Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tài liệu CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG TRONG TỪNG NỘI DUNG. doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.12 KB, 16 trang )









CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
TRONG TỪNG NỘI DUNG

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 – 2006
Ngoại thương: Thể chế
và tác động
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 1 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
TRONG TỪNG NỘI DUNG

Người ta cần phân biệt giữa những chính sách giảm hàng rào thương mại tại biên giới và
những chính sách bổ trợ “đàng sau biên giới các nước” có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
cải cách chính sách ngoại thương. Hệ thống chính sách đầu tiên tập trung vào việc tạo ra các
động cơ khuyến khích tăng trưởng hiệu quả thông qua giảm mức bảo hộ bình quân và giảm
tình trạng bảo hộ lan tràn, loại bỏ các hàng rào phi thuế (non-tariff barriers - NTBs) và củng
cố các thể chế nhà nước nhằm đảm bảo hàng hoá lưu thông xuyên biên giới với chi phí giao


dịch thấp (nghĩa là những thể chế hải quan mà hạn chế tới mức tối thiểu tệ nạn quan liêu
nhũng lạm). Hệ thống chính sách thứ nhì liên quan đến các tiêu chuẩn và chính sách qui định
nhằm đảm bảo rằng sự đáp ứng trên khía cạnh cung của thị trường trước sự tự do hoá có tính
hiệu quả, ổn định, và lâu dài. Những vấn đề quan trọng ở đây bao gồm việc tự do hoá ngoại
thương trong lĩnh vực dịch vụ để tăng cường sức cạnh tranh, các chính sách đẩy mạnh tiếp
cận thông tin và công nghệ, và củng cố các thể chế nhằm đạt được lợi ích từ việc tham gia
vào các hiệp định thương mại đa phương và khu vực.
Các chương trong tập tài liệu này tập trung vào các khía cạnh của chương trình chính
sách bổ trợ. Một chiến lược phát triển thương mại và tăng trưởng bền vững phải được đóng
khung trong một môi trường nâng đỡ kinh tế vĩ mô thích hợp và gắn với chiến lược xoá đói
giảm nghèo và phát triển toàn diện. Những nỗ lực cải cách thể chế bổ trợ và những cải tiến
trong môi trường pháp lý và qui định giúp nâng cao niềm tin của nhà đầu tư sẽ có ý nghĩa
sống còn nếu sự tự do hoá thương mại đóng vai trò như một động lực tăng trưởng. Những
yếu tố then chốt của chương trình chính sách ngoại thương “đàng sau biên giới các nước”
bao gồm những thể chế qui định hiệu quả, những thể chế mà ủng hộ sự tham gia vào thị
trường quốc tế của các doanh nghiệp nước nhà, và những biện pháp tăng cường sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp này thông qua việc mang lại sự tiếp cận với các yếu tố đầu vào
dịch vụ quan trọng. Trong chương 1, Dani Rodrik sẽ xem xét một số vấn đề này.
Chính sách ngoại thương đã trở nên ngày càng phức tạp trong thập niên vừa qua, và
người ta cũng không rõ nơi khởi đầu cũng như điểm kết thúc của nó là ở đâu. Điều mà người
ta biết rõ là cách tiếp cận tiêu chuẩn trong hầu hết các sách giáo khoa – tập trung vào các
công cụ chính sách được áp dụng tại biên giới các nước và ảnh hưởng đến giá trong nước của
hàng hoá hay giá xuất khẩu (thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, và thuế nội địa) – thì
thật là hạn hẹp. Trên thực tế, chính sách ngoại thương bao gồm tất cả những chính sách có
ảnh hưởng phân biệt chống lại các nhà cung ứng hàng hoá, dịch vụ và yếu tố sản xuất nước
ngoài (yếu tố sản xuất bao gồm tri thức, lao động, và vốn); chính sách ngoại thương còn thể
hiện trong sự vận hành các thể chế mà ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại một nước. Sự
thừa nhận rằng chính sách ngoại thương bao trùm một phạm vi rộng hơn nhiều so với các
chính sách tại biên giới ý muốn nói rằng chính phủ các nước và các xã hội dân chính phải có
một tiêu điểm rộng lớn và phải xem xét đến các mối quan hệ hỗ tương giữa các lĩnh vực

chính sách khác nhau và sự hoạt động cũng như tính hữu hiệu của các thể chế hiện hữu. Kym
Aderson trong chương 2 sẽ nhấn manh vào nhu cầu phải có một tầm nhìn bao quát trên bình
diện tổng thể nền kinh tế đối với việc cải cách chính sách ngoại thương.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 2 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

