B GIO DC V O TO
B T PHP
TRNG I HC LUT H NI
NGUYN TH
áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia
đình tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố
Hà Nội
Chuyờn ngnh : Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s : 60380101
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. ..
H NI NM 2017
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Đại học Luật
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Đại học Luật Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
NGƯỜI CAM ĐOAN
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
7. Kết cấu của luận văn 5
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN 6
1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân
dân cấp huyện 6
1.2. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình tại Tòa án
nhân dân cấp huyện 13
1.3. Nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân
dân cấp huyện. 17
Kết luận chương 1 30
Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 31
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà Nội và cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân trên
địa bàn thành phố Hà Nội 31
2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế trong áp dụng pháp luật giải quyết án hôn nhân và
gia đình của toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội (giai đoạn 2012
-2015). 34
Kết luận chương 2 50
3
Chương 3 YÊU CẦU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 52
3.1. Yêu cầu đối với việc nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình của toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội 52
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia
đình của toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội 57
Kết luận chương 3 78
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL: Áp dụng pháp luật
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HLPL: Hiệu lực pháp luật
Nxb: Nhà xuất bản
QHPL: Quan hệ pháp luật
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS: Tố tụng dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSNDTC: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có xã hội phát triển và lành mạnh thì
cần phải có các gia đình tốt – gia đình văn hoá mới. Gia đình là cái nôi sản sinh ra con
người, nuôi dưỡng và giáo dục con người cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong
những năm qua luôn luôn quan tâmb tới vần đề gia đình. Luật hôn nhân và gia đình có vai
trò góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ Hôn nhân và gia đình tiến bộ, nhằm
xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.
Với đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập như vậy, song
thực tế hiện nay các vụ án về Hôn nhân và gia đình vẫn phát sinh và có chiều hướng gia
tăng, đòi hỏi Toà án phải (ADPL) để giải quyết các loại án này. Nghiên cứu về (ADPL)
trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
thành viên trong gia đình, thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, tránh tình trạng phân
biệt đối xử, tình trạng bạo lực gia đình [43].
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Toà án là trung tâm có vai trò quan trọng trong
hệ thống cơ quan tư pháp và Toà án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành
hoạt động xét xử các loại án nói chung và Hôn nhân và gia đình nói riêng. Trong những
năm qua, việc trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình đã giải quyết được những mâu thuẫn bất hoà trong gia đình, đã bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, bên cạnh những mặt đã đạt
được trong quá trình giải quyết án Hôn nhân và gia đình vẫn còn những thiếu sót, như có
vụ án trong quá trình giải quyết còn để tồn đọng, dây dưa kéo dài, có vụ án còn bị sửa, huỷ
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
Ở thành phố Hà Nội những năm qua, số lượng án về Hôn nhân và gia đình ngày càng gia
tăng. Đối với loại án này mỗi vụ án có nội dung đa dạng và tính phức tạp khác nhau, nên
việc ADPL để giải quyết loại án này gặp không ít những khó khăn, trong nhận thức vận
dụng pháp luật cũng như khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình giải quyết án
Hôn nhân và gia đình của ngành Toà án nhân dân thành phố Hà Nội trong những năm qua
đạt những kết quả nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hoà trong hôn nhân,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua việc ADPL trong việc giải
quyết án Hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ
cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự trị an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền
pháp chế Xã hội chủ nghĩa trên toàn thành phố. Đồng thời, hoạt động ADPL trong giải
quyết án
6
Hôn nhân và gia đình, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nảy sinh trong
lĩnh vực về hôn nhân, còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ
sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác
những hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn ADPL
trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất
sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai
đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và xét xử phúc thẩm
của TAND thành phố Hà Nội đã phát hiện có những thiếu sót của việc ADPL trong quá
trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa, huỷ; một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo
dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Trong hoạt động xét xử, ngành Toà án
thành phố Hà Nội cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như án tồn đọng còn nhiều, vi phạm thời
hạn tố tụng.
