Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận Một số vấn đề về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án trong tố tụng dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.48 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của đất nước, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên
phức tạp, các vụ tranh chấp thường xuyên xảy ra, đòi hỏi những cách giải quyết
khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, đa số các vụ việc dân sự nói chung và vụ án dân
sự nói riêng được giải quyết bằng con đường Tòa án, đặc biệt là trong lĩnh vực dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết khi phát sinh tranh chấp để có thể giả
quyết một cách nhanh chóng và chính xác vụ án dân sự. Chính vì vậy, việc xác định
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án là rất quan trọng. Để tìm hiểu sâu
hơn về vấn đề này, tôi xin chọn và nghiên cứu về đề tài: “Một số vấn đề về thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án trong tố tụng dân sự theo quy định
của BLTTDS năm 2015”. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này, tôi hy vọng sẽ
có những hiểu biết sâu hơn về những quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, qua đó có thể chỉ ra những bất
cập trong quy định của pháp luật để đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật nước ta.
NỘI DUNG

I.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN.
1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo vụ việc.
Xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án là xác định những loại tranh
chấp, yêu cầu nào thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Xác định thẩm quyền
của Tòa án theo vụ việc là nhằm phân định thẩm quyền của Tòa án với thẩm quyền
của các cơ quan, tổ chức khác trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ quan hệ
pháp luật nội dung1. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì TAND có
nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp dân sự theo quy định tại Điều 26,
28, 30 và 32 BLTTDS năm 2015. Cụ thể như sau:



1 Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Hà Nội, 2015, Tr.35.

1


a. Những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo Điều 26 BLTTDS năm 2015 vụ án phát sinh từ những quan hệ pháp luật
dân sự thuộc thẩm quyền giải quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:

- Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân (khoản 1 Điều 26).
Đây là một loại tranh chấp về quan hệ nhân thân. Tranh chấp này được hiểu là
tranh chấp giữa hai bên về việc xác định quốc tịch của người thứ ba, thông thường
là sự tranh chấp giữa cha và mẹ về quốc tịc của người con vị thành niên. Đối với
loại tranh chấp này, khi có yêu cầu của các bên đương sự thì Tòa án sẽ căn cứ vào
quy định của pháp luật, cụ thể là Luật quốc tịch để xác định quốc tịch cho đối
tượng đang có tranh chấp, có yêu cầu về xác định quốc tịch.

- Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản (khoản 2).
Theo quy định của pháp luật dân sự, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản; quyền sở hữu bao gồm các quyền năng như chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt. Như vậy những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án gồm các tranh chấp về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
các loại tài sản nêu trên.
Bên cạnh đó, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền
khác đối với tài sản. Đây là một bổ sung mới của BLTTDS 2015. Tranh chấp về
quyền khác đối với tài sản là tranh chấp về quyền đối với bất động sản liền kề,
quyền bề mặt, quyền hưởng dụng. Đây là sự bổ sung để phù hợp với BLDS năm
2015 vì quyền khác đối với tài sản là một chế định mới của bộ luật này.


- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự (khoản 3 Điều 26),
Tranh chấp về giao dịch dân sự được hiểu là những tranh chấp về hợp đồng
hoặc hành vi pháp lý đơn phương, bở bản chất của giao dịch dân sự là hợp đồng
hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa
vụ dân sự.

2


Bên cạnh đó, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng dân sự, cụ thể là các tranh chấp về việc giao kết, sửa đổi, thực hiện và chấm
dứt hợp đồng. Ngoài ra những tranh chấp phát sinh từ các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự như đặt cọc, thế chấp, bảo lãnh,…cũng thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.

- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 30 BLTTDS năm 2015 (khoản 4 điều 26).
Những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thuộc tranh
chấp dân sự được hiểu là những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau mà chỉ một bên có mục đích lợi
nhuận hoặc cả hai bên đều không có mục đích lợi nhuận. Còn trường hợp loại trừ
tại khoản 2 Điều 30 là những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau mà cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận,
và những tranh chấp này được coi là những tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Như vậy, yếu tố lợi nhuận là căn cứ để phân biệt hai loại tranh chấp này. Việc phân
biệt được hai loại tranh chấp này có nhiều ý nghĩa quan trọng, trong đó ý nghĩa
quan trọng nhất là sẽ lựa chọn được quy phạm pháp luật nội dung đúng để giải
quyết.

- Tranh chấp về thừa kế tài sản (khoản 5 Điều 26)

Tòa án có quyền giải quyết các tranh chấp về thừa kế như yêu cầu Tòa án
buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán
các khoản chi phí từ di sản hoặc yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật hoặc
theo di chúc, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác,…

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (khoản 6 Điều 26).
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó
người vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây tổn hại cho người khác phải đền bù những tổn

3


thất mà mình gây ra mà giữa người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và người
bị thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây
thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. Như vậy khi có tranh chấp về
vấn đề nêu trên thì Tòa án có thẩm quyền giai quyết.

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi
thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính (khoản 7 Điều 26).
Khi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính
không đúng theo quy định của pháp luật mà gây thiệt hại cho bên bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn thì bên khiếu nại hoặc cơ quan quản lý cạnh tranh, hội đồng cạnh
tranh có trách nhiệm bồi thường tùy vào từng trường hợp. Mức bồi thường do hai
bên tự thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện ra Tòa án
để giải quyết.2

- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo
quy định của luật tài nguyên nước (khoản 8 Điều 26 BLTTDS 2015).

Luật bảo vệ môi trường năm 2014 hiện hành quy định việc giải quyết các
tranh chấp môi trường được giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
BLTTDS năm 2015 đã quy định cách thức giải quyết những tranh chấp trên. Đây là
một bước tiến của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung
năm 2011 vì BLTTDS 2004 chưa đề cập đến các tranh chấp về môi trường một
cách cụ thể mà chỉ quy định trong các luật chuyên ngành.

- Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở
hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của luật bảo vệ và phát triển rừng (khoản 9
Điều 26 BLTTDS 2015).
Tranh chấp về đất đai là những tranh chấp về quyền sử dụng đất (có hoặc
không gắn với tài sản trên đất) và tranh chấp về tài sản (có thể gắn liền hoặc không

2 Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Hà Nội, 2015, Tr 37, 38.

4


gắn liền với đất). Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, Tòa án có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng chứng
nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, luật đất đai năm 1993, Luật
đất đai năm 2003 hoặc có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai
năm 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2014 quy định: “Khi có tranh chấp về
quyền sử dụng rừng đối với các loại rừng, quyền sở hữu rừng trồng do TAND giải
quyết”. do đó, căn cứ theo quy định này, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung và ghi
nhận thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu,
quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.

- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật

(khoản 10 Điều 26 BLTTDS năm 2015).
Những tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là những tranh chấp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân với
cơ quan báo chí khi có căn cứ cho rằng cơ quan báo chí thông tin sai sự thật, xuyên
tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình hoặc gây hiểu lầm
làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. 3

- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu (khoản 1
Điều 26 BLTTDS năm 2015).
Đối với loại tranh chấp này thì có 2 trường hợp: Thứ nhất, việc công chứng có
vi phạm pháp luật. Đây là trường hợp có vi phạm về thẩm quyền, thủ tục công
chứng; thứ hai, việc công chứng không vi phạm pháp luật. Đây là trường hợp việc
công chứng đúng về thẩm quyền và thủ tục, tuy nhiên người yêu cầu công chứng đã
làm giả mạo giấy tờ. Trong trường hợp này văn bản công chứng vẫn bị coi là vô
hiệu. Khi phát sinh tranh chấp từ hai trường hợp trên thì thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.