Những yếu tố bổ trợ then chốt thường xác định sự thành công của cải cách chính sách
ngoại thương là tỷ giá hối đoái thực và khả năng của chính phủ duy trì được các đối tượng
thu ngân sách. Như Howard J. Charz và David G. Tarr sẽ dẫn chứng bằng tư liệu trong
chương 3, cho dù các nước có thể duy trì những cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau, việc để cho
tỷ giá hối đoái thực lên giá đáng kể theo thời gian thường dẫn đến sự thất bại của cải cách
ngoại thương. Chương 4 của tác giả Liam Ebrit, Janet Stotsky và Reint Gropp sẽ xem xét các
ý nghĩa về mặt thu chi ngân sách của sự tự do hoá mậu dịch. Số thu thuế nhập khẩu vẫn có ý
nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia có thu nhập thấp. Khi theo đuổi các cuộc cải cách
thuế quan xuất nhập khẩu sâu xa hơn, người ta phải nỗ lực phát triển cơ sở thuế nội địa để
thay thế và đảm bảo rằng sự trông cậy vào nguồn thu thuế qua xuất nhập khẩu nhất thiết sẽ
không làm biến dạng các động cơ thôi thúc việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. Kinh
nghiệm giữa các nước cho thấy rằng cải cách chính sách có thể được thiết kế để duy trì chứ
không phải để làm tăng thu ngân sách.
Cho dù các nghiên cứu hiện có cho thấy rằng tự do hoá mậu dịch về mặt tổng quát
làm giảm nghèo, nhưng một số thành phần trong lớp người nghèo có thể bị thiệt thòi, và
trong chương 5, L. Alan Winters sẽ xem xét các mối tương tác giữa cải cách ngoại thương và
xoá đói giảm nghèo. Những chương trình cải cách ủng hộ tự do hoá mậu dịch phải được bổ
trợ bằng những nỗ lực củng cố mạng lưới an sinh xã hội. Vì một số người nghèo có thể

nghèo túng đến nỗi bất kỳ sự giảm thu nhập ít nhiều nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng cùng cực,
nên điều quan trọng là nhận diện những người nào trong số họ có thể bị ảnh hưởng tiêu cực
của cải cách và xác định một hệ thống chính sách thích hợp nhất để hỗ trợ cải cách ngoại
thương.
Một thông điệp then chốt thể hiện trong các chương của tập tài liệu này là nhu cầu
cần phải có sự phân tích không chỉ tập trung vào chính sách ngoại thương theo định nghĩa
hẹp mà còn tập trung vào các chính sách và thể chế bổ trợ cần thiết để cải cách ngoại thương
làm lợi cho xã hội. Việc phân tích như thế sẽ bao gồm việc chẩn đoán tình hình hiện tại, so
sánh trong mối quan hệ với các kiểu mẫu thực tế tốt và các đối thủ cạnh tranh, xác định ý
nghĩa về mặt động cơ khuyến khích và về mặt tái phân phối của những chính sách hiện tại và
những thay đổi khả dĩ, và nhận diện những hành động bổ trợ cần thiết để làm cho cải cách
ngoại thương trở thành một thành phần hữu hiệu của chiến lược tăng trưởng giảm nghèo.
Bài đọc thêm
Jeffrey Sachs và Andrew Warner, “Cải cách kinh tế và quá trình hội nhập toàn cầu,”
Brookings Papers on Economic Activity, 1 (1995): 1-118, là một bài đọc khái quát và nghiên
cứu thực nghiệm có ảnh hưởng, trong đó các tác giả đã tìm ra một mối quan hệ đồng biến rõ
rệt giữa mở cửa và thành quả kinh tế. Dani Rodrik, Phải chăng toàn cầu hoá đã đi quá xa?
(Washington D.C.: Viện Kinh tế Quốc tế, 1997), mang đến một cái nhìn hoài nghi về lợi ích
của toàn cầu hoá đối với tăng trưởng và phúc lợi khi không có các thể chế và chính sách cần
thiết để quản lý những rủi ro bất lợi. Giải thích về ảnh hưởng của các chiến lược thay thế
nhập khẩu hướng nội phổ biến trong những năm 60 và 70 cũng như sự chuyển biến thiên về
các chính sách hướng ngoại trong thập niên 80 được Jagdish Bhagwati trình bày trong Chủ
nghĩa bảo hộ (Cambridge Mass.: Nhà xuất bản MIT, 1988). Edward Buffie, Chính sách
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 3 Biên dịch: Kim Chi

Hiệu đính: Quang Hùng

ngoại thương tại các nước đang phát triển (Cambridge, U.K.: Nhà xuất bản trường đại học
Cambridge, 2001), phân tích chính sách ngoại thương trong một khuôn khổ hoà nhập cho
phép có sự thay đổi động học về kinh tế và đưa vào các đặc điểm cơ cấu của các quốc gia
đang phát triển. Neil McCulloch, L. Alan Winters và Xavier Cirera, Tự do hoá mậu dịch và
đói nghèo: Sổ tay (London: Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Kinh tế, 2001) xem xét toàn
diện các mối quan hệ giữa ngoại thương và đói nghèo trong bối cảnh Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 4 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng


Chương 1
CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG LÀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ
Dani Rodrik
Các nhà kinh tế học được đào tạo để suy nghĩ về cải cách chính sách ngoại thương dựa theo
những thay đổi về mức thuế quan và các biện pháp hạn chế định lượng (QRs), và sự thay đổi
mức giá tương đối xảy ra do những thay đổi này. Họ dùng các mô hình kinh tế, được bổ sung
bằng các giá trị ước lượng về độ co giãn để phân tích ý nghĩa của những thay đổi về thuế
quan và các biện pháp hạn chế định lượng đối với sản xuất, tiêu dùng và ngoại thương. Bằng
cách cắt xén và sắp xếp thích hợp các mô hình này, họ có thể dự đoán những tác động có thể
có đối với công việc làm, đói nghèo và phân phối thu nhập, cân bằng kinh tế vĩ mô và ngân
sách chính phủ. Nếu họ có nhiều tham vọng (táo bạo?), họ cũng sẽ phán xét về tính hiệu quả

động, tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Các nhà hoạch định chính sách thường có một cách nhìn khác về cải cách ngoại
thương. Đối với họ, những thay đổi thực tế của biểu thuế quan xuất nhập khẩu thường chỉ là
một phần nhỏ của tiến trình. Điều quan trọng là sự chuyển biến sâu sắc hơn của kiểu hành vi
trong phạm vi khu vực công, và của mối quan hệ giữa chính phủ với khu vực tư nhân và phần
còn lại của thế giới. Phạm vi cải cách ngoại thương không chỉ bao trùm mức thuế quan và
các biện pháp hạn chế định lượng: Nó ấn định các luật lệ và những kỳ vọng mới về cách thức
thiết lập và thực hiện những quyết định chính sách này, thiết lập những ràng buộc và cơ hội
mới cho chính sách kinh tế bao quát hơn, tạo ra các thành phần có liên quan (stakeholders)
mới đồng thời phế truất những thành phần có liên quan cũ, và dẫn tới một triết lý mới (cùng
với những lời lẽ tu từ mới) về việc chính sách phát triển sẽ nhắm vào vấn đề gì. Vì vậy, cải
cách ngoại thương đề cập đến nhiều vấn đề hơn chứ không chỉ là sự thay đổi mức giá tương
đối: nó dẫn đến những cải cách thể chế thuộc vào loại chủ yếu.
Trong ngôn ngữ kinh tế học, cải cách thể chế không chỉ làm thay đổi các thông số
chính sách mà còn làm thay đổi các mối quan hệ hành vi. Vì lẽ đó, các hệ quả động và các hệ
quả về mặt phân bổ nguồn lực của cải cách ngoại thương trở nên khó nhận thức hơn bằng
kiểu phân tích từng là vốn liếng của các nhà kinh tế học ứng dụng trong thương mại. Hành vi
động thái của các hộ gia đình và các quyết định đầu tư thay đổi theo những cách thức mà
người ta khó có thể theo dõi được nếu không có kiến thức về “các thông số bí ẩn” của nền
kinh tế. Khi cải cách được thiết kế chu đáo và nhất quán với nhu cầu về thể chế của nền kinh
tế, nó có thể thúc đẩy những mức tăng trưởng kinh tế và tinh thần kinh doanh năng động một
cách bất ngờ. Khi không được thiết kế kỹ lưỡng và không phù hợp, cải cách có thể dẫn đến
sự đình trệ đáng kinh ngạc.
Việc nhìn nhận cải cách ngoại thương là cải cách thể chế giúp ta xác định những tiêu
chí để qua đó người ta sẽ đánh giá cải cách. Lập luận chính của tôi trong chương này là: tiêu
chí thích hợp không phải là sự mở cửa mà cũng chẳng phải là sự nhất quán với các qui tắc
của Tổ chức Thương mại Thế giới.
1
Tiêu chuẩn so sánh có ý nghĩa quan trọng là mức độ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa

Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 5 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

đóng góp của cải cách ngoại thương cho việc xây dựng một môi trường thể chế chất lượng
cao ở nước nhà. Giả thiết của tôi, được hỗ trợ bằng những chứng cứ thực nghiệm mà tôi sẽ
nhắc đến dưới đây, cho rằng: một môi trường thể chế chất lượng cao sẽ mang đến những
phần thưởng kinh tế lớn lao hơn so với cơ chế mậu dịch tự do hay việc nhất quán với các qui
tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Trên thực tế, có thể có sự lan truyền quan trọng nào đó giữa các mục tiêu này. Ta hãy
đưa ra một ví dụ minh họa quan trọng, cơ chế mậu dịch tự do có thể làm giảm sự hối lộ và
hoạt động tìm kiếm đặc lợi gắn liền với các biện pháp can thiệp về ngoại thương. Tương tự,
các bó buộc về thuế quan của Tổ chức Thương mại Thế giới có thể giúp người ta có khả năng
dự đoán được tốt hơn về các động cơ khuyến khích và củng cố quyền sở hữu – hai thuộc tính
quan trọng của một khuôn khổ thể chế chất lượng cao. Nhưng cho dù mậu dịch tự do và các
qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới có thể góp phần vào sự hình thành các thể chế chất
lượng cao, nhưng những thể chế này không phải là một và không giống nhau. Sự phát triển
thể chế phải mất thời gian và thường đòi hỏi những chọn lựa phi chính thống và chệch
hướng. Một số trường hợp phát triển thu hút chú ý nhất trong thời kỳ hậu chiến tranh là sản
phẩm của những thể thức cải cách song hành, tiệm tiến (Rodrik 2000b). Kiểu đầu tư vào xây
dựng thể chế cần thiết cho sự nhất quán trọn vẹn với các hiệp định của Tổ chức Thương mại
Thế giới về đánh giá hải quan hay quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) chẳng hạn, có thể chẳng phải
là ưu tiên hàng đầu trong công việc của các quốc gia thu nhập thấp mà có những nhu cầu cấp
thiết hơn (Finger và Schuler 2000). Vì nguồn nhân lực, năng lực hành chính, và vốn chính trị
thì khan hiếm, đặc biệt tại các nước đang phát triển, nên các nhà hoạch định chính sách cần
có sự cảm nhận tinh tế về những điều ưu tiên hàng đầu.

