Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của toà án nhân dân cấp huyện qua thực tiễn tại toà án nhân dân huyện ngọc lặc, tỉnh thanh hoá (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.37 MB, 85 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bổ trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận vãn đảm báo tính chính xác,

tin cậy và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thanh Tân


MỤC LỤC
MỞ ĐÀU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG ván đề chưng vè thấm quyền giải
QUYẾT VỤ ÁN DÂN sự CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN.... 6

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện........................................................................................... 6
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sụ của Tòa án nhân dân cấp huyện................................................ 13
1.3. Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện......................16
CHƯƠNG 2. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT vụ ÁN DÂN sụ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH29

2.1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện theo
loại việc..........................................................................................................29


2.2. Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện theo lãnh thổ................................................................................. 51
2.3. Thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân
cấp
huyện
theo
cấp................................................................................................. 63

CHƯƠNG 3. THỤC TIÊN ÁP DỤNG TẠI TAND HUYỆN NGỌC LẶC
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÈ THẨM QUYEN
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN sự CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁP
HUYỆN ...............
65

3.1
Tổng
quan
về
Lặc.......................................................65

TAND

huyện

Ngọc

3.2. Những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân huyện
Ngọc
Lặc,

tỉnh
Thanh
Hố......................................
65
3.3. Ngun nhân của những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tịa án
nhân
dân
huyện
Ngọc
Lặc,
tỉnh
Thanh
Hố....................................
7. 69

3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân
sự
của
Tòa
án
nhân
dân
cấp
huyện................................................................. 71


KÉT LUẬN


DANH MỤC CÁC CHŨ VIẾT TẮT

BLDS
BLTTDS

Bơ• lt
• dân sư

Bộ luật tố tụng dân sự

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

LTCTAND

Lt
• tổ chức tịa án nhân dân

LHN&GĐ

Luật hơn nhân và gia đình

LĐĐ

Lt
• đất đai

QSDĐ


Quyền sử dụng đất

TTDS

TA

Tố tụng dân sự
rp K
Tòa án

TAND
TANDTC
XHCN

Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Xã hội chủ nghĩa

s


MỞ ĐÀU

1. Tính câp thiêt cùa Đê tài

Cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã và đang được tiến hành

một cách toàn diện, sâu sẳc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới đã

tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển

mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2011, sau đó là

Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật
cho phù hợp với Hiến pháp và sự phát triển của xã hội, trong đó có việc ban

hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sau đó là Bộ luật tố tụng dân sự sửa

đổi bồ sung năm 2011 và gần đây nhất là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bộ
luật tố tụng dân sự ra đời đã đánh dấu một bước phát triển lớn của pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam. Đặc biệt, đối với các quy định về thẩm quyền giải

quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được nghiên cứu, tập
hợp thành một hệ thống thống nhất; việc mở rộng thẩm quyền của Tịa án thể
hiện tính phù hợp với xu thế tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội, tạo những

tiền đề căn bản để người dân có cơ hội tiếp cận được với pháp luật và hiện

nay, trên cơ sở những quy định mới của Hiến pháp năm 2013, Luật tố chức
Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bên cạnh những điểm họp lý và tiến bộ của những quy định về thẩm
quyền sơ thẩm dân sự chung của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được quy

định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì các quy định hiện hành về vấn đề

này, đặc biệt là nhũng quy định về thấm quyền giải quyết vụ án dân sự của

Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn còn những bất cập nhất định khi áp dụng trên



thực tê. Sự thiêu cụ thê, rõ ràng trong các quy định của pháp luật khiên đương

sự lúng túng trong việc xác định Tịa án cấp nào mà họ có thể nộp đơn khởi
kiện giải quyết vụ án; và trong thực tiễn xét xử, Tịa án cấp huyện cũng gặp
khơng ít khó khăn, vướng mắc khi xác định một vụ án có thuộc thẩm quyền

sơ thẩm dân sự cùa mình hay không.
Nghị quyết số 103/2015/NQ-QH13 ngày 25/11/2015 về việc: Thi hành
Bộ luật tố tụng dân sự có nội dung về tăng thẩm quyền của Tòa án nhân dân

cấp huyện thể hiện một bước đột phá trong cải cách tư pháp. Việc tăng thẩm
quyền đã đạt được hiệu quả trong việc giúp giảm tải áp lực thụ lý án sơ thấm

ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự cũng
như những người liên quan. Tuy nhiên, khi thực hiện tăng thẩm quyền thì Tịa

án nhân dân cấp huyện vần gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là những
kinh nghiệm về giải quyết loại án ở mức độ khó hơn. Bên cạnh đó, hệ thống
văn bản pháp luật thường xuyên được bổ sung, sửa đổi nhưng việc giải thích,

hướng dẫn chậm, gây khó khăn trong việc nhận thức, áp dụng pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của các quy định về thẩm quyền giải

quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện đối với q trình hồn
thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
có thế thấy việc nghiên cứu những quy định về vấn đề này là một đòi hỏi

khách quan và tất yếu. Việc nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống khơng chỉ


góp phần nâng cao hiệu quả trong cơng tác xét xử mà cịn từng bước góp phần
hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành.