3 Xem khoản 1 Điều 42 Luật báo chí năm 2016.

5


- Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án.
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp khi xử lý tài sản của người phải thi hành
án lại phát sinh tranh chấp về quyền sở hữu tài sản đó với bên liên quan. Theo quy
định của Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì chủ sở hữu chung, các bên tranh
chấp, chấp hành viên hoặc tổ chức thi hành án có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án
xác định phần sở hữu riêng của người phải thi hành trong khối tài sản chung với
người khác trong trường hợp tài sản phải thi hành là tài sản thuộc sở hữu chung với
người khác nhưng các chủ sở hữu chung không khởi kiện.


- Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng kí mua tài sản
bán đấu giá theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự (khoản 13).
Theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2014, Tài sản kê biên được xử
lý bằng một trong ba phương thức: Giao tài sản kê biên cho người được thi hành
án; bán đấu giá và bán không qua thủ tục đấu giá. Trong trường hợp tài sản kê biên
được bán đấu giá thì người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản kê biên có
quyền nhận lại tài sản trước phiên đấu giá một ngày làm việc nếu nếu nộp đủ tiền
thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế
thi hành án, tổ chức bán đấu giá. Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả
phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản. Mức phí tổn do các bên thỏa
thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết 4. Trong trường hợp
không đồng ý với kết quả bán đấu giá thì đương sự, Chấp hành viên có quyền khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản.

b. Những tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn
(khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015).
Theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án giải quyết cho ly
hôn khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải không thành và nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
4 Xem khoản 5 Điều 105 Luật thi hành án dân sự 2014.

6


nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được.
Về vấn đề chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn thì Tòa án sẽ áp
dụng Điều 59 Luật hôn nhân gia đình 2014 về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ

chồng khi ly hôn để giải quyết. Về vấn đề tranh chấp nuôi con thì Tòa án sẽ căn cứ
vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 để giải quyết.

- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 2
Điều 28 BLTTDS năm 2015).
Trên thực tế, nhiều cặp vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vì một lý do nào đó
như mâu thuẩn với nhau trong việc quản lý tài sản, họ muốn độc lập về tài sản,…
nên họ muốn chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Trong trường hợp có tranh chấp
thì họ có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục quy định tại BLTTDS năm
2015 và quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (khoản 3 Điều 28).
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn thì theo yêu cầu của cha, mẹ thì Tòa án sẽ giải quyết, việc giải quyết phải dựa
theo quy định của luật hôn nhân và gia đình, có tính đến các quyền và lợi ích của
người con.
- Tranh chấp về xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ (khoản 4
Điều 8 BLTTDS năm 2015). Hiện nay, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp về xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng (khoản 5 Điều 28). Tòa án có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau;
giữa ông bà nội, ngoại và giữa vợ chồng khi ly hôn mà các bên không thỏa thuận
được.
- Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo (khoản 6 Điều 28 BLTTDS năm 2015). Lần đầu tiên luật Hôn nhân và gia
đình ghi nhận quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Vì vậy để phù hợp với quy định mới này, BLTTDS 2015 đã quy

7



định Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ trường
hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
- Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam nữ sông chung với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.
- Tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
c. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. (Điều 30 BLTTDS năm 2015).
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (khoản 1 Điều
30 BLTTDS năm 2015).
Dựa vào quy định này ta có thể ta có thể rút ra hai điều kiện để xác định thẩm
quyền của Tòa án đối với loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 30. Thứ
nhất, chủ thể của tranh chấp phải là các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau. Thứ hai, mục đích của các chủ thể khi đăng ký với nhau đều phải vì mục đích
lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận ở đây không phụ thuộc vào lợi nhuận đạt được ít hay
nhiều mà là mục đích ban đầu mà các chủ thể mong muốn đạt được.

- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân với
nhau và đều vì mục đích lợi nhuận. (khoản 2 Điều 30).
Đây là một loại tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.Để xác định tranh chấp nào là tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ thuộc những tranh chấp về kinh doanh thương mại thì tiêu
chí mục đích lợi nhuận là tiêu chí quyết định, đây là cơ sở để phân biệt với loại
tranh chấp dân sự, cụ thể là phân biệt với khoản 4 Điều 26 BLTTDS năm 2015.

- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty (khoản 3).
Trên thực tế, những tranh chấp này thường phát sinh từ việc hợp đồng chuyển

nhượng phần vốn góp bị vô hiệu, hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp bị vô
hiệu là do những nguyên nhân như giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp, cổ

8


phần vi phạm điều cấm của pháp luật và các trường hợp vi phạm về trình tự, thủ tục
chuyển nhượng phần vốn góp/ cổ phần. Vì vậy ta có thể thấy, chỉ những tranh chấp
phát sinh giữa những người chưa phải là thành viên của công ty từ giai đoạn chào
bán phần vốn góp/ cổ phần cho đến trước khi Phòng đăng ký kinh doanh cấp lại
giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho công ty (sau khi công ty gửi thông
báo) mới thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định tại khoản 3 Điều 30 BLTTDS năm
20155.

- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty
với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên hội đồng
quản trị, giám đốc tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty (khoản 4 Điều 30 BLTTDS năm 2015). Đây cũng là những tranh chấp trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND.
- Ngoài những tranh chấp nói trên, Tòa án cũng có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
d. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo Điều 32 BLTTDS năm 2015, những tranh chấp lao động thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án được quy định như sau: Các tranh chấp lao động cá
nhân giữa những người lao động với người sử dụng lao động trong trường hợp đã
hòa giải thành, nhưng một bên không thực hiện; hòa giải không thành hoặc vụ việc
không được đưa ra hòa giải trong thời hạn quy định. Tuy nhiên một số tranh chấp

lao động không bắt buộc phải hòa giải như: Xử lý kỷ luật lao động theo hình thức
sa thải; bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại, trợ cấp
khi chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với
người sử dụng lao động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và bồi
thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. đối với tranh chấp tập
5 Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Hà Nội, 2015, Tr 52.

9


thể về quyền giữa tập thể người lao động với người sử dụng lao động đã được Ủy
ban nhân dân cấp huyện giải quyết mà tập thể người lao động hoặc người sử dụng
lao động không đồng ý với quyết định đó hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp huyện không giải quyết. Các tranh chấp lao động này liên quan đế
học nghề, tập nghề, cho thuê lao động, quyền công đoàn, kinh phí công đoàn an
toàn vệ sinh lao động, bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp; tuyên bố
hợp đồng lao động, thỏa ước lao động vô hiệu; xét tính hợp pháp của cuộc đình
công.

2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết vụ án dân sự
là quyền của từng cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án, theo đó cấp tòa án có thẩm
quyền sẽ thực hiện các thủ tục giải quyết một vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm. Cụ
thể như sau:

a. Thẩm quyền của TAND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Căn cứ vào quy định của BLTTDS năm 2015 thì việc phân định thẩm quyền
chủ yếu dựa vào hai tiêu chí:
Thứ nhất, về nội dung của vụ án dân sự. Điều 35 BLTTDS năm 2015 đã quy

định TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của BLTTDS năm 2015, trừ
những tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành
chính không đúng theo pháp luật cạnh tranh quy định tại khoản 7 Điều 26 BLTTDS
năm 2015; tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30;
tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 BLTTDS năm 2015.
Thứ hai về tính chất của vụ án dân sự. Những vụ án dân sự vừa nêu trên chỉ
thực sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện khi những vụ
án đó không có tài sản hoặc đương sự ở nước ngoài hoặc không cần phải ủy thác tư
pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho tòa án nước ngoài,

10


nhưng trong trường hợp này có ngoại lệ đó là trừ các tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ
giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biện giới với công dân của nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.

b. Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Theo Điều 37 BLTTDS năm 2015 thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động, quy định tại Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS năm 2015, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35
BLTTDS 2015. Như vậy ta có thể thấy, BLTTDS năm 2015 phận định thẩm quyền
giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh phần lớn dựa vào tính chất của vụ án khó
hoặc mang tính đặc thù.
Ngoài ra, TAND cấp tỉnh còn có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35
BLTTDS năm 2015 mà TAND cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy

cần thiết hoặc theo đề nghị của TAND cấp huyện6.

