ăn gọi là "kẹo đọi", chủ yếu bán tại nhà. Loại kẹo này thường được
thưởng thức cùng với nước chè xanh.
2.5. Kẹo Lạc
2.5.1. Giới thiệu


Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 17
Kẹo lạc là một thứ kẹo cổ truyền của một số dân tộc ở Đông Á làm từ lạc rang và đường
mía. Kẹo lạc phổ biến ở Việt Nam và miền Nam Trung Quốc. Ở các nước Nhật Bản và Triều
Tiên, người ta cũng làm thứ kẹo lạc nhưng với hình thù và màu sắc khác với kẹo lạc ở Việt
Nam và cũng không phổ biến như ở Việt Nam.
Nhìn chung, cách chế biến kẹo lạc có những công đoạn chung giữa các vùng đó là:
- Rang lạc nhân chín tới, sát sạch vỏ và giã nhỏ.
- Đun chảy đường hoặc mật làm từ mía với mạch nha rồi cho lạc vào trộn đều. Một số
nơi có thể cho thêm các phụ gia tạo mùi vào.
- Đổ hỗn hợp trên ra phản gỗ có tráng mỡ rồi dàn mỏng và phẳng.
- Cuối cùng là công đoạn cắt nhỏ thành từng chiếc kẹo. Có thể ngay khi kẹo còn đang
nóng và chưa rắn lại thì dùng dao có phết mỡ để sắt. Hoặc, sau khi hỗn hợp nguội và rắn lại
thì chặt ra thành từng miếng nhỏ. Kẹo cắt thành từng chiếc nhỏ rồi sẽ được rắc qua bột nếp
cho thơm và quan trọng nhất là để cho đỡ dính vào nhau.
Kẹo lạc ăn giòn, bùi, ngọt. Ở Việt Nam, kẹo lạc ở Nam Định là một trong những thứ kẹo
lạc được nhiều người ưa thích nhất, được biết đến với tên gọi kẹo Sìu Châu.
Kẹo Sìu Châu là một thứ kẹo lạc cao cấp của người Nam Định , đầu tiên được bán ở cửa
hàng đặt tại cửa nhà số 4 Hàng Sắt dưới, xế cửa đền Triều Châu (Thiều Châu), một ngôi đền
cổ của hội những người đồng hương thuộc huyện Triều Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc sang
sinh cơ lập nghiệp ở đất Sơn Nam Hạ từ lâu đời, ngay bến Ngự sông Vị Hoàng xưa. Tên Triều
Châu cứ đọc chệch dần đi nên mới có tên kẹo Sìu Châu.
Có thể nói kẹo Sìu Châu là tuyệt đỉnh trong kỹ thuật làm kẹo lạc ở ta. Những thanh kẹo
được cắt ngắn, dường như chỉ vừa hai miếng cắn, không mấy mịn màng, thậm chí trông còn
hơi cùn quằn nữa, bám đầy một lớp bột trắng ngà, nhưng ăn vào cứ thầy giòn tan. Kẹo rất
giòn mà lại rất dễ nhai, cái bùi của lạc hoà quyện với cái ngọt vừa quải của mạch nha trộn
đường kính, cái thơm của lạc rang hoà quyện với cái thơm của mạch nha, bột nếp.
Mỗi thanh kẹo xù xì quăn queo được bao trong vỏ bột nếp hương của đất Quần Liêu có