Một ý nghĩa của mạch lập luận này là: chúng ta nên suy nghĩ về cơ chế mậu dịch tự
do và các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới như những yếu tố sẵn sàng để phục vụ
cho các nhu cầu về thể chế của các nước đang phát triển, chứ không phải ngược lại. Hiểu
được điều này, chính phủ các nước có thể thực hiện được cải cách ngoại thương một cách tốt
đẹp.
Những điều kiện tiên quyết về mặt thể chế để phát triển
Cải cách giá cả – trong ngoại thương, trên thị trường lao động và thị trường sản phẩm, trong
tài chính và trong thuế khoá – là lời kêu gọi đồng thanh của các nhà cải cách trong thập niên
80, cùng với bình ổn kinh tế vĩ mô và tư nhân hoá. Cho đến thập niên 90, người ta thấy rõ
ràng là các động cơ khuyến khích không có tác dụng, hoặc chỉ mang đến những kết quả sai
lầm khi không có sự hiện diện của các thể chế thỏa đáng. Có ba loại phát triển khác biệt nhau
hợp lại giúp đưa thẳng các thể chế vào chương trình hoạt động của các nhà cải cách. Một là
sự thất bại thảm hại trong cải cách giá cả và tư nhân hoá ở nước Nga khi thiếu vắng các công
cụ pháp lý, qui định và chính trị nâng đỡ. Hai là tình trạng không thỏa mãn kéo dài với những
cuộc cải cách định hướng thị trường ở châu Mỹ La tinh và nhận thức ngày càng tăng rằng các
cuộc cải cách này đã không chú ý đến các cơ chế bảo hiểm và mạng lưới an sinh xã hội. Thứ
ba và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á, cho thấy rằng việc để cho tự do
hoá tài chính chạy trước qui định điều tiết tài chính là tạo điều kiện cho thảm hoạ xảy ra. Một
số nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã bộc lộ rõ tầm quan trọng của các thể chế chất lượng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 6 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

cao trong việc định hình thành quả kinh tế (cụ thể, hãy tìm đọc Kaufmann, Kraay và Zoido
Lobaton 1999; Acemoglu, Johnson và Robinson 2000).

Đi theo Lin và Nugent (1995; 2306-07), ta nên suy nghĩ theo nghĩa rộng về các thể
chế như “một hệ thống các qui tắc hành xử do con người soạn thảo ra để quản lý và định hình
các tương tác giữa con người với nhau, một phần thông qua giúp họ hình thành những kỳ
vọng về những điều mà người khác sẽ làm.” Tất cả những nền kinh tế thị trường vận hành
trôi chảy đều gắn liền với một hệ thống các thể chế phi thị trường, mà không có nó cơ chế thị
trường không thể vận hành thỏa đáng được. Sau đây tôi sẽ trình bày cụ thể năm loại thể chế
hỗ trợ thị trường: các quyền đối với tài sản, các thể chế pháp luật qui định, các thể chế bình
ổn kinh tế vĩ mô, các thể chế bảo hiểm xã hội, và các thể chế quản lý xung đột. Tôi cũng
nhấn mạnh vào tình trạng muôn màu muôn vẻ của các bố trí về thể chế mà tương thích với
những thành quả kinh tế ưu việt.
Quyền đối với tài sản
Như North và Thomas (1973) và North và Weingast (1989), cũng như nhiều người khác đã
lập luận, việc thiết lập các quyền đối với tài sản một cách đảm bảo và ổn định là một yếu tố
then chốt trong sự phát triển của phương Tây và sự khởi đầu của tăng trưởng kinh tế hiện đại.
Người ta lập luận rằng các nhà kinh doanh sẽ không có động cơ gì thôi thúc họ tích luỹ và
phát minh trừ khi họ có đủ quyền kiểm soát sinh lợi từ tài sản được tạo ra hay cải thiện nhờ
sự tích luỹ và phát minh đó. Lưu ý rằng từ then chốt ở đây là “kiểm soát” chứ không phải “sở
hữu”. Quyền sở hữu chính thức đối với tài sản sẽ không có ý nghĩa gì nếu nó không mang
đến quyền kiểm soát. Cũng vì lẽ đó, quyền kiểm soát đủ mạnh là có thể làm nên chuyện rồi,
thậm chí khi không có quyền sở hữu chính thức đi chăng nữa. Ở nước Nga ngày nay, các cổ
đông có quyền sở hữu tài sản nhưng thường thiếu sự kiểm soát hữu hiệu đối với các doanh
nghiệp, trong khi tại các doanh nghiệp hương trấn của Trung Quốc, quyền kiểm soát ở đây đã
đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dù rằng quyền sở hữu không được phân định rõ ràng.
Như những khác biệt trên cho thấy, việc thiết lập “quyền sở hữu tài sản” chẳng phải
đơn thuần chỉ là việc thông qua một mảng luật pháp. Bản thân pháp luật không cần mà cũng
chẳng đủ để mang đến sự bảo toàn quyền kiểm soát. Trên thực tế, quyền kiểm soát được
chống đỡ bằng sự kết hợp giữa pháp luật, sự cưỡng chế tư nhân, các tập quán và truyền
thống. Quyền kiểm soát có thể được phân phối một cách rộng rãi hơn hoặc eo hẹp hơn so với
quyền sở hữu. Ngoài ra, quyền sở hữu hiếm khi có tính tuyệt đối, ngay cả khi được qui định
chính thức bằng luật pháp. Mỗi xã hội tự quyết định phạm vi quyền sở hữu cho phép và