Đặc biệt, một số vụ án do ADPL không chuẩn xác, nên còn bị sửa, huỷ nhiều lần, kéo dài
nhiều năm gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhân dân khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan
Trung ương. Tồn tại trên là những lực cản trở trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền tại Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về
Hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội”
làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong việc giải quyết các vụ án nói chung và ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia
đình nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác
xét xử của ngành Toà án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
bài viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như:
- Trương Kim Oanh (1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sỹ Luật học;
- Đặng Quang Phương (1999), Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện các bản án, Tạp chí TAND số 7, 8;
- Nguyễn Văn Cừ, (2000), Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm
2000, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11;
- Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, (2002), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội;
- Bùi Văn Thuấn (2002), Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài
sản riêng và chung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội;
7
- Nguyễn Hồng Hải (2003), Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 2;
- Trần Thị Quốc Khánh (2004), Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc đến hòa giải cơ sở
ngày nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11; Qua nghiên cứu những công trình nêu trên
cho thấy, các tác giả chỉ đề cập mặt này hay mặt khác của việc ADPL trong quá trình giải
quyết án Hôn nhân và gia đình, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
đầy đủ việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói chung, cũng như trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình;
+ Đánh giá thực tiễn của việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình tại thành phố
Hà Nội;
+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của
TAND cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
+ Xây dựng khái niệm ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình và phân tích các
đặc điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của việc ADPL trong hoạt động giải
quyết án hôn nhân và gia đình;
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động ADPL trong giải
quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND cấp huyện ở thành phố Hà Nội và rút ra các
nguyên nhân khách qua và nguyên nhân chủ quan của hạn chế;
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Toà án; hoàn thiện các quy phạm
pháp luật nhằm đảm bảo ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình; Kiện toàn tổ
chức, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án và Hội thẩm nhân dân…
nhằm đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND cấp huyện
ở thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Là việc ADPL trong hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình
của Toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
8
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình ADPL để giải quyết án Hôn
nhân và gia đình của các Toà án nhân dân cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong khoảng thời
gian từ năm 2012 đến năm 2015.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp
luật, trong đó có vấn đề ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác
– Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
kết hợp lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ADPL trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình, làm sáng tỏ đặc thù của loại án này ở cấp huyện trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL giải quyết án
Hôn nhân và gia đình ở cấp huyện thành phố Hà Nội và đề ra các giải pháp có tính khả thi
nhằm đảm bảo ADPL trong hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình có hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho
những người trực tiếp làm công tác ADPL trong giải quyết án
Hôn nhân và gia đình, nhằm thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia
đình. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy,
học tập trong các trường Đại học chuyên luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho
những người trực tiếp đang làm công tác xét xử tại TAND nói chung và Toà án nhân dân ở
Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương, 7
tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của
Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa
án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết án
hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT
ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình tại Tòa án
nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm hôn nhân và gia đình
Hôn nhân là một hình thức, hiện tượng được hình thành rất lâu đời trong xã hội loài người.
Khái niệm ban đầu của hôn nhân là sự sắp đặt của xãhội để điều chỉnh mối quan hệ giữa
đàn ông và đàn bà, hôn nhân là sự liên kếthợp pháp giữa người đàn ông và người đàn bà để
xây dựng gia đình và chungsống với nhau. Ngày nay, khi xã hội phát triển, hôn nhân còn
có thể là sự liênkết của hai người cùng giới tính. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do
việckết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó làquan hệ
vợ chồng. Quan hệ này là quan hệ giới tính, thực chất và ý nghĩa củanó biểu hiện trong
việc sinh đẻ, nuôi nấng, giáo dục con cái, đáp ứng chonhau những nhu cầu tinh thần và vật
chất trong đời sống hàng ngày. Trongmỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị
bằng pháp luật, điềuchỉnh quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình,
phùhợp với ý chí giai cấp mình, xã hội nào thì có hình thái hôn nhân đó và tươngứng với
chế độ hôn nhân nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có hìnhthức hôn nhân phong
kiến, mang bản chất của hôn nhân phong kiến. Trong xãhội tư bản có hình thức hôn nhân
tư sản mang bản chất của xã hội tư sản. Xãhội XHCN có hình thức của hôn nhân xã hội
chủ nghĩa. Hiện nay ở một sốnước đã công nhận việc kết hôn giữa những người đồng giới,
vì vậy kháiniệm hôn nhân cũng được mở rộng hơn, không chỉ giữa người đàn ông vàngười
đàn bà mà là giữa hai con người có mối quan hệ tình cảm, có cùngchung mục đích là muốn
có sự liên kết gắn bó với nhau về mặt tinh thần cũngnhư về mặt luật pháp, không biệt giới
tính, chủng tộc, quốc tịch...