tác dụng vừa chống ẩm vừa để ủ cho kẹo lên hương. Cái tài tình của người chế biến là ở một
thời điểm nào đó kẹo được nấu trong "chảo đồng điếu" bằng nhiệt lượng đượm của lửa than
củi đã tạo nên một thứ kẹo lạc thanh có sắc nâu hồng và trong như hổ phách, ăn giòn tan,
không dính răng, thơm lừng, ngọt đậm, để lại một dư vị vô cùng thích thú Kẹo giòn, mềm,
lại tơi, rất phù hợp với nhu cầu thưởng thức của nhiều lứa tuổi. Có người cầu kỳ đã thử độ
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 18
giòn tan của kẹo Sìu Châu khi thời tiết hanh khô, thả rơi kẹo xuống mặt bàn đá hoặc gỗ lim ở
độ cao 0,7m-1m, miếng kẹo vỡ tan ra từng mảnh như những mảnh pha lê màu hồng.
Một đặc điểm nữa của kẹo Sìu Châu , do kỹ thuật độc đáo của nhà chế biến đã khử được
chất hôi của dầu lạc và để được khá lâu không ỉu. Có người đã quên một gói kẹo Sìu Châu vùi
trong cót thóc từ Tết Nguyên Đán cho đến tháng mười mới giở ra ăn, kẹo vẫn thơm ngon,
giòn tan, hương vị vẫn đậm đà, béo ngậy.
Gần hai thế kỷ nay, tiếng lành đồn xa, kẹo Sìu Châu Nam Định được nhân dân địa
phương và du khách trong và ngoài nước ưa thích. Ai đến Nam Định đều tìm mua một vài cân
kẹo Sìu Châu ở phố Hàng Sắt dưới, cùng với buồng "chuối ngự mít" Đại Hoàng thường bán ở
chợ Rồng là những đặc sản độc đáo của đất non Côi - sông Vỵ về làm quà.
Kẹo Sìu Châu có một thứ "hương thầm" rất kín đáo và tinh khiết và đã trở thành niềm
tự hào của người dân Nam Định về mảnh đất, con người ngàn năm văn hiến của mình.
2.5.2. Quy trình sản xuất




















Đ
ư
ờng

Hòa tan
K
ẹo lạc

L
ạc, vừng

M
ạch nha

Bao gói
Làm nguội
Cán
Đánh trộn
Nấu

Lọc
Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 19
2.6. Một số loại kẹo truyền thống khác
2.6.1. Kẹo cau

Kẹo cau là một loại kẹo dân dã gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ học trò xứ Huế.
Chiếc kẹo trông giống miếng cau chẻ sáu, phần trong cứng có màu vàng nhạt được làm từ
nước đường đông đặc lại, tượng trưng cho nhân cau; phần ngoài trắng làm từ bột gạo trộn
đường, tượng trưng cho vỏ cau. Kẹo cau khá cứng nên khi ăn chỉ cần ngậm để miếng kẹo tan
dần chứ không thể nhai. Thời xưa, kẹo cau thường được các o các mệ gói trong chiếc lá chuối
khô để bán cho lũ con nít. Ngày nay, khi công nghiệp phát triển, kẹo cau được gói trong giấy
nilon láng bóng.
2.6.2. Kẹo gừng

Kẹo gừng là loại kẹo được làm từ bột gạo nếp, đường cát và có pha thêm một chút nước
gừng. Lượng nước gừng được gia giảm vừa phải để khi ăn vào vị cay nồng của gừng không
lấn át vị ngọt của đường. Loại kẹo này ra đời từ những năm 1960 – 1970. Hồi ấy, chỉ cần có
500 đồng lẻ là đã mua được 5 viên kẹo gừng nho nhỏ. Hương kẹo nồng nồng, thơm thơm;
không chỉ trẻ con mà người lớn đều ưa thích vì nó có tác dụng làm ấm bụng, thanh giọng,
ngăn ngừa cảm mạo thương hàn.


Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 20
2.6.3. Kẹo kéo


Kẹo kéo là một loại kẹo bình dân của Việt Nam, được làm thủ công bằng nguyên liệu
chính là mật mía hoặc đường.
Nguyên liệu: Mật mía hoặc đường; nhân lạc đã rang chín; mỡ hoặc dầu ăn và một chút
chất tạo mùi (dầu chuối, vani ).
Chế biến:
 Đun nóng (còn gọi là thắng) mật hoặc đường ở ngọn lửa vừa phải để đường tan
chảy từ từ rồi cho mỡ hoặc dầu ăn vào để kẹo có độ bóng, muốn có mùi và màu thì cũng cho
phụ gia vào lúc này. Đường được thắng cho vừa tới. Người ta thường thử độ tới bằng cách
nhỏ mấy giọt đường vào nước ở nhiệt độ thường, nếu giọt đường không bị hòa tan là vừa tới.
Người chế biến có kinh nghiệm chỉ cần ngửi mùi đường đang thắng là có thể xác định được
độ tới. Nếu đường thắng chưa tới sẽ không đủ độ đông kết để làm kẹo, nếu thắng quá mức
kẹo sẽ cứng, không đạt độ dẻo như yêu cầu.
 Khi đường vừa tới thì lấy ra rồi đánh đều. Vì hỗn hợp lúc này có độ kết dính cao
nên muốn đánh đều người ta thường dùng những chiếc đinh to, que tre hoặc gỗ đóng lên bàn
hay tường để đánh kẹo kéo. Cả khối kẹo bán thành phẩm được đập thẳng vào đinh rồi kéo dài
ra, động tác cứ lặp đi lặp lại cho đến khi kẹo trông đã đạt độ trắng và dẻo cần thiết là được.
Trong quá trình đánh, nếu kẹo cứng quá thì phun thêm nước vào.
 Dàn khối đường trên thành tấm, cho lạc nhân vào giữa, cuộn lại thành khối kẹo to
và dài như cánh tay, bọc vải sạch hoặc nylon, khi ăn mới kéo từ khối kẹo ra một lượng vừa
phải để ăn. Hiện nay, kẹo kéo còn được chia sẵn ra thành từng thanh nhỏ cho tiện.
Làm kẹo kéo cũng có thể không cho thêm lạc nhân vào.




Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 21

Tài liệu tham khảo
1. Hồ Hữu Long, Kỹ thuật sản xuất bánh kẹo, NXB Khoa Học Kĩ Thuật, 1982.
2. Nguyễn Nhã, Bản sắc Ẩm thực Việt Nam, NXB Thông tấn, 2009.
3. Hồ Hữu Long, Kĩ thuật sản xuất kẹo, NXB Khoa Học Kĩ Thuật Hà Nội, 1983.
4. />431
5.
6. />XV/TIEUTHUCONGNGHIEP.htm
7. /Nghe-lam-keo-dua-o-
Ben-Tre-To-nghe-Nguyen-Thi-Ngoc.aspx
8.
9.
10.
11. Theo tư liệu văn hoá Nam Định


















Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 22
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
1. Tổng quan nguyên liệu 2
1.1. Đường 2
1.2. Mạch nha 3
2. Công nghệ sản xuất 4
2.1. Kẹo mè xửng 4
2.1.1. Giới thiệu 4
2.1.2. Nguyên liệu 5
2.1.3. Quy trình sản xuất 6
2.1.4. Thuyết minh quy trình 6
2.2. Kẹo dừa 8
2.2.1. Giới thiệu 8
2.2.2. Nguyên liệu 9
2.2.3. Quy trình sản xuất 9
2.2.4. Thuyết minh quy trình 10
2.3. Kẹo chuối 11
2.3.1. Quy trình sản xuất 12
2.3.2. Thuyết minh quy trình 12
2.4. Kẹo cu đơ 13
2.4.1. Giới thiệu 13
2.4.2. Quy trình sản xuất 15
2.4.3. Thuyết minh quy trình 15
2.5. Kẹo Lạc 16
2.5.1. Giới thiệu 16
2.5.2. Quy trình sản xuất 18

2.6. Một số loại kẹo truyền thống khác 19
2.6.1. Kẹo cau 19
2.6.2. Kẹo gừng 19
2.6.3. Kẹo kéo 20
Tài liệu tham khảo 21










Tiểu luận Công nghệ sản xuất đường bánh kẹo


Công nghệ sản xuất một số loại kẹo truyền thông Việt Nam Trang 23
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
1.Vũ Thị Hiền: Tổng quan nguyên liệu, kẹo mè xửng (trang 1-7).
2.Nguyễn Quỳnh Như: Kẹo dừa, kẹo chuối (trang 8-13).
3.Phạm Thị Tuyết Nhung: Lời mở đầu (trang 1), Kẹo Cudo (trang 13-16).
4.Phạm Văn Quý: Kẹo lạc, Một số loại kẹo truyền thống khác (trang 16-20),
tổng hợp chỉnh sửa bài.

×