những hạn chế có thể chấp nhận đối với việc thực hiện quyền. Quyền sở hữu tài sản trí tuệ
được bảo vệ một cách nghiêm ngặt tại Hoa Kỳ và các xã hội tiên tiến nhưng không được bảo
vệ tại nhiều quốc gia đang phát triển. Ngược lại, pháp luật về môi trường và qui hoạch tại các
nước giàu lại hạn chế khả năng của các hộ gia đình và doanh nghiệp hành động theo ý thích
bằng “tài sản” của họ nhiều hơn so với các nước đang phát triển. Tất cả các xã hội đều công
nhận rằng quyền sở hữu tài sản tư nhân có thể phải được hạn chế nếu điều đó phục vụ cho
một mục đích công cộng lớn lao hơn. Chính định nghĩa về những gì tạo thành một “mục đích
công cộng lớn lao hơn” này mới thật là đa dạng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 7 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

Các thể chế qui định giám sát
Các thị trường phải chịu thất bại khi những người tham gia thị trường có những hành vi gian
lận hay chống cạnh tranh. Cơ chế thị trường thất bại khi chi phí giao dịch làm ngăn cản việc
nội bộ hoá các yếu tố ngoại tác công nghệ và các yếu tố ngoại tác khác không phải bằng tiền.
Và cơ chế thị trường cũng thất bại khi tình trạng thông tin không hoàn hảo dẫn đến hiện
tượng chọn lựa theo hướng bất lợi hay tâm lý ỷ lại. Các nhà kinh tế học thừa nhận những thất
bại này của cơ chế thị trường và đã xây dựng những công cụ phân tích cần thiết để tư duy
một cách hệ thống về hệ quả của sự thất bại này và các liệu pháp chữa trị khả dĩ. Lý thuyết
“điều tốt hạng nhì”, cạnh tranh không hoàn hảo, sự uỷ quyền - thừa hành và soạn thảo cơ chế
(ấy là chỉ mới kể tên một số lý thuyết mà thôi) mang đến sự lựa chọn đầy lúng túng về các
công cụ pháp luật để đối phó với thất bại của thị trường. Nhưng các lý thuyết về kinh tế chính
trị và lý thuyết chọn lựa công cộng khiến người ta phải cẩn trọng trước sự trông cậy hoàn
toàn vào các công cụ này.

Trên thực tế, mọi nền kinh tế thị trường thành công đều được giám sát bằng một bộ
áo giáp đầy đủ của các thể chế pháp luật mà điều tiết sự chỉ đạo trên các thị trường hàng hoá,
dịch vụ, lao động, tài sản và tài chính. Một vài từ viết tắt (bằng chữ đầu của các từ khác) ở
Hoa Kỳ cũng đủ để ta hình dung được phạm vi các thể chế có liên quan: FTC (Uỷ ban Mậu
dịch Liên bang), FDIC (Tổ chức Bảo hiểm Ký thác Liên bang), FCC, FAA, OSHA (Quản trị
Sức khoẻ và An toàn Nghề nghiệp), SEC (Uỷ ban Giao dịch Chứng khoán), EPA (Đạo luật
Bảo vệ Việc làm) v.v… Thật ra, thị trường càng tự do thì gánh nặng của các thể chế càng
thêm nặng nề. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ vừa có cả những thị trường tự do nhất thế
giới, lại vừa có sự cưỡng chế thực thi luật chống độc quyền nghiêm ngặt nhất thế giới. Bài
học rằng sự tự do thị trường đòi hỏi phải có sự thận trọng cảnh giác về thể chế pháp luật gần
đây lại càng được nhấn mạnh bằng kinh nghiệm của Đông Á. Ở Hàn Quốc và Thái Lan, cũng
như ở nhiều nước đang phát triển khác, tự do hoá tài chính và mở cửa tài khoản vốn đã dẫn
đến khủng hoảng tài chính chính xác là do thiếu sự điều tiết và giám sát thận trọng.
Tại các quốc gia đang phát triển, nơi mà thất bại của thị trường tràn lan, các thể chế
giám sát có thể cần phải bao trùm nhiều hơn danh mục tiêu chuẩn gồm việc chống độc
quyền, giám sát tài chính, qui định về chứng khoán v.v… Các mô hình gần đây về những
điểm không hoàn hảo của thị trường tài chính và thất bại kết hợp cho ta thấy rõ ràng là sự can
thiệp chiến lược của chính phủ thường là cần thiết để tránh các cạm bẫy cấp thấp và kêu gọi
sự đáp ứng đầu tư tư nhân như mong đợi.
2
Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Đài Loan trong
những năm 60 và 70 có thể được lý giải theo cách này. Sự trợ cấp sâu rộng và điều phối đầu
tư tư nhân dưới sự chỉ đạo của chính phủ tại hai nền kinh tế này đóng một vai trò quan trọng
trong việc chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng bền vững. Rõ ràng là nhiều quốc gia
khác đã thử và đã thất bại khi tái tạo các bố trí về mặt thể chế này. Và ngay cả Hàn Quốc, cho
dù thực hiện một chính sách tốt nhưng đã đi quá xa khi duy trì mối liên kết thể chế thoải mái
giữa chính phủ và các chaebols mãi tới những năm 90, ở thời điểm này các mối quan hệ này
có lẽ đã trở nên sai lệch chức năng. Một lần nữa, bài học là: các sắp xếp về thể chế thì biến
đổi, và không những khác biệt nhau giữa các nước mà còn phải thay đổi trong phạm vi một
đất nước theo thời gian.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 8 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