Ở nước ta hiện nay, hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Namlà sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng
theo quy định của pháp luật để chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh
phúc, dân chủ, hoà thuận và bền vững.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải thích: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng
sau khi kết hôn” [49, Khoản 1 Điều 3]. Mặc dù trước đây khi lấy ý kiến sửa đổi Luật Hôn
nhân và gia đình cũng đã có ý kiến đưa quan hệ hôn nhân đồng tính vào Luật hôn nhân và
gia đình để điều chỉnh nhưng ý kiến này không được thông qua và hiện tại Việt Nam chưa
10
công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Lý do của việc không công nhận này
có thể là vì hôn nhân đồng tính sẽ làm mất đi khái niệm người vợ, người chồng trong gia
đình truyền thống Việt Nam.
Gia đình là khái niệm rộng hơn khái niệm hôn nhân, gia đình lấy hôn nhân làm tiền đề, hai
con người tiến đến hôn nhân nhằm mục đích xây dựng nên gia đình. Xã hội loài người đã
trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau, gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã
hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mang tính chất và
kết cấu của gia đình cũng khác nhau. Gia đình XHCN là hình thái cao nhất trong lịch sử,
chế độ XHCN quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia đình XHCN. Quan hệ bình
đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình XHCN phản ánh mối quan hệ bình đẳng
giữa nam và nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Ở Việt Nam Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau” [49, Khoản 2 Điều 3].
Như vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ,
ông bà... có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, trong quá trình
chung sống, phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Hôn nhân và gia
đình là những hiện tượng xã hội mà luôn được các nhà triết học, xã hội học,
sử học, luật học... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là
tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hoà lợi ích của mỗi công
dân, nhà nước và xã hội. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh một cách
khoa học rằng, hôn nhân và gia đình là phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng
giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối quan hệ liên quan trực
tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm, Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và
Nhà nước (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng: “Chế độ gia đình trong xã
hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã hội đó và bước chuyển từ
hình thái gia đình này lên hình thái gia đình khác cao hơn suy cho cùng được
11
quyết định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội” [24]. Bằng tác
phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan điểm trước đây về hình thái hôn
nhân và gia đình trong lịch sử.
Tại các Điều 8, 9 Chương II của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định việc kết hôn, để được công nhận hôn nhân hợp pháp, việc đăng ký
kết hôn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật và việc ly hôn cũng như
giải quyết các quan hệ liên quan đến hôn nhân cũng được tiến hành theo trình
tự pháp luật nhất định, các bước phải được tuân thủ theo Bộ luật tố tụng dân
sự, khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì được áp dụng theo Luật Hôn nhân và
gia đình.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình
Áp dụng pháp luật là một hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà nước tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những quy định pháp luật. Áp dụng pháp luật sẽ cá biệt
hóa các biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc các chế tài pháp luật; làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể; giải
quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật; kiểm tra, giám sát, hoặc xác nhận thực trạng của
một quan hệ xã hội.
Quan niệm ADPL như vừa nêu trên được thể hiện rất rõ trong đời sống
xã hội. Chẳng hạn, để ADPL hình sự nhằm buộc kẻ phạm tội phải chịu trách
nhiệm pháp luật hình sự thì nhà nước đã trao quyền cho Toà án và Toà án căn
12
cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật hình sự để xét xử ra một bản án (văn
bản ADPL hình sự) buộc kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định. Hoặc
để bảo vệ an toàn giao thông, Nhà nước bằng pháp luật đã quy định cho các
chiến sỹ cảnh sát giao thông có quyền áp dụng các quy phạm pháp luật giao
thông ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các chủ thể có
hành vi vi phạm luật giao thông vượt đèn đỏ, đi ngược chiều… Ngoài ra,
trong một số trường hợp, Nhà nước cũng cho phép một số tổ chức xã hội
được ADPL, như pháp luật về thành lập Hội...
Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì ADPL là một hình thức thực
hiện pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể nắm
quyền lực nhà nước. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp
luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì
ADPL là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước. ADPL là hình thức rất
quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp luật tác động vào cuộc sống,
vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy định của nó đều
được thực hiện triệt để, bởi vì ADPL luôn có sự can thiệp của Nhà nước.
Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như:
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có
lúc không được thực hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi
các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có
sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước.