Là một cán bộ đang cơng tác tại Tồ án nhân dân Huyện Ngọc Lặc, tỉnh

Thanh Hố, qua q trình cơng tác thực tiễn, tơi nhận thấy có một số vướng
mắc trong các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự khi giải quyết các vụ án

dân sự thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện. Với mong muốn chỉ

2


ra những bât cập và đưa ra những đê xuât nhăm hoàn thiện các quy định của

Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tồ án nhân

dân cấp huyện nên tơi quyết định lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền giải quyết

vụ án dân sự cua Tòa án nhân dân cấp huyện theo pháp luật Việt Nam
qua thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá” làm
đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu Đề tài

Trên thực tế hiện nay cũng đã có một số cơng trình khoa học và các

chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Có
thể nói đến như Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Thị Hà về “Phân cấp thẩm

quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay” năm 2005, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Hoài Nam về
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” năm

1997, Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Tố Loan về “Thẩm quyền

sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ - Một sổ vấn đề lý luận và thực tiễn”
năm 2009, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng về “ Thẩm quyền
dân sự của Toà án theo lãnh thổ tại Việt Nam” năm 2018, Luận văn thạc sĩ

của tác giả Nguyễn Hà My về “ Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
các Toà án theo pháp luật Việt Nam” năm 2019...

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay chưa có một cơng trình khoa học nào
trong số đó tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể về vấn

đề thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự (thẩm quyền giải quyết sơ thẩm) của

Tòa án nhân dân cấp huyện kể từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được
thơng qua. Vì vậy, Luận văn này sẽ trình bày một cách tổng thể và làm rõ hơn

một số vấn đề lý luận, thực tiễn về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của

Tòa án nhân dân cấp huyện.

3


3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Đê tài

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách tồn diện, có
hệ thống về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp

huyện, từ đó làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận đối với việc xác định thấm
quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định
của pháp luật hiện hành, phát hiện những điểm còn hạn chế, những vướng
mắc, bất cập của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề trên.

Từ mục đích nghiên cứu Đe tài trên, phạm vi nghiên cứu của Đe tài

được xác định như sau:

Nghiên cứu cơ sở khoa học và lịch sử phát triển các quy định về
thấm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Nghiên cún, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của

Tòa án nhân dân cấp huyện.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành
về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện, phát

hiện những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng và đề xuất những giải pháp nhàm

hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.

4. Co’ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác Lê Nin,


tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn sử
dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh. Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, các tài liệu,

sách báo, những nghiên cứu của các nhà luật học có liên quan đến thẩm quyền

4


r

r

___

r

giải quyêt vụ án dân sự của Tòa án nhân dân câp huyện, kêt hợp với phân tích

thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật từ đó làm sáng tỏ nội dung của

Luận văn.
5. Kêt câu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Luận văn được kết cấu
thành ba chương gồm:
r

\


'

-

2.

y



r

Chương 1. Những vân đê chung vê thâm quyên giải quyêt vụ án dân sự
r

của Tòa án nhân dân câp huyện.
Chương 2. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân

cấp huyện theo pháp luật hiện hành
Chương 3. Thực tiên áp dụng tại TAND huyện Ngọc Lặc và kiên nghị
hoàn thiện pháp luật vê thâm quyên giải quyêt vụ án dân sự của Tòa án nhân

dân cấp huyện

5


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÈ THẨM QUYỀN GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN sụ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁP HUYỆN


1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự

của Tòa án nhân dân cấp huyện

1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự cùa Tịa án

nhân dân cấp huyện

Trong lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người từ xưa đến nay,
quyền lực luôn là vấn đề được quan tâm và tranh luận nhiều, đặc biệt là quyền
lực Nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: "Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thê điều hịa được"

[6]. Nhà nước được xây dựng từ khế ước xã hội để bảo vệ quyền con người.
Nhà nước ra đời với chức năng chủ yếu là điều hịa xã hội, duy trì sự ồn định
và phát triển của xã hội theo một trật tự nhất định. Một trong những công cụ

hiệu quả nhất để thực hiện quyền lực Nhà nước là pháp luật. Pháp luật của

Nhà nước là sự tối thượng nhưng suy cho cùng nó cũng khơng thế tách rời hai
từ “cơng lý”, trọng trách quan trọng và cao cả bậc nhất của pháp luật là đế
thiết lập, duy trì và bảo vệ sự công bằng xã hội. Từ thời cổ đại, các luật gia La