3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Theo khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 thẩm quyền của Tòa án theo lãnh
thổ trong việc giải quyết vụ án dân sự được xác định theo ba phương thức.
Thứ nhất, Tòa án có thẩm quyền giải quyết được xác định là tòa án nơi bị đơn
cư trú, làm việc nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở nếu bị đơn là cơ
quan, tổ chức đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động. Việc quy định như vậy là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bị
đơn đến phiên tòa để tham gia tố tụng bởi trên thực tế, bị đơn là người bị buộc tham
gia tố tụng nên họ thường có tâm lý không muốn tham gia tố tụng. Ngoài ra quy

6 Xem khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

11


định này còn tạo điều kiện cho việc thu thập, xác minh chứng cứ của Tòa án và việc
thi hành án của cơ quan thi hành án.
Thứ hai, các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu tòa
án nơi cư trú, làm việc, trụ sở làm việc của nguyên đơn. Quy định này nhằm đảm
bảo sự tự do định đoạt của các bên thể hiện nguyên tắc tự do, tự nguyện, thỏa thuận
trong lĩnh vực dân sự. Hiện nay, chúng ta có thể thấy nhiều hợp đồng mà các bên
tham gia ký kết thường có điều khoản xác định tòa án nào sẽ có thẩm quyền giải
quyết khi xảy ra tranh chấp, đây chính là sự cụ thể hóa của quy định này.
Thứ ba, đối với các vụ án có đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ có
Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Trong thực tế quản lý đất đai
ở nước ta hiện nay, bất động sản thường chịu sự quản lý của chính quyền địa
phương, như vậy những giấy tờ, thủ tục liên quan đến bất động sản thường là do
chính quyền địa phương thực hiện, lưu trữ. Vì vậy việc quy định chỉ Tòa án nơi có

bất động sản có thẩm quyền giải quyết là hợp lý bởi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
Tòa án trong việc thu thập, xác minh chứng cứ; trưng cầu giám định; định giá bất
động sản, từ đó làm cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và đúng đắn hơn.

4. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Khoản 1 Điều 40 quy định nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động trong
một số trường hợp:
Thứ nhất, nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc,có trụ sở cuối cùng hoặc nơi
bị đơn có tài sản để giải quyết. (điểm a khoản 1 Điều 40). Như vậy với quy định
này sẽ giải quyết được những trường hợp bị đơn là cá nhân thường xuyên thay đổi
nơi cứ trú gây khó khăn trong việc xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết như
trước kia. Trong trường hợp không xác định được nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối
cùng thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết sẽ là Tòa án nơi có bị đơn có tài sản ở đó.

12


Trường hợp đối với trụ sở cuối cùng của tổ chức thường sẽ xác định qua địa chỉ ghi
trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì
nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi
nhánh giải quyết (điểm b khoản 1 Điều 40). Việc BLTTDS năm 2015 quy định Tòa
án nơi có chi nhánh của tổ chức cũng có thẩm quyền giải quyết khi có yêu cầu của
nguyên đơn là nhằm tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án của Tòa án cũng việc
tham gia tố tụng của nguyên đơn. Về phía Tòa án thì sẽ có thuận lợi trong việc điều
tra, thu thập, xác minh chứng cứ; đối với nguyên đơn thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại của họ khi chi nhánh thường cách xa công ty.
Thứ ba, nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ

án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư
trú, có trụ sở để giải quyết. (điểm c khoản 1 Điều 40).
Thứ tư, nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt
hại giải quyết (điềm d khoản 1 Điều 40). Quy định này nhằm tạo điều kiện cho Tòa
án tiếp cận nơi xảy ra thiệt hại để thu thập, xác minh chứng cứ được nhanh chóng
và chính xác.
Ngoài ra nguyên đơn còn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp
trong một số trường hợp như: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm
dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao
động khác đối với người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc
giải quyết (điểm đ khoản 1 Điều 40); tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động
của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có quyền yêu
cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc
người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc, giải quyết (điểm e
khoản 1 Điều 40); tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết (điểm g khoản 1 Điều 40);
13


nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở những nơi khác nhau thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
tranh chấp bất động sản mà bất động sản có nhiều ở nhiều địa phương khác nhau
thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
(điểm i khoản 1 điều 40).

II.

MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ.

Qua quá trình tìm hiểu cũng như phân tích quy định của BLTTDS năm 2015

về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, tôi xin nêu ra một số
bất cập, sau đó sẽ đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần làm pháp luật
tố tụng dân sự ngày càng hoàn thiện hơn.

1. Một số bất cập.
Thứ nhất, theo khoản 6 Điều 28 BLTTDS năm 2015 thì tòa án có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Vậy trong trường hợp tranh chấp phát sinh từ việc mang thai hộ
vì mục đích thương mại sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Đây là
vấn đề mà BLTTDS năm 2015 chưa quy định.
Thứ hai, khoản 3 Điều 30 quy định “tranh chấp giữa người chưa phải là
thành viên công ty nhưng có giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp với công ty,
thành viên công ty” là một tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án. Theo tôi việc chỉ quy định “giao dịch chuyển nhượng phần
vốn góp” là chưa đủ bởi khoản 21 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định
“Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp
vào công trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh”. Như vậy, thuật ngữ “phần vốn
góp” theo quy định này chỉ được áp dụng riêng cho hại loại hình công ty đó là công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều
giao dịch chuyển nhượng cổ phần của công ty cổ phần. Vậy BLTTDS năm 2015 chỉ
quy định những tranh chấp từ giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp như vậy có
phải là bỏ sót các giao dịch chuyển nhượng cổ phần hay ý định của nhà làm luật

14


bao quát cả những giao dịch đó nhưng việc sử dụng thuật ngữ còn chưa đầy đủ,
chính xác.


2. Một số kiến nghị.
Từ việc chỉ ra một số bất cập như trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị như
sau:
Thứ nhất, cần bổ sung thêm quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối
với những tranh chấp phát sinh từ việc mang thai về mục đích thương mại bởi trong
tương lai rất có thể sẽ có nhiều tranh chấp như vậy xảy ra. Việc bổ sung thêm quy
định này sẽ giúp cho những tranh chấp đó được Tòa án thụ lý và giải quyết nhanh
chóng hơn.
Thứ hai, cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 30 BLTTDS năm 2015 về vấn
đề sử dụng thuật ngữ “phần vốn góp”. Theo tôi cần được sửa đổi như sau: “tranh
chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch chuyển
nhượng phần vốn góp, cổ phần với công ty, thành viên công ty”. Việc quy định như
vậy sẽ bao quát được hết mọi hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp/ cổ phần của
các công ty, đồng thời sẽ tạo ra tính thống nhất cao đối với các luật chuyên ngành.
KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu và phân tích những quy định của BLTTDS năm 2015 về
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án chúng ta đã hiểu rõ hơn quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này. Cũng qua việc phân tích các quy định
của BLTTDS năm 2015 về vấn đề trên tôi đã chỉ ra một số những quy định còn
chưa đầy đủ. Hy vọng đây là những ý kiến đóng góp hữu ích trong việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Hà
Nội, 2017.

2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
3. Luật hôn nhân và gia đình 2014
4. Luật doanh nghiệp năm 2014.
5. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 – sửa đổi bổ sung năm 2011.

16


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự.
TAND: Tòa án nhân dân.

17



×