Tải bản đầy đủ (.ppt) (36 trang)

Tài liệu SỰ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG TẾ BÀO MÁU docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.8 KB, 36 trang )


SỰ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG
TẾ BÀO MÁU

I. ĐẠI CƯƠNG
Tạo máu là quá trình sinh sản và biệt
hóa của các tế bào tạo máu bắt đầu từ
tế bào gốc vạn năng cho đến các dòng
tế bào máu trưởng thành. Quá trình
này diễn ra liên tục từ thời kỳ phôi
thai đến lúc tuổi già và được điều hòa
bởi các cơ chế điều hòa tạo máu.

II. VỊ TRÍ TẠO MÁU
Vị trí tạo máu phụ thuộc vào giai
đoạn phát triển cá thể: thời kỳ phôi
thai, trẻ, già và hiện trạng của bệnh
tạo máu.
2.1. Thời kỳ phôi thai
2.2. Thời kỳ sau sinh

2.1. Thời kỳ phôi thai

Trong suốt quá trình phát triển trước sinh, vị
trí tạo máu thay đổi nhiều lần.

Đặc điểm sinh máu ở bào thai là một quá trình
biệt hóa không ngừng và mạnh mẽ. Lúc đầu
sinh máu lan tỏa: ở đâu có mảnh trung mô là ở
đó có sinh máu, về sau khu trú dần: lách, hạch
và tủy xương chiếm vị trí hàng đầu.



Mỗi cơ quan sinh máu cũng tiến hóa rõ rệt, lúc
đầu sinh máu cả 3 dòng, về sau chỉ sinh máu
một dòng như lách, hạch chỉ sinh lympho.

2.2. Thời kỳ sau sinh

Thời kỳ sơ sinh, tạo máu được thực hiện ở
tất cả các khoang tủy xương và phần rất
nhỏ của gan. Trong thời kỳ này và thời kỳ
trẻ em tất cả các xương đều tạo máu. Tuy
nhiên, từ 5 tuổi trở đi, khả năng tạo máu
giảm dần ở các xương chi, đến 20 tuổi các
xương dài không còn khả năng tạo máu; chỉ
còn lại các xương chính của khung xương
như xương chậu, xương ức, xương sống,
xương sườn, xương sọ tiếp tục tạo máu và
duy trì cho đến tuổi già.

- Ở thời kỳ sau sinh, cùng với những thay đổi về vị
trí tạo máu còn có các thay đổi về hình thái và
cấu trúc của tủy. Tủy có hai phần rõ rệt:

Tủy đỏ: Vùng này có rất nhiều tế bào nguồn
tạo máu và tế bào máu đang biệt hóa hoặc
trưởng thành.

Tủy vàng: vùng chứa tế bào mỡ, tế bào mỡ
xâm lấn vùng tạo máu và hạn chế khả năng
sinh máu của tủy

- Ở người trưởng thành, các tế bào gốc tạo máu cư
trú chủ yếu ở tủy xương. Một số ít cư trú ở lách
và một số rất ít lưu hành trong máu ngoại vi.

2.3. Khái quát về tủy tạo máu

Mỗi ngày, tủy xương sản xuất khoảng 6
tỷ tế bào máu (gồm 2,5 tỷ hồng cầu; 2,5
tỷ tiểu cầu và 1 tỷ bạch cầu hạt) cho
mỗi kilogram cân nặng cơ thể.

Tốc độ tạo máu thay đổi theo nhu cầu
của cơ thể, có thể rất thấp hoặc tăng
cao nhiều lần so với bình thường.

2.4. Vi môi trường tạo máu
- Gồm các tế bào đệm và chất đệm gian bào.
- Vi môi trường tủy xương tham gia điều hòa
tạo máu thông qua các hoạt động cơ bản sau:

Thông tin trực tiếp qua sự tiếp xúc chặt
chẽ giữa các tế bào với nhau.

Làm ổn định các yếu tố tăng trưởng qua
việc gắn với các chất đệm gian bào hoặc
protein màng tế bào.

Tạo ra cả chất kích thích và chất ức chế
tạo máu.


Chứa các yếu tố tăng trưởng lẫn tế bào tạo
máu trong cùng một mạng lưới rất chặt chẽ
và khu trú.

III. TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU
3.1. Tế bào gốc vạn năng (pluripotential stem cell)
- Đây là tế bào mẹ của tất cả các dòng tế bào máu
trong cơ thể. Tế bào gốc vạn năng sinh ra các tế
bào gốc khác theo nhu cầu của cơ thể. Tế bào này
vừa có khả năng tự tái sinh để duy trì nguồn tế bào
đầu dòng, vừa có khả năng biệt hoá thành bất kỳ
một dòng tế bào gốc đa năng định hướng nào.
- Khả năng biệt hóa vạn năng là khả năng biệt hóa
thành mọi dòng tế bào của hệ thống máu - tạo máu.
- Phần lớn tế bào gốc vạn năng “ngủ yên” rất lâu.
Tuy nhiên, các tế bào này rất mềm dẻo và linh hoạt
trong việc đi vào chu trình phân bào. Các tế bào
này sẽ đi nhanh vào phân bào khi có kích thích của
các cytokine tương ứng hoặc sau khi đậu ghép.

III. TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU
3.2. Các tế bào gốc đa năng định hướng
(multipotential stem cells)
3.2.1. Tế bào gốc đa năng định hướng sinh tuỷ
- Là tế bào gốc sớm nhất có thể phát hiện trên
nuôi cấy tế bào tuỷ xương, gọi là CFU-GEMM
(colony forming unit- granuloid, erythroid,
macrophage and megakaryocyte). Các tế bào
này vẫn còn khả năng tự tái sinh để duy trì
nguồn tế bào gốc đa năng, nhưng không thể

quay trở lại thành tế bào gốc vạn năng được.
- Tế bào gốc đa năng định hướng sinh tuỷ sẽ biệt
hoá để thành các tế bào gốc đơn năng định
hướng của một dòng tế bào máu như dòng
hạt- mono (CFU- GM), dòng hồng cầu (BFU-
E, CFU- E) và dòng mẫu tiểu cầu (CFU-
megakaryocyte).

III. TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU
3.2. Các tế bào gốc đa năng định hướng
(multipotential stem cells)
3.2.2. Tế bào gốc đa năng định hướng sinh lympho
- Phát triển thành hai dòng tế bào tiền thân rồi
sau đó biệt hoá thành lympho T và lympho B.
- Tế bào tiền thân dòng NK có lẽ cũng được sinh
ra từ tế bào gốc này.
- Giai đoạn thành thục sau cùng của lympho B và
T chỉ được hoàn thành tại cơ quan lympho
chuyên biệt ở ngoại vi

IV. Sinh máu dòng hồng cầu:

Từ tế bào nguồn đầu dòng (CFU-E), dưới
tác động của erythropoietin (EPO), tế bào
đầu dòng của hồng cầu được tạo ra, gọi là
tiền nguyên hồng cầu (proerythroblast).


Một tiền nguyên hồng cầu sinh ra 2 nguyên
hồng cầu ưa base I (erythroblast basophi I)

và thành 4 nguyên hồng cầu ưa base II. Tuy
nhiên dưới kính hiển vi quang học, không
thể phân biệt được nguyên hồng cầu ưa
base I và nguyên hồng cầu ưa base II.

IV. Sinh máu dòng hồng cầu:

Một nguyên hồng cầu ưa base sinh ra 2
nguyên hồng cầu đa sắc ( erythroblast
polycromatophil) Đây là giai đoạn cuối
cùng tế bào cón khả năng nhân đôi trong
quá trình biệt hóa dòng hồng cầu.

Nguyên hồng cầu ưa acid (erythroblast
acidophil) được tạo ra do nguyên hồng
cầu đa sắc nhân đôi. Giai đoạn này, sự
tổng hợp huyết sắc tố đã gần xong, tế bào
không còn phân bào nữa.

IV. Sinh máu dòng hồng cầu:

Hồng cầu lưới (reticulocyte) là giai đoạn
cuối cùng của sự trưởng thành dòng hồng
cầu còn vết tích nhân. Kích thước tế bào
bằng hoặc to hơn tế bào hồng cầu trưởng
thành một ít ( đường kính 7-11 μm ). Hồng
cầu lưới ở lại tủy xương khoảng 24h thì
được phóng thích ra máu ngoại vi. Tại đây,
chúng tồn tại thêm 24-48h nữa ở trạng thái
“lưới” rồi mất nhân hoàn toàn để trở thành

hồng cầu trưởng thành. Hồng cầu lưới ở
máu ngoại vi được coi là sự hiện diện của
khả năng sinh hồng cầu của tủy xương. Khi
hồng cầu lưới tăng nghĩa là tủy xương đang
tạo hồng cầu mạnh mẽ.

IV. Sinh máu dòng hồng cầu:

Hồng cầu trưởng thành có hình đĩa lõm 2
mặt, đường kính 7-8 μm, dày 1-3 μm,
không có nhân.Trên tiêu bản máu nhuộm
Giemsa, hồng cầu bắt màu đỏ hồng, ở giữa
có khoảng sáng tròn.

V.DÒNG TIỂU CẦU

Tiểu cầu là tế bào chức phận xuất hiện
ở máu ngoại vi, được sinh ra trong tuỷ
xương bởi các tế bào mẹ: mẫu tiểu cầu.