Mã đã khẳng định: ở đâu có pháp luật, ở đó phải có hệ thống bảo đảm cho

luật pháp được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Trong quá trình hoạt động,
để thực hiện tốt chức năng vốn có, Nhà nước khơng thể tự mình làm tất cả

mọi công việc mà phải trao quyền cho một số cơ quan chuyên môn để các cơ


quan này nhân danh nhà nước tham gia vào việc quản lí xã hội. Do đó, để
thực hiện nhiệm vụ được giao, mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước phải được

trao những quyền hạn nhất định, đó là tiền đề làm xuất hiện thẩm quyền.
Thuật ngữ “thẩm quyền” theo nghĩa nguyên thủy bắt nguồn từ tiếng La

tinh là “compotentia”, gồm có hai nghĩa là, phạm vi các quyền hạn của các cơ

6


quan, người có chức vụ nào đó, hoặc phạm vi những kiên thức, kinh nghiệm

mà ai đó có. Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lí thường được hiểu
bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai là “thẩm quyền chuyên
môn”. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả xin trình bày thẩm quyền với

nghĩa là thẩm quyền pháp lí.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thẩm

quyền” là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề pháp luật [25],
Theo cách giải nghĩa này, thấm quyền được hiểu là việc một cơ quan Nhà

nước được phép tự minh nhìn nhận sự việc và đưa ra ý kiến riêng để giải

quyết vấn đề một cách phù hợp theo quy định của pháp luật. Theo từ điển
Luật học Việt Nam, “thẩm quyền ” là tông hợp các quyền và nghĩa vụ hành
động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước
do pháp luật quy định [27], Cách định nghĩa này cho thấy, thẩm quyền được


hiểu là phạm vi mà Nhà nước trao quyền cho một cơ quan, tổ chức của Nhà

nước và phạm vi đó phải được pháp luật xác định một cách rõ ràng. Theo Từ
điển luật học của Mỹ thì thẩm quyền được hiểu là một cơ quan công quyền có

thể được xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật khi nó cỏ một khả
năng cơ bản và tối thiểu. Theo khái niệm này, thẩm quyền được gắn chặt với
khả năng của cơ quan công quyền khi thực hiện việc xem xét, giải quyết một

vấn đề nào đó.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm thấm quyền đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Theo tác giả Lê Hoài Nam: “Thầm quyền là quyền được thực hiện

những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một tô chức hoặc nhân viên

Nhà nước. Nói khác đi, thâm quyền là quyền của một chủ thê nhất định, đó là
khá năng mà pháp luật cho phép được thực hiện một công việc trong một lĩnh

vực, một phạm vỉ nhất định” [13]. Theo tác giả Lê Thị Hà: “Thâm quyền là

7


tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức hoặc

một công chức được xem xét giải quyết những công việc cụ thê trong lĩnh vực
và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của hộ máy nhà nước" [6].

Như vậy, dưới những góc độ khác nhau, khái niệm “thẩm quyền” cũng

có sự khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung các cách giải thích đều thừa nhận

thấm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước trong việc thực thi quyền lực

Nhà nước được pháp luật quy định.

Ở Việt Nam, xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thơng tồ án cho
nên quan niệm về thấm quyền của tồ án trong tố tụng dân sự cũng có những

điểm khác biệt. Khái niệm về thẩm quyền của toà án được tiếp cận dưới ba

góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của toà án các cấp và thẩm
quyền của tồ án theo lãnh thổ.

Tịa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh

vực quyền lực Nhà nước đó là quyền tư pháp. TA có thẩm quyền xét xử và
nhân danh Nhà nước đế ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án nhằm bảo

vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích của Nhà nước. Trong TTDS, theo TS. Lê Thị Hà thì thẩm quyền

của TA là ‘'"tồn hộ những quyền do pháp luật quy định theo đó TA tiến hành
xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật" [6].

Trong tố tụng hình sự, TS. Nguyễn Đức Mai quan niệm thẩm quyền của TA
là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là
thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thấm quyền về hình


thức của TA được thế hiện ở thẩm quyền xét xử và giới hạn (phạm vi) xét xử
của các cấp TA đối với các vụ án. Thẩm quyền về nội dung (hay quyền hạn)
của TA xác định TA có quyền quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án khi

8


xem xét chúng [12]. Trong tơ tụng hành chính, thâm quyên của TA là “phạm

vi thực hiện quyền lực Nhà nước của TA trong việc giải quyết các tranh chấp
hành chính giữa một bên là cơng dãn, tơ chức và bên kia là cơ quan công
quyền, theo thủ tục tố tụng hành chính nhằm bảo đảm và bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân” [31]. Như
vậy, có thể thấy rằng, các tác giá đều thừa nhận thẩm quyền của TA bao gồm
các quyền khác nhau của TA khi giải quyết vụ việc, đó là TA sẽ xác định cụ

thể những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của TA và TA có
quyền ra những quyết định gì khi giải quyết vụ việc đó.

Điều 1 BLTTDS 2015 quy định:

“Bộ luật tổ tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện đê Toà án nhân dân (sau đây gọi là
Toà án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự,
thủ tục u cầu đê Tồ án giải quyết các việc về yêu cầu dãn sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân


sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dãn sự, việc dãn sự (sau dãy gọi chung

là vụ• việc
dãn sự)
Tồ án ...”

• / tại

Với quy định này, phạm vi điều chỉnh của BLTTDS là vụ việc dân sự,
gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là vụ có tranh chấp về quyền

lợi, nghĩa vụ giữa cá nhân, tổ chức với nhau. Các tranh chấp gồm tranh chấp

dân sự, tranh chấp hơn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh thương mại,
tranh chấp lao động. Khi một tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, được đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết sẽ trở thành vụ án dân

sự. Việc dân sự là việc không có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng có yêu
cầu của cá nhân, tồ chức đề nghị Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý mà

9


phát sinh quyên và nghĩa vụ của các cá nhân, tô chức này. Tât cả các việc yêu

cầu về dân sự, các việc yêu càu về hôn nhân và gia đình, các việc yêu cầu về

kinh doanh thương mại, các việc yêu cầu về lao động đều được gọi chung là
các việc dân sự.