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Toà
13
án là cơ quan xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể
hiểu Toà án là cơ quan xét xử. Các bản Hiến pháp năm 1959,1980, 1992 và 2013
đã quy định rõ về chức năng xét xử của Toà án, Hiến pháp năm 2013 đã quy
định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [52, khoản 1 Điều 102]. Trên cơ sở Hiến
pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân quy định về chức năng xét xử của Toà
án: “Toà án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các
vụ án Hình sự, Dân sự, Hôn nhân và gia đình, Kinh doanh thương mại, Lao
động, Hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật...”
[31, Khoản 2 Điều 2].
Trong quá trình xét xử Toà án phải ADPL để giải quyết các vụ án. Đối
với các vụ án Hôn nhân và gia đình, Toà án phải ADPL để giải quyết từ khâu
phân loại đơn, thụ lý đơn, điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh, định giá tài
sản… cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tuỳ từng vụ án cụ thể mà phân loại
giải quyết khác nhau như: Quyết định chuyển vụ án, tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ vụ án, công nhận hoà giải thành, công nhận thuận tình ly hôn hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Theo quy định của Luật tố tụng dân sự khi đương sự gửi đơn đề nghị
giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình đến TAND cấp có thẩm quyền giải
quyết, sau khi nhận đơn Toà án tiến hành phân loại việc hôn nhân và gia đình.
Nếu là quan hệ tranh chấp ly hôn thì thụ lý vụ án với quan hệ pháp luật “Tranh
chấp ly hôn”. Nếu đơn khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con chung sau khi ly hôn thì thụ lý vụ án với quan hệ pháp luật “Tranh chấp
14
việc cấp dưỡng nuôi con”… Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán giải quyết vụ án
phải ADPL tố tụng và Luật Hôn nhân và gia đình để điều tra thu thập chứng cứ
vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật để ra các quyết định hoặc ra bản án buộc
các đương sự thi hành bằng nhiều hình thức như: tự nguyện thi hành hoặc có sự
cưỡng chế thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự.
Ngoài cơ quan Toà án ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình còn có
sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong giai đoạn giải quyết
vụ án. Viện kiểm sát nhân dân có quyền và trách nhiệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, như yêu cầu cá nhân, cơ quan
tổ chức cung cấp chứng cứ, tham gia phiên toà xét xử và được phát biểu về
việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên toà. Tuy nhiên, TAND là cơ quan có trách nhiệm chủ
yếu trong việc giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình. Hầu hết trong các giai
đoạn ADPL, hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình do Toà án trực
tiếp giải quyết mà không phụ thuộc vào chủ thể nào khác.
Dựa trên cơ sở khái niệm ADPL và từ sự phân tích về ADPL trong giải
quyết án hôn nhân và gia đình nêu trên, có thể rút ra khái niệm: Áp dụng pháp
luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một hoạt động mang tính tổ
chức, thực hiện quyền lực nhà nước do Tòa án nhân dân tiến hành theo quy
định của pháp luật, có kết quả là một quyết định cá biệt hoặc một bản án do
Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ban hành nhằm làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật về Hôn nhân gia đình.
Từ khái niệm về ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình nêu trên, ta
có thể rút ra những đặc điểm cơ bản như sau:
15
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, Toà án được Nhà nước trao quyền
để lựa chọn các quy phạm pháp luật và ADPL trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình chỉ do hệ
thống TAND tiến hành. Toà án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền
ADPL để giải quyết án hôn nhân và gia đình.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình được tiến
hành theo một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự quy định và các
quy phạm pháp luật của Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Khi tiến hành
giải quyết một vụ án hôn nhân và gia đình, các trình tự xây dựng hồ sơ từ
khâu thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định hoặc quyết định
đưa vụ án ra xét xử đều phải tuân theo các bước như đã quy định trong Bộ
luật tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình là một
hoạt động mang tính khoa học và sáng tạo do Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân thực hiện. Chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trực tiếp giải quyết
vụ án hôn nhân và gia đình mới được áp dụng các quy phạm pháp luật, sao
cho phù hợp và khoa học để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Trong
khuôn khổ của pháp luật cho phép, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ADPL
sáng tạo, nghĩa là dựa vào trí tuệ và niềm tin nội tâm của mình để ADPL.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình diễn ra
trên phạm vi rộng với nhiều vụ án đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, cùng một
16
loại án về hôn nhân và gia đình nhưng tính chất từng vụ án cũng khác nhau,
tình tiết, chứng cứ trong các vụ án cũng khác nhau. Khi giải quyết vụ án phải
tuân thủ theo các bước quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Từ đó có thể rút ra rằng hoạt động ADPL trong giải quyết các vụ án
Hôn nhân gia đình chỉ do hệ thống Tòa án tiến hành, tuy nhiên ở mỗi cấp Tòa
án việc áp dụng pháp luật có những khác biệt, đặc biệt là về thẩm quyền. Hệ
thống tổ chức của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội được chia làm
hai cấp: Tòa án nhân dân cấp thành phố và các Tòa án nhân dân cấp huyện.