Khác với các dòng tế bào khác, mẫu
tiểu cầu có quá trình phân chia nội bào
nên càng trưởng thành càng có kích
thước lớn, đường kính đạt tới hàng
trăm µm đường kính.

V.DÒNG TIỂU CẦU
Quá trình sinh máu tiểu cầu:

Nguyên mẫu tiểu cầu (Megacaryoblaste )



Mẫu tiểu cầu ưa kiềm (Megacaryocyte Basophile)


Mẫu tiểu cầu hạt (Megacaryocyte Granuleux)


Mẫu tiểu cầu sinh tiểu cầu ( Mega
Thromboxytogen)


Tiểu cầu (Thromboxyte Plaquette)

V.DÒNG TIỂU CẦU
Tiểu cầu trưởng thành:

Là tế bào nhỏ nhất trong máu tuần hoàn
với số lượng bình thường từ 150-
350x103/mm3 hình đĩa dẹt đường kính 1-
3µm và dày 1µm.

VI. DÒNG BẠCH CẦU

Có 3 dòng bạch cầu hạt trung tính, ái toan,
ái kiềm.

Ba dòng này có nhiều đặc điểm về hình
dạng, các giai đoạn trưởng thành và thuộc
tính chất chức phận giống nhau nên được

trình bày chung trong dòng bạch cầu hạt
tung tính, và chỉ nêu lên những khác biệt
của hai dòng bạch cầu hạt ái toan và ái
kiềm mà thôi.

6.1 Dòng bạch cầu hạt trung tính:
Trong quá trình trưởng thành của dòng: nhân
tế bào thắt lại thành đoạn. Đây là đặc điểm
đặc trưng, chính hình ảnh nhân nhiều đoạn
mà người ta gọi tên một cách nhầm lẫn là
bạch cầu đa nhân.

Nguyên tuỷ bào

Tiền tuỷ bào

Tuỷ bào (Myelocyte)

Hậu tuỷ bào ( Metamyelocyte)

Bạch cầu hạt chia đoạn hay chia múi
(Segment)

Nguyên tuỷ bào:

Tế bào tròn đều hay không đều, đường
kính khoảng 20-25 µm.

Nhân hình tròn hoặc oval, lớn, chiếm
khoảng 6-8/10 tế bào, cấu trúc nhiễm sắc

mảnh, mịn, chứa 2 hoặc nhiều hạt nhân rõ.

Nguyên sinh chất ưa kiềm sáng, đậm hơn
ở ngoại vi, chứa hạt azurophil ít hoặc
nhiều.

Tiền tuỷ bào

Tế bào tròn, đều, đường kính khoảng
20 µm.

Nhân tròn hoặc oval, cấu trúc nhiễm
sắc bắt đầu đậm hơn, dày hơn. Hạt
nhân có thể còn thấy rõ hoặc bị che lấp
bởi cấu trúc chất nhiễm sắc.

Phản ứng peroxydaza và soudan đen
dương tính mạnh.

Tuỷ bào (Myelocyte):

Tế bào tròn, đường kính 12-18 µm.

Nhân tròn, chiếm khoảng 1/2 tế bào, cấu
trúc nhiễm sắc đã trở nên đậm thô, tụ
thành nhiều đám, không còn thấy hạt
nhân.

Nguyên sinh chất đã hoàn toàn bắt màu
hồng, chỉ còn thấy hạt đặc hiệu trung tính.


Phản ứng soudan đen và peroxydaza
dương tính mạnh.

Hậu tuỷ bào ( Metamyelocyte):

Có tất cả các đặc điểm của tuỷ bào nhưng
ở mức độ trưởng thành hơn: kích thước
nhỏ hơn, nhân nhỏ lại và bắt đầu thắt
thành hình hạt đậu cho đến hình móng
ngựa với cấu trúc nhiễm sắc đậm đặc tụ
lại thành từng đám lớn. Nguyên sinh chất
chứa đầy các hạt đặc hiệu.

Đây là tế bào trẻ nhất của dòng có thể
xuất hiện ở máu ngoại vi trong tình trạng
bình thường, nhưng với tỷ lệ thấp (1-5%).

Bạch cầu hạt chia đoạn hay chia múi
(Segment):

Tế bào tròn, đường kính 12-14 µm.

Nhân thắt lại thành từng đoạn, lúc đầu chia
thành hai đoạn, sau đó tế bào càng già, càng
chia thành nhiều đoạn. Bình thường ở máu
ngoại vi nhân bạch cầu thường có 2-4 đoạn
(nhiều nhất 3 đoạn) ít khi trên 5 đoạn. Dựa
vào đặc điểm này người ta đưa ra công thức
Arneth và chỉ số biến động nhân Schilling để

đánh giá tình trạng đáp ứng của dòng bạch
cầu hạt.

×