Trong phạm vi luận văn này, luận văn nghiên cứu thâm quyên chung
của Tòa án về dân sự theo nghĩa rộng như quy định tại BLTTDS nhưng chỉ

giới hạn trong các vụ án dân sự, không gồm các việc dân sự. Cụ thể là: thẩm
quyền của Tòa án trong các vụ án về dân sự, các vụ án hơn nhân và gia đình,
các vụ án kinh doanh thương mại, các vụ án lao động.

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, khi thực hiện thẩm

quyền xét xử dân sự, Tòa án thực hiện theo nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Là cấp xét xử đầu tiên, xét xử sơ thẩm dân sự có ý nghĩa

quan trọng và gần như mang tính quyết định trong tồn bộ tiến trình một vụ
án. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Sơ thẩm” là xét xừ một vụ án với tư cách là

cấp xét xừ thấp nhất [26], Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý thơng dụng thì “Sơ
thẩm” là việc Tịa án xét xử lần đầu một vụ án [23]. Pháp luật tố tụng dân sự

không đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự của

Tòa án nhưng dưới góc độ lý luận có thể đưa ra khái niệm này như sau:
“Thẩm quyền xét xử sơ thâm các vụ việc dân sự của Tòa án là quyền của Tòa
án trong việc xem xét giải quyết lần đầu đối với các vụ việc dân sự”. Xét xử ở

cấp sơ thẩm đúng luật và có căn cứ là cơ sở để vụ án không bị kháng cáo,
kháng nghị tới thủ tục phúc thấm, hạn chế được việc kéo dài vụ án cũng như

tổn phí vật chất cho cả Tịa án và đương sự.
Trên thế giới thì cách thức tổ chức hệ thống Tịa án có thể theo đơn vị


hành chính lãnh thổ hoặc khơng theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Điều này
phụ thuộc vào truyền thống, lịch sử và ý chí cùa nhà lập pháp mỗi nước.

10


Thông thường, thâm quyên xét xử sơ thâm các vụ việc dân sự theo câp Tòa án
sẽ được xác định dựa trên dấu hiệu thể hiện tính chất phức tạp của quan hệ


••





JL

• JL

JL



tranh chấp dân sự, điều kiện để giải quyết các vụ việc của các cấp Tòa án, tính

khách quan trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động... Dấu hiệu này yêu cầu đối với các quan

hệ tranh chấp có nhiều nội dung, tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề


khác nhau thì phải do Tịa án có đủ điều kiện và thấm phán có năng lực

chuyên môn cao hơn tiến hành giải quyết so với các vụ việc đơn giản. Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, tại điều 37 và điều 44 đã nêu rõ nhiệm vụ,

quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh là có
chức năng xét xử sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật. Theo đó, ở

Việt Nam, trong các Tịa án, chỉ có Tịa án nhân dân cấp huyện và Tịa án

nhân dân cấp tỉnh là có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các giáo trình về luật tổ tụng dân sự của các cơ sở đào
tạo luật cũng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về thẩm quyền sơ thẩm dân sự
theo cấp của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, về mặt lý luận thì thẩm quyền xét

xử sơ thẩm dân sự khơng thể thuộc về Tịa án cấp cao nhất trong hệ thống tổ
chức Tòa án vì như vậy sẽ tước đi của đương sự quyền kháng cáo phúc thấm

và quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Trong phạm vi Luận văn này, nội dung nghiên cứu về thẩm quyền giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ giới hạn dưới góc
độ về quyền xem xét xét, giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp

huyện.

Qua nghiên cứu lý luận và xuất phát từ cách thức tổ chức Tòa án của
Việt Nam, tác giả xin đưa ra khái niệm về thấm quyền giải quyết vụ án dân sự


của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau: “Thẩm quyền giải quyết vụ án dân

11


sự của Tỏa án nhân dân câp huyện là quyên giải quyêt lân đâu của Tòa án

đối với các vụ án về dân sự, hân nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,

lao động theo quy định của pháp luật tố tụng".

1.1.2. Ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân cấp huyện
Việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sụ của Tịa án nhân dân

cấp huyện một cách chính xác, hợp lý sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc
thực hiện nhiệm vụ giữa các Tòa án với nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng

trong việc khoanh vùng ban đầu khi xác định một vụ án cụ thể có thuộc thẩm
quyền giải quyền giải quyết của Tịa án cấp mình hay không, tránh việc mất

thời gian giải quyết sai thẩm quyền. Các quy định pháp luật về thẩm quyền
giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ tạo điều kiện cần

thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng, đúng đan và nâng cao hiệu của q
trình xem xét vụ án.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa

án nhân dân cấp huyện chính xác, hợp lý cịn tạo điều kiện thuận lợi cho các
đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp trước Tòa án,


giảm bớt những phiền phức cho các đương sự. Các quy định pháp luật về
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ sờ

pháp lý để nguyên đơn chủ động trong việc xác định được Tịa án cấp nào

mình có thể gửi đơn khới kiện hoặc lựa chọn Tòa án cấp huyện nào thuận lợi
nhất cho mình trong việc tham gia tố tụng để từ đó giúp đương sự nhanh
chóng thực hiện được quyền khởi kiện để bảo việc quyền lợi hợp pháp của

mình.