Các thể chế bình ổn kinh tế vĩ mô
Các thị trường không nhất thiết sẽ tự ổn định. Nhà kinh tế học Keynes và các cộng sự đã lo
lắng về tình trạng thiếu hụt trong tổng cầu và thất nghiệp do nó gây ra. Các quan điểm gần
đây hơn về bình ổn kinh tế vĩ mô nhấn mạnh đến tính bất ổn cố hữu của các thị trường tài
chính và sự lan truyền của nó sang nền kinh tế thực. Tất cả các nền kinh tế tiên tiến đều có
các thể chế ngân sách và tiền tệ để thực hiện chức năng bình ổn, họ đã học được những bài
học gay go nhất về hậu quả của việc không có các thể chế bình ổn này. Có lẽ quan trọng hơn
cả trong số các thể chế này là vai trò “người cho vay cứu cánh sau cùng” – thường là ngân
hàng trung ương – để đảm bảo phòng vệ trước những cuộc khủng hoảng ngân hàng do tâm lý
tự kỷ ám thị gây ra.
Hiện đang có một trào lưu mạnh trong tư duy kinh tế vĩ mô tranh luận về khả năng
hay tính hữu hiệu của việc ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách tiền tệ và thu chi
ngân sách. Cũng có một nhận thức trong giới chính sách, đặc biệt ở châu Mỹ La tinh, rằng
các thể chế tiền tệ và ngân sách như hiện đang định hình, làm tăng thêm tính bất ổn kinh tế vĩ
mô, chứ chẳng phải làm giảm, thông qua việc theo đuổi những chính sách có tính tuần hoàn
chứ không phải chống lại tính tuần hoàn. Những phát triển này đã dẫn đến xu hướng hướng
tới sự độc lập với ngân hàng trung ương và giúp mở ra một cuộc tranh luận mới về việc thiết
kế các thể chế ngân sách vững mạnh hơn. Một số quốc gia (Argentina là ví dụ đáng kể nhất)
đã từ bỏ vai trò người cho vay cứu cánh sau cùng trong nước bằng cách thay thế ngân hàng
trung ương bằng một uỷ ban tiền tệ (currency board). Cuộc tranh luận về các uỷ ban tiền tệ
và hiện tượng đô la hoá minh hoạ cho sự kiện hiển nhiên nhưng thường bị quên lãng là: các

thể chế cần cho một quốc gia thì không độc lập với lịch sử của quốc gia đó.
Các thể chế bảo hiểm xã hội
Một trong những ảnh hưởng phát sinh của một nền kinh tế thị trường năng động là nó đưa cá
nhân thoát ra khỏi sự vướng víu truyền thống của nhóm gia tộc, nhà thờ, tôn ti thứ bậc trong
làng xã. Nhưng mặt trái của nó là nó nhổ bật gốc rễ con người ra khỏi các hệ thống nâng đỡ
và các thể chế chia xẻ rủi ro truyền thống. Sự trao đổi quà cáp, ngày lễ hội, và các ràng buộc
thân tộc – ấy là chỉ mới dẫn ra một số ít những sắp xếp xã hội để cân bằng sự phân phối
nguồn lực trong các xã hội truyền thống – không còn mang chức năng bảo hiểm xã hội nữa.
Và khi thị trường trải rộng, các phương cách truyền thống để quản trị rủi ro trước đây từng
đảm bảo cho con người trước các rủi ro giờ đây trở nên kém hiệu quả hơn nhiều. Nền kinh tế
thị trường hiện đại là nền kinh tế mà ở đó những rủi ro đặc thù (rủi ro cụ thể với từng cá
nhân) đối với thu nhập và việc làm trở nên tràn ngập.
Sự phát triển rộng rãi các chương trình bảo hiểm xã hội do nhà nước cung ứng trong
thế kỷ 20 là một trong những đặc điểm nổi bật của sự tiến hoá của các nền kinh tế thị trường
tiên tiến. Ở Hoa Kỳ, chính bi kịch của cuộc Đại Khủng hoảng đã lát đường cho những phát
kiến lớn về mặt thể chế trong lĩnh vực này: an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp, công tác công
cộng, sở hữu công cộng, bảo hiểm tiền gửi và các liên hiệp pháp luật. Ở châu Au, cho đến
cuối thế kỷ 19, gốc rễ của nhà nước phúc lợi đã có được trong một số trường hợp. Nhưng sự
phát triển ấn tượng của các chương trình bảo hiểm xã hội, đặc biệt ở các nền kinh tế nhỏ hơn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 9 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

mở rộng cửa cho hoạt động ngoại thương, là một hiện tượng thời hậu Chiến tranh Thế giới II.
Bảo hiểm xã hội không nhất thiết phải có hình thức của các chương trình chuyển giao được