Tòa án nhân dân cấp huyện là cách gọi chung các TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật giải quyết
án hôn nhân và gia đình sơ thẩm tại TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh gần
như là giống nhau. Đại đa số các vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm đều do
TAND cấp huyện giải quyết, trừ các vụ án có yếu tố nước ngoài thì do
TAND cấp tỉnh giải quyết, điều này đã được quy định rõ trong Điều 35 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thẩm quyền giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND cấp huyện
là các vụ án cấp sơ thẩm, bao gồm các loại sau:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn;
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con
cho cha mẹ;
- Tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con;
- Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
17
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn;
- Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn;
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
- Các tranh chấp khác và những yêu cầu khác về Hôn nhân và
gia đình mà pháp luật quy định [50, Điều 28, 29].
Chủ thể trực tiếp ADPL đối với các vụ án Hôn nhân và gia đình tại
TAND cấp huyện là Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp
vụ án có thể được giải quyết bằng một quyết định thì Hội thẩm nhân dân
không tham gia vụ án mà người ADPL để ban hành quyết định giải quyết vụ
án là Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án đó. Ví dụ: trong quá trình giải
quyết vụ án, hai bên vợ chồng cùng thống nhất thuận tình ly hôn thì Thẩm
phán lập Biên bản ghi nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự,
nếu sau 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản, hai bên không có văn bản về việc
thay đổi ý kiến thì Thẩm phán được quyền ban hành Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn để chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Nếu vụ án
phải dẫn tới việc xét xử thì Thẩm phán sẽ ra Quyết định xét xử để thành lập
một Hội đồng xét xử bao gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, Hội
đồng xét xử sẽ xem xét để ban hành một bản án giải quyết vụ án. Vì vậy,
Thẩm phán là người đầu tiên tiếp xúc với hồ sơ vụ án, trực tiếp tiếp xúc với
18
đương sự, có thể yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu chứng cứ, tiến hành điều
tra, xác minh nội dung vụ án, tiến hành hòa giải, ra Quyết định xét xử... việc
ADPL của Thẩm phán là thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tố tụng
của vụ án. Thẩm phán cùng các Hội thẩm nhân dân đánh giá hồ sơ cũng như
các tài liệu, lời khai của đương sự tại phiên tòa để ADPL và đưa ra quyết định
cuối cùng là một bản án nhân danh nhà nước. Ngoài ra, Kiểm sát viên đại
diện cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng của vụ án. Việc kiểm sát này là
hình thức ADPL một cách gián tiếp, Kiểm sát viên không trực tiếp tham gia
vào nội dung của vụ án Hôn nhân và gia đình.
1.2. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia
đình tại Tòa án nhân dân cấp huyện
Áp dụng pháp luật giải quyết án hôn nhân và gia đình nói riêng của
TAND là sự biểu hiện cụ thể và mang những đặc điểm của ADPL nói chung.