Ngồi ra, các quy tắc phân định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện trong các vụ án dân sự là cơ sở pháp lý đề tránh việc đương sự lạm

12


dụng quyên khởi kiện đê cùng lúc khởi kiện tại nhiêu Tịa án khác nhau, gây

ra tình trạng trong cùng một vụ án có nhiều Tịa án cùng giải quyết và những

phán quyết của các Tịa án này lại khơng thống nhất, trái ngược nhau. Điều
này gây phiền hà không chỉ cho chính cơ quan tư pháp mà cịn làm giảm lòng

tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ công lý.

1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thẩm quyền

giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

1.2.1. Đường lối cải cách tư pháp của Đảng

Ớ nước ta, theo tinh thần cải cách tư pháp được xác định trong Nghị

quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về ‘‘‘'Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" đã định hướng tăng thẩm quyền xét xử của Tòa

án nhân dân cấp huyện bằng chủ trương “việc xét xử sơ thấm chủ yếu được

thực hiện ở Tòa án nhãn dãn cấp huyện". Việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện tạo điều kiện giảm bớt áp lực về cơng
việc cho Tịa án nhân dân cấp tỉnh, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc

dân sự, đồng thời bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử.

1.2.2. Tính chất của q trình xác minh các vụ án dân sự
Để bảo đàm việc giải quyết các vụ việc dân sự phù hợp với thực tế
khách quan và đúng pháp luật thì việc xây dựng các quy định về thẩm quyền
dân sự theo cấp Tòa án phải căn cứ vào tính chất của q trình xác minh các
vụ án rồi từ đó sẽ phân nhóm những loại việc nào sẽ giao cho Tòa án cấp

huyện giải quyết và những vụ việc nào sẽ giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết.

Thơng thường, Tịa án nhân dân cấp huyện sẽ có điều kiện thuận lợi hơn Tịa
án nhân dân cấp tỉnh trong việc trực tiếp xác minh chúng cứ tại địa phương,
do vậy thời gian hoàn thiện hồ sơ vụ việc cũng sẽ được thực hiện nhanh

chóng hơn so với Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Bên cạnh đó, vụ án được giao cho

13



Tòa án nhân dân câp huyện giải quyêt cũng sẽ tạo điêu kiện thuận lợi cho các

đương sự khi tham gia tố tụng, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại và công
sức của các bên tham gia tố tụng. Tuy nhiên, đối với những vụ án yêu cầu

phải liên hệ, ủy thác tư pháp ở nước ngồi thì Tịa án nhân dân cấp huyện lại
gặp khó khăn vướng mắc khi thực hiện. Do đó, ngoại trừ các vụ án u cầu

q trình xác minh phải thơng qua ủy thác tư pháp hoặc bằng ngoại giao như
trên, phần lớn các vụ án sơ thấm dân sự đều được giao cho Tịa án nhân dân

cấp huyện giải quyết.

1.2.3. Tính chất, đối tượng của quan hệ pháp luật

Quan hệ pháp luật dân sự gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản,
đây là cơ sở để xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ.

Xét trong từng quan hệ tranh chấp cụ thể đối với mồi loại quan hệ pháp luật
khác nhau, nhà lập pháp sẽ thiết lập các dấu hiệu riêng biệt để xác định thẩm
quyền dân sự sở thẩm theo lãnh thổ. Nếu như các tranh chấp về quan hệ nhân

thân như quan hệ pháp luật hơn nhân thì dấu hiệu để xác định Tịa án có thẩm
quyền giải quyết là nơi cư trú, làm việc của bị đơn; trường hợp hai bên thuận

tình ly hơn thì Tịa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi một trong hai

bên cư trú, làm việc; thì đối với các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại


ngoài hợp đồng, dấu hiệu nơi cư trú của người có nghĩa vụ hoặc nơi cư trú của

nguyên đơn nơi xảy ra thiệt hại sẽ được xác lập; ...
1.2.4. Bảo đảm quyền và lọi ích hợp pháp của đương sự
Khi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật thì việc phát sinh tranh

chấp giữa các cá nhân là điều không thể tránh khỏi. Đe giải quyết các tranh
chấp này thì Nhà nước đã quy định các phương thức khác nhau để các chủ thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của minh như tự bảo vệ, yêu cầu TA bảo vệ

hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Tuy nhiên, trong các

14


phương thức bảo vệ quyên và lợi ịch hợp pháp vê dân sự của các chủ thê thì
phương thức yêu cầu TA bảo vệ là công cụ hữu hiệu nhất trong toàn bộ các
phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng đề giải quyết các tranh

chấp và mâu thuẫn lợi ích. Do đó, các quy định về thẩm quyền giải quyết các
vụ• án dân sự• tại
TAND cấpJL huyện
sẽ tạo
điều kiện
thuận lợi nhất cho các