thanh toán bằng nguồn ngân sách nhà nước. Mô hình Đông Á, thể hiện rõ rệt qua trường hợp
của Nhật Bản, là một mô hình mà trong đó bảo hiểm xã hội được cấp phát thông qua sự kết
hợp của các hoạt động doanh nghiệp (chẳng hạn như phúc lợi xã hội do doanh nghiệp cấp
phát hay công việc làm trọn đời), các lĩnh vực được che chở và được điều tiết (các cửa hàng
phúc lợi của người già) và phương pháp tiến hành dần dần từng bước một trong việc tự do
hoá và mở cửa ra bên ngoài.
Bảo hiểm xã hội giúp hợp pháp hoá nền kinh tế thị trường vì nó làm cho nền kinh tế
thị trường tương thích với sự bình ổn xã hội và sự cố kết xã hội. Nhưng các nhà nước phúc
lợi hiện nay ở Tây Au và Hoa Kỳ dẫn đến một số chi phí kinh tế và xã hội – chi ngân sách
nhà nước tăng vọt, một nền văn hoá “quyền hành”, tình trạng thất nghiệp dài hạn – đã trở nên
ngày càng rõ rệt. Một phần do thực tế này nên các nước đang phát triển như những quốc gia
ở châu Mỹ La tinh mà đã áp dụng mô hình kinh tế thị trường tiếp theo cuộc khủng hoảng nợ
những năm 80 đã không chú ý đầy đủ đến việc tạo ra các thể chế bảo hiểm xã hội. Hậu quả là
tình trạng bất an và phản ứng dữ dội chống lại cải cách. Làm thế nào các quốc gia này duy trì
được sự cố kết xã hội khi đứng trước sự bất bình đẳng và các kết quả biến động, mà cả hai
yếu tố này đang ngày càng trầm trọng thêm bởi sự trông cậy ngày càng nhiều vào các áp lực
thị trường? Đây là một câu hỏi quan trọng mà không có câu trả lời rõ ràng.
Các thể chế quản lý xung đột
Các xã hội khác nhau ở cách phân chia trong từng xã hội. Một số xã hội hình thành từ một
cộng đồng dân số đồng nhất về ngôn ngữ và chủng tộc, được đặc trưng bởi sự phân phối
nguồn lực tương đối quân bình. Những xã hội khác có sự phân chia sâu sắc giữa các tầng lớp
thu nhập và chủng tộc khác nhau. Sự phân chia này làm tổn hại đến sự hợp tác xã hội và sinh
ra xung đột xã hội. Các nhà kinh tế học đã sử dụng các mô hình xung đột xã hội để làm rõ
những vấn đề như: Tại sao chính phủ các nước trì hoãn công việc bình ổn trong khi việc
chậm trễ này áp đặt chi phí lên tất cả các nhóm người? Tại sao các nước giàu tài nguyên
thiên nhiên thường làm ăn kém cỏi hơn những nước khan hiếm tài nguyên thiên nhiên? Tại
sao các cú sốc bên ngoài thường dẫn đến khủng hoảng kinh tế kéo dài, quá lớn so với những
chi phí gián tiếp của bản thân các cú sốc ấy?
Các xã hội lành mạnh có nhiều thể chế mà làm cho sự thất bại lớn về mặt hợp tác đó
ít có khả năng xảy ra hơn. Ví dụ về các thể chế này là hệ thống pháp luật, bộ máy tư pháp

chất lượng cao, các thể chế chính trị đại diện, bầu cử tự do, các liên minh ngoại thương độc
lập, hợp tác xã hội, đại diện pháp chế của các nhóm thiểu số, và bảo hiểm xã hội. Điều mà
làm cho các dàn xếp xã hội này vận hành như những thể chế giải quyết xung đột là: chúng
tạo ra một “công nghệ cam kết” kép – chúng cảnh báo “người thắng” trong các xung đột xã
hội rằng thắng lợi của họ sẽ có giới hạn, đồng thời đảm bảo với “kẻ thua” rằng họ sẽ không
bị tước đoạt. Các dàn xếp xã hội này có xu hướng tăng cường các động cơ khuyến khích các
nhóm xã hội hợp tác với nhau thông qua giảm thấp lợi lộc của các chiến lược bất hợp tác về
mặt xã hội.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 10 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

Chính sách ngoại thương và cải cách thể chế
Mối liên kết giữa cải cách chính sách ngoại thương và các thể chế này là gì? Cải cách ngoại
thương thường đòi hỏi phải “nhập khẩu” các thể chế từ nước ngoài. Đôi khi đây là kết quả
của những hành động chính sách có chủ định để hài hoà các thể chế xã hội và kinh tế của một
quốc gia với các thể chế kinh tế xã hội của các đối tác thương mại. Ví dụ, tư cách thành viên
Tổ chức Thương mại Thế giới đòi hỏi phải ban hành một hệ thống các tiêu chuẩn thể chế
nhất định: không phân biệt đối xử trong thương mại và chính sách công nghiệp, minh bạch rõ
ràng trong việc công bố các qui tắc thương mại, bảo vệ bản quyền và bằng phát minh nhất
quán với qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới v.v…. Tương tự, tư cách thành viên Liên
minh châu Au (EU) đòi hỏi phải thực hiện các yêu cầu bao quát về hành chính và pháp lý đã
được đặt ra ở Brussels.
Vào những lúc khác, việc hài hoà sự chênh lệch thể chế giữa các nước (institutional
arbitrage) là kết quả của việc giải quyết các áp lực thị trường. Ví dụ, khả năng lưu chuyển