Do tính đa dạng của tranh chấp về hôn nhân và gia đình như trong vụ án tranh
chấp về ly hôn, Toà án phải giải quyết cả ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân,
quan hệ nuôi con chung sau ly hôn và quan hệ tài sản chung của vợ chồng sau
khi ly hôn, điều này đòi hỏi khi giải quyết các nội dung vụ án, Toà án phải áp
dụng cả Luật Hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Bộ luật dân sự để giải quyết
vụ án. Ngoài ra, Toà án còn phải áp dụng những quy định về thủ tục tố tụng
khi giải quyết vụ án. Dựa trên cơ sở lý luận của ADPL, có thể chia ADPL
trong việc giải quyết án Hôn nhân và gia đình thành bốn giai đoạn sau:
Một là phân tích các tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia
đình làm rõ các đặc trưng pháp lý của vụ án. Đây là hoạt động đầu tiên trong
19
các giai đoạn ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình. Trong hoạt động
này, Toà án phải xác định thẩm quyền của Toà án theo loại việc (áp dụng
Điều 27, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015), thẩm quyền theo lãnh
thổ, theo cấp Toà án hoặc theo sự lựa chọn của các bên đương sự (áp dụng
Điều 35, 37, 39, Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015), để thông báo cho
các đương sự biết Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
Đại đa số các vụ án Hôn nhân và gia đình đều do TAND cấp quận,
huyện giải quyết, trừ các vụ án có yếu tố nước ngoài thì do TAND cấp tỉnh
giải quyết. Do vậy, khi nhận đơn cần thu thập các thông tin liên quan đến các
loại việc hôn nhân và gia đình, thẩm quyền giải quyết của Toà án. Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp ly hôn phải yêu cầu ghi rõ các nội dung về tên tuổi,
địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, nguyên nhân mâu thuẫn, các thông tin về con
chung và tài sản chung, nguyện vọng của các đương sự sau ly hôn. Kèm theo
đơn ly hôn gồm các giấy tờ khác có liên quan để xác định thẩm quyền giải
quyết của Toà án: Sổ hộ khẩu, xác nhận nơi cư trú. Sau khi có các tài liệu cần
thiết để xác định loại việc, thẩm quyền của Toà án, Thẩm phán nghiên cứu
đơn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Hôn nhân và gia
đình để xác định điều kiện khởi kiện của nguyên đơn. Ví dụ: Khi xét đơn khởi
kiện tranh chấp ly hôn, nếu xét thấy tài liệu nguyên đơn cung cấp thể hiện bị
đơn đã đi khỏi nơi cư trú hơn hai năm mà không xác định được địa chỉ của bị
đơn thì Thẩm phán xét đơn hướng dẫn nguyên đơn phải nộp đơn yêu cầu Toà
án xác định công dân mất tích trước rồi mới giải quyết việc ly hôn.
Khi xác định đương sự có đủ điều kiện thụ lý vụ việc hôn nhân và gia
20
đình, Thẩm phán đề xuất thụ lý vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán phải
phân tích các tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia đình, tiến hành
điều tra xác minh, làm rõ nội dung vụ án. Tuy nhiên, có những trường hợp
không nhất thiết phải tiến hành điều tra, mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự
định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng
cứ, các đương sự tự thoả thuận được các tranh chấp trong quan hệ Hôn nhân
và gia đình, thì vụ án cũng không phải tiến hành tất cả các hoạt động điều tra.
Đây cũng là đặc điểm riêng của vụ án Hôn nhân và gia đình. Ví dụ: khi thụ lý
giải quyết một vụ kiện xin ly hôn, Toà án yêu cầu nguyên đơn và bị đơn cung
cấp các tài liệu, giấy tờ liên quan đến quan hệ hôn nhân, các đương sự tự viết
vào bản tự khai. Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều nhất trí ly
hôn, tự thoả thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng
nuôi con, thoả thuận về tài sản chung vợ chồng sau ly hôn thì Toà án ra Quyết
định công nhận việc thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự.
Trên cơ sở kết quả điều tra xác minh vụ án chủ thể ADPL, phân tích
những tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia đình, làm rõ các đặc
trưng pháp lý của vụ án để tiến hành các bước tiếp theo giải quyết vụ án đó.
Hai là lựa chọn các quy phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình, về
Dân sự, về Tố tụng dân sự tương ứng để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.
Nói chung, việc lựa chọn QPPL để ADPL được tiến hành theo ý chí
đơn phương của Toà án có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ
thể bị áp dụng. Điều này được thể hiện rất rõ đối với việc ADPL trong giải
quyết án hình sự và giải quyết vi phạm hành chính, nhưng đối với việc giải
quyết án hôn nhân và gia đình về cơ bản cũng vậy, song có một số trường
21
hợp có thể trong khi giải quyết vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền
của mình theo pháp luật quy định sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án
không phải tiếp tục điều tra, xét xử mà có thể ra một quyết định thoả thuận
của các đương sự mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể ADPL, nhưng
lựa chọn QPPL vẫn là do cơ quan Toà án.