•••


đương sự tìm đến sự giúp đỡ của công lý, giúp các đương sự nhanh chóng xác
định được nơi cụ thế có thế giải quyết thỏa đáng nguyện vọng của họ, từ đó,

dẫn đến hệ quả là vụ án dân sự sẽ được giải quyết nhanh chóng để bảo đảm
kịp thời quyền và lợi ích cho các đương sự. Đây là cơ sở để ngun đơn,

người u cầu có thế lựa chọn Tịa án, sao cho việc tham gia tố tụng thuận lợi
nhất cho họ. Nói cách khác, các quy định về thẩm quyền giúp cho đương sự
nhanh chóng thực hiện quyền khởi kiện, tránh việc gửi đơn khởi kiện đến TA

không đủng thẩm quyền, làm mất thời gian, cơng sức, chi phí khơng đáng có.

Bên cạnh đó, vụ án dân sự nếu được xét xử sơ thẩm ở TAND cấp huyện sẽ
giúp các đương sự khi tham gia tố tụng tiết kiệm được thời gian, cơng sức, chi

phí đi lại.

1.2.5. Bảo đảm cho việc giải quyết của Tịa án đưọc thuận lọi

Q trình xem xét, giãi quyết các vụ án dân sự của TAND khơng giống
như q trình giải quyết vụ án hình sự. Neu như đối với các vụ án hình sự
việc điều tra, truy tố do các cơ quan công an, Viện kiểm sát thực hiện thì đối

với các vụ án dân sự, tồn bộ q trình hồn thiện hồ sơ, xác minh, thu thập

chứng cứ sẽ được thực hiện bởi Tịa án. Như vậy, có thể thấy TAND cấp
huyện sẽ có điều kiện thuận lợi hơn TAND cấp tỉnh trong công tác xác minh,

thu thập chứng cứ, xem xét vụ việc tại địa phương và cũng tạo điều kiện thuận


lợi cho việc giải quyết của Tòa án khi triệu tập các đương sự tham gia vào quá

15


trình tơ tụng như cung câp, giao nộp chứng cứ; sự đi lại, có mặt của đương sự

khi được Tồ án triệu tập...

Ngoài ra, phần lớn việc giải quyết sơ thẩm các vụ án dân sự được giao
cho TAND cấp huyện sẽ tạo điều kiện cho TAND cấp tinh tập trung thẩm

quyền phúc thẩm khi giải quyết các vụ việc trong giai đoạn tiếp theo, bảo đảm

được yêu cầu giải quyết vụ án theo các cấp xét xử.
1.2.6. Khả năng” hồn thành nhiệm
• vụ• của cán bộ• Tịa án nhân dân

cấp huyện
Một trong những cơ sở quan trọng để TAND cấp huyện được giao tăng
thẩm quyền xét xử đối với những vụ án trước đây vẫn thuộc thẩm quyền của

TAND cấp tỉnh là do đội ngũ cán bộ TAND cấp huyện bào đảm đù cả về số

lượng và năng lực, trình độ nghiệp vụ đề đáp ứng được yêu cầu xét xử đối với
các vụ án dân sự theo quy định hiện hành, về cơ bản, đội ngũ cán bộ TAND

cấp huyện hiện nay được đào tạo cơ bản về chun mơn nghiệp vụ, có trình
độ cử nhân luật, trong đố 20% thẩm phán TAND cấp huyện có trình độ chính


trị hoặc cao cấp lý luận chính trị. Như vậy, với sự nâng cao cả về trình độ
chun mơn nghiệp vụ và sự hồ trợ về cơ sở vật chất kì thuật, việc mở rộng

thẩm quyền cho Tịa án nhân dân cấp huyện là điều cần thiết và khả quan, phù
hợp với thực tế hiện nay tại Việt Nam.

1.3. Lược sử các quy định của pháp luật to tụng dân sự Việt Nam
về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự cùa Tòa án nhân dân cấp huyện

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trước năm 1945, với những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội mang

tính đặc thù của thời kỳ Pháp thuộc, cách thức tổ chức các Tòa án cũng như
về luật pháp áp dụng tại Việt Nam rất phức tạp.

16


Nêu như các Tòa án Pháp tại Việt Nam được thiêt lập ở Nam kỳ, ba
thành phố nhượng địa của Pháp (gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nằng) và hai

thành phố khác là Nam Định, Vinh với mục đích để giải quyết những vụ kiện
mà đương sự là người Pháp hay đồng hóa với Pháp hoặc người nước ngồi

được ưu đãi như người Pháp và áp dụng các quy định cùa Bộ luật tố tụng dân
sự Pháp năm 1806 thì các Tòa án Việt Nam lại được thiết lập ở Bắc Kỳ và

Trung Kỳ đế giải quyết các vụ kiện giữa người Việt Nam với nhau hoặc người
nước ngồi có địa vị xã hội như người Việt Nam.