người lao động trên khắp thế giới làm khó khăn hơn trong việc đánh thuế công ty và khiến
cho các thể chế quốc gia thiên về việc đánh thuế các hàng hoá và yếu tố sản xuất phi ngoại
thương như người lao động chẳng hạn. Sự hội nhập tài chính làm tăng mức đền bù cho sự ổn
định kinh tế vĩ mô và làm cho sự độc lập với ngân hàng trung ương xem ra có vẻ đáng mơ
ước hơn. Cuối cùng, sự mở cửa có thể làm thay đổi các thể chế quốc gia thông qua thay đổi
những yếu tố ưu tiên làm nền tảng cho các thể chế đó. Tự do dân sự và tự do chính trị là
những khái niệm nhập khẩu quan trọng nhất trong thế giới đang phát triển; nhu cầu đối với
tính dân chủ mà những ý tưởng này dẫn tới là một sản phẩm trực tiếp của sự mở cửa theo ý
nghĩa rộng này.
Sự mua bán hưởng chênh lệch giá (arbitrage) trên thị trường hàng hoá và thị trường
vốn, khi không có những điểm phức tạp của lý thuyết điều tốt hạng nhì, luôn đi liền với
những kết quả đáng mong đợi về mặt chuẩn tắc; nó làm tăng tính hiệu quả. Nhưng người ta
không thể đưa ra cùng một giả định như thế khi xem xét đến việc hài hoà sự chênh lệch thể
chế giữa các nước. Không có định lý nào phát biểu rằng sự hài hoà, sự hội tụ về thể chế, hay
sự “hội nhập sâu sắc” về thể chế thông qua ngoại thương vốn dĩ là đáng mong đợi. Cho dù
nhiều ví dụ dẫn ra trên đây liên quan đến những kết quả đáng mong đợi (chẳng hạn như tính
dân chủ cao hơn), nhưng điều này không đúng với mọi kết quả có thể có. Ta hãy nghĩ đến
những nước đang đứng trước viễn cảnh thực hiện Chính sách Nông nghiệp Chung của Liên
minh châu Au hay cơ chế chống phá giá của họ. Tất cả đều tuỳ thuộc vào tình huống và vào
cách thức chính phủ các nước có thể sử dụng được các tình huống hài hoà thể chế đó như thế
nào.
Một cách mà chính phủ có thể sử dụng việc hài hoà sự chênh lệch thể chế để mang lại
những ảnh hưởng tốt đẹp là nâng cao uy tín của các thể chế trong nước. Ví dụ, kỹ cương mới
ban hành tại các quốc gia đang phát triển theo Tổ chức Thương mại Thế giới – trong những
lĩnh vực như các ràng buộc về thuế quan, các biện pháp hạn chế định lượng, dịch vụ, trợ cấp,
các biện pháp về đầu tư liên quan đến ngoại thương (TRIMs), và sở hữu trí tuệ – có thể được
xem là giúp chính phủ các nước này khắc phục được những nhược điểm truyền thống trong
phong cách quản lý của họ. Các kỹ cương này mang đến tính có thể dự đoán được, tính minh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc

Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 11 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

bạch, những hành vi ứng xử trong khuôn khổ các qui tắc, và sự không phân biệt đối xử trong
một chừng mực nhất định trong những lĩnh vực chính sách mà thường có sự hành động tuỳ
tiện và hoạt động tìm kiếm đặc lợi. Trong cùng một tính chất như thế, có lẽ đóng góp lớn lao
nhất của Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cho nền kinh tế Mexico là yếu tố
“không thể đảo ngược được” và “sự gắn bó keo sơn” mà hiệp định đã đóng góp vào các cuộc
cải cách kinh tế của Mexico. Ở châu Au, sự gia nhập của Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha vào Liên minh châu Au đã làm cho việc quay trở lại với chế độ độc tài quân sự ở các
nước này trở thành gần như không thể được.
Tuy nhiên, các thể chế được du nhập từ nước ngoài có thể hoá ra không thích hợp
hoặc phản tác dụng. Phần lớn các tiêu chuẩn lao động mà một số nhóm lao động ở phương
Bắc muốn các nước đang phát triển áp dụng – như mức lương tối thiểu cao hơn hay các biện
pháp hạn chế một số loại lao động trẻ em – có thể thuộc vào loại này. Các biện pháp hạn chế
về bằng phát minh mới được kêu gọi thông qua hiệp định về Các Lĩnh vực Có Liên quan Đến
Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPs) của Tổ chức Thương mại Thế giới trong điều
kiện tốt nhất cũng chỉ là “may mà cũng không may”, hay “phúc đi liền với họa” đối với
những nước như An Độ, từ lâu từng hưởng lợi nhờ hàng dược phẩm rẻ. Người ta cũng có thể
đưa ra một lập luận tương tự về các áp lực thắt chặt các tiêu chuẩn môi trường ở các nước
đang phát triển.
Các cuộc cải cách thể chế thành công thường kết hợp các bản thảo được du nhập từ
nước ngoài với “hương vị quê nhà.” Một ví dụ điển hình thuộc loại này trong lĩnh vực
thương mại xuất phát từ Mauritius, nơi mà thành quả kinh tế ưu việt đã được xây dựng trên
một tổ hợp đặc thù gồm các chiến lược chính thống và phi chính thống. Thành công của nền
kinh tế này phần lớn hình thành từ một khu chế xuất (EPZ) hoạt động theo các nguyên tắc

mậu dịch tự do. Khu chế xuất giúp bùng nổ hàng may mặc xuất khẩu sang các thị trường
châu Au và đi kèm