Ví dụ: Trong trường hợp các bên đương sự thuận tình ly hôn, thoả
thuận được với nhau về việc người trực tiếp nuôi con, thoả thuận về tài sản
khi ly hôn thì Toà án áp dụng Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014; Điều 182, Điều 183 Bộ luật tố tụng dân sự để ra Quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế - xã
hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý. Để làm sáng tỏ tư tưởng nội dung các quy
phạm liên quan đến lĩnh vực Hôn nhân và gia đình. Giai đoạn này của quá
trình ADPL nhằm nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của QPPL đưa ra áp
dụng để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. Việc ADPL phải thông qua
người có thẩm quyền khi ADPL. Cụ thể, Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án
phải căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự,
Luật đất đai... để giải thích cho các đương sự hiểu, hướng cho các đương sự đi
đến thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật. Giai đoạn này đòi hỏi
Thẩm phán giải quyết vụ án phải có trình độ vững vàng về pháp luật, có sự
hiểu biết sâu sắc về tâm lý, xã hội để phân tích, hoà giải.
Ba là ra quyết định áp dụng pháp luật hoặc ra một bản án để giải quyết
vụ án Hôn nhân và gia đình.
22
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của hai giai đoạn trên, ở giai đoạn
này Toà án có thẩm quyền ra quyết định hoặc bản án để quy định trách
nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự đang có tranh chấp trong
quan hệ Hôn nhân và gia đình. Văn bản ADPL này thể hiện rất rõ năng lực,
trình độ của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi ADPL. Bởi vì, trong giai
đoạn này các phán quyết cuối cùng mang tính pháp lý, phán quyết này chính
là việc vận dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực Hôn nhân và gia đình để
giải quyết án Hôn nhân và gia đình.
Quyết định ADPL phải phù hợp với quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng
chứ không thể xuất phát từ ý chí chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của người
có thẩm quyền, nội dung quyết định bản án phải rõ ràng, chính xác.
1.3. Nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia
đình tại Tòa án nhân dân cấp huyện.
Nội dung ADPL trong quá trình giải quyết án hôn nhân và gia đình
được thể hiện trong các nhiệm vụ ở các giai đoạn mà Tòa án nhân dân tiến
hành. Nội dung ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình rất đa dạng và
phong phú, nhưng quy về những nội dung cơ bản sau:
1.3.1. Áp dụng pháp luật trong thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ và hòa giải:
* Thụ lý vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định có quyền
khởi kiện về việc Hôn nhân và gia đình, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải
quyết. Bộ luật tố tụng dân sự quy định những loại việc mà Toà án nhân dân
cấp huyện thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện thuộc lĩnh vực Hôn
23
nhân và gia đình tại Điều 28, 29, 35.
Trong thực tế các loại việc tranh chấp về Hôn nhân và gia đình khi các
đương sự gửi đơn đến Toà án viết rất đơn giản, ít và thiếu các thông tin, vì vậy
ADPL trong việc thụ lý vụ án rất quan trọng để xem xét vụ án thuộc loại tranh
chấp nào, thuộc thẩm quyền của Toà án nào giải quyết.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, những chứng cứ kèm theo, nếu
xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì thông báo cho
người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo nộp tiền tạm ứng án
phí và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm
ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án mới thụ
lý giải quyết.
Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp biên lai tạm thu tiền án
phí. Nếu trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì
Toà án phải thụ lý khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm
theo, nếu có.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại
Toà án hoặc gửi qua đường bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi
kiện Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
- Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện;
- Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu thuộc thẩm quyền của mình;
24
- Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và thông
báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án khác;
- Trả lại đơn cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án [51, Điều 191].
Việc trả lại đơn khởi kiện được phân ra các trường hợp sau:
+ Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có năng lực
hành vi tố tụng dân sự;
+ Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền trừ trường hợp Toà án bác đơn xin ly hôn, bác đơn
xin thay đổi nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con…;
+ Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
+ Hết thời hạn quy định mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền
tạm ứng án phí cho Tòa án;
+ Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án;
+ Người khởi kiện không sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu
của Thẩm phán.
Như vậy, khi thụ lý đơn để giải quyết vụ án, Toà án trước khi thụ lý cần
phải xem xét nhiều vấn đề liên quan như các giấy tờ liên quan đến vụ kiện,
thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ, thẩm quyền của Toà án cấp nào được
giải quyết, người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không, có đủ năng lực
hành vi dân sự không đồng thời Toà án phải thụ lý theo đúng thời hạn của Bộ
25