Ớ Bắc kỳ thời kỳ này, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự được quy
định trong Luật Pháp viện biên chế Bấc kỳ - quy định về cơ cấu, tổ chức,
thẩm quyền và hoạt động của các cấp Tòa án, Luật dân sự, Thương sự tố tụng

Bắc kỳ - quy định về cách thức tố tụng, cách thức chấp hành án, các thủ tục,
các quy tắc chung liên quan đến việc xử án được ban hành năm 1921. Tương

tự như vậy, ở Trung kỳ, thủ tục giải quyết các vụ kiện dân sự lại được quy
định trong Luật Pháp viện biên chế Trung kỳ và Luật dân sự, Thương sự tố

tụng Trung Kỳ ban hành năm 1935. Trong các văn bản trên, thuật ngữ “phiên
tòa sơ thẩm” đã xuất hiện, mặc dù trình tự thủ tục tiến hành phiên tịa này vần

chưa được quy định cụ thể.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh

ra nước Việt Nam dân chù cộng hòa đã mang một ý nghĩa đặc biệt trong quá
trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Cũng từ đó đến nay,

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói chung, trong đó có các quy định về
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự (sơ thẩm dân sự) của Tòa án nhân dân cấp

huyện nói riêng cũng đã trài qua nhiều giai đoạn thay đổi và phát triển khác
nhau.

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960

17



Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch

sử dân tộc Việt Nam, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau
khi giành được chính quyền, để xây dựng, củng cố chính quyền cũng như để

đáp ứng đòi hỏi mới của đời sống dân sự, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt
các văn bản pháp luật mới. Trong đó, các văn bản về xây dựng hệ thống tư

pháp mới và thủ tục tố tụng được đặc biệt chú trọng, đáng chú ý nhất là sắc
lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Toà án và quy định các ngạch Thẩm

phán. Sắc lệnh số 13/SL đã đặt cơ sở đại cương đầu tiên cho việc tổ chức nền

tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng dân sự của nước ta nói riêng. Đây là
Sắc lệnh đàu tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức giải quyết các tranh

chấp, xữ phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy
định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán, sắc lệnh quy
định hệ thống tổ chức Tòa án bao gồm Tòa án sơ cấp được tổ chức ở mồi
quận (phũ, huyện, châu), Tòa đệ nhị cấp được tổ chức ở mồi tinh và ở các

thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn và Tòa thượng thẩm được
tổ chức ở mỗi kỳ (Tòa thượng thẩm Bắc kỳ đặt ở Hà Nội, Tịa thượng thẩm

Trung kỳ đặt ở Thuận Hóa (Huế), Tòa thượng thẩm Nam kỳ đặt ở Sài Gòn).
Sau Sắc lệnh số 13/SL, sắc lệnh số 51/SL được ban hành ngày
17/4/1946 về ấn định thấm quyền các Tòa án và sự phân cơng giữa các nhân

viên trong Tịa án được ban hành. Tại sắc lệnh này, thẩm quyền về dân sự và

thương sự của Tòa án sơ cấp đã được quy định cụ thể trong Điều thứ 6, Điều
thứ 7, theo đó: 'Điều thứ 6: về dãn sự và thương sự, Tồ án sơ cấp có quyền

xử: A- Chung thẩm: ỉ- Những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá
ngạch do nguyên đon định không quá ỉ50 đ. 2- Những việc kiện về các khoản

lệ phỉ đã phát sinh ra trước tồ án ấy khơng cứ giá ngạch nào. B- Sơ thâm:
Những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn

18


định trên 150đ, nhưng dưới 450 đ. Điêu thứ 7: Khi nào một bên nguyên cáo
kiện một bên bị cáo mà cùng trong việc kiện có nhiều sự thỉnh cầu, nếu giá

ngạch những sự thỉnh cầu cộng lại quả 450đ, thì ơng thâm phán sơ Cấp khơng

có thâm quyền".
Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đà
thơng qua bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà - Hiến pháp năm

1946. Việc ban hành Hiến pháp năm 1946 là sự kiện pháp lý quan trọng để
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiến hành cái cách bộ máy tư pháp và

hoạt động tư pháp. Tại sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, tên gọi Tòa án
nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh được sừ dụng thay thế cho tên gọi Tòa

so cấp, Tòa đệ nhị cấp trước đây. Theo sắc lệnh này, Tòa án nhân dân cấp
huyện đã được tăng thẩm quyền như “Tòa án nhân dân huyện họp thành Hội


đồng hoà giải đê thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả

các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có

quyền điều đình" - Điều 9 hay quy định “Tồ án nhân dân huyện có quyền xử

chung thầm những vụ ản sơ thám của ban tư pháp xã bị kháng cáo, hoặc
những vụ phạm pháp vi cảnh mà ban tư pháp xã xét cần xử phạt giam, hoặc
những vụ tái phạm vi cảnh" - Điều 13 và Điều 14: “Trong trường họp Cấp

bách, Tồ án nhãn dân huyện có quyền tuyên án ấn định các phương pháp

bảo thù đối với những vụ kiện khơng thuộc thâm quyền Tồ án nhân dân
huyện".
Có thể nói trong giai đoạn này, với việc ban hành các văn bàn pháp luật

tố tụng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, những quy định
mang tính chất nền tảng cơ bản về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ án

dân sự cũa Tòa án nhân dân cấp huyện đã được xác lập. Mặc dù còn sơ khai,
nhưng những sắc lệnh tố tụng trong thời kỳ này đã đề cập và định hình được

19


những nội dung cơ bản vê cách thức tô chức hệ thơng Tịa án, thâm qun

tuơng ứng của mồi cấp cũng nhu cách thức xét xừ/giải quyết vụ án của các

cấp. Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án nhân dân cấp

huyện (tòa sơ cấp) với Tòa án nhân dân cấp tỉnh (tòa đệ nhị cấp) trong thời kỳ

này buớc đầu cũng đã căn cứ vào tính chất đơn giản/phức tạp của vụ việc, giá

trị của tài sản nhỏ/lớn để xác định thẩm quyền giữa các Tòa án.
1.3.3. Giai đoạn tù’ năm 1960 đến năm 1989
Ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 01/LCT công
bố hiến pháp mới của nuớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trên cơ sở Hiến

pháp 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hồ đã thơng qua Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và Uỷ ban thường vụ quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh qui định cụ thể về tổ chức TAND tối cao và tổ chức của

các TAND địa phương ngày 23/3/1961. Các văn bản pháp luật này đã đánh

dấu một bước ngoặt lớn của ngành tư pháp nói chung và pháp luật tố tụng dân

sự nói riêng. Theo qui định tại các văn bản pháp luật quan trọng này, hệ thống
TAND có một số thay đổi, Viện công tố được tách khỏi hệ thống Toà án và hệ
thống Toà án bao gồm: TANDTC, các TAND địa phương, các Tồ án qn

sự. Trong đó, thẩm quyền của TAND cấp huyện được quy định gồm: (i). Xử

sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền của các Tịa án đó; và (ii). Có nhiệm vụ hồ giải những vụ tranh chấp
về dân sự, phân xử nhũng việc hình sự nhỏ khơng phải mở phiên tồ và

hướng dẫn cơng tác hồ giải ở xã và khu phố. So với các quy định về thẩm
quyền của TAND cấp huyện trong các vụ án dân sự tại các sắc lệnh trước đây
thì thẩm quyền của TAND cấp huyện tại Luật tổ chức Tòa án đã được mở


rộng hơn.

1.3.4. Giai đoạn tù’ năm 1989 đến trước năm 2004

20


Đây là giai đoạn nước ta bước vào thời kỳ đơi mới với sự phát triên
kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, các quan hệ

xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp hơn trước, nhu cầu giải quyết các tranh

chấp dân sự phải nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật là thực sự cần thiết.

Trước yêu cầu đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đã được Hội

đồng Nhà nước thơng qua ngày 07/12/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990. Đây là văn bản pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực pháp lý cao
nhất từ trước tới nay, tạo ra một hành lang những chuẩn mực nhất định, đánh

dấu bước tiến mới trong quá trình phát triến của pháp luật tố tụng dân sự. Tại
Điều 11 của Pháp lệnh quy định ngoại trừ các trường hợp (i). Những vụ án mà

đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài; (ii).
Những loại việc tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp; (iii). Những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng Tòa án nhân dân cấp

tỉnh thấy cần thiết lấy lên để giải quyết thì những vụ việc sau thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện gồm:


Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác về quyền, nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau, giữa công dân

với pháp nhân, giữa pháp nhân với nhau, trừ những việc thuộc thẩm quyền

của cơ quan, tổ chức khác;
Những việc về quan hệ hơn nhân và gia đình;

Những việc tranh chấp về lao động;
Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, trừ những

trường hợp quân nhân, cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến tranh thuộc trách
nhiệm giải quyết của các cơ quan hữu quan;

21


Những việc khiêu nại cơ quan hộ tịch vê việc từ chôi đăng ký
hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ
tịch;

Những việc khiếu nại về danh sách cử tri;
Những việc khiếu nại cơ quan báo chí về việc khơng cải chính
thơng tin có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.

Ngoài ra theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự thì thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa án


nhân dân tối cao vẫn còn tồn tại, theo đó “Trong trường hợp đặc biệt, Tồ án

nhân dân toi cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những

vụ án thuộc thâm quyền của Toà án cấp dưới mà Toà án nhản dân tối cao lấy
lên đê giải quyết".

Sau Pháp lệnh thù tục giải quyết các vụ dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ

tục giải quyết các vụ án kinh tế (ngày 16/03/1994) và Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động (ngày 11/04/1996) lần lượt được ban hành.
Liên quan đến những quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh
tế của Tòa án nhân dân cấp huyện, tại khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh này ghi
nhận: “Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phổ thuộc tỉnh (gọi chung

là Toà án cap huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thâm những tranh chấp hợp

đồng kinh tể mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân

tổ nước ngồi". Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 cũng
đã đi xa hơn một bước so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

năm 1989 khi quy định có tính chất bao qt và linh hoạt hơn về thẩm quyền

sơ thẩm Tòa án theo lãnh thổ trong trường hợp tranh chấp “liên quan đế nhiều
bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì ngun đơn có thê u cầu Tồ án ở
một trong các nơi đó giải quyết vụ án" (Khoản 6 Điều 15).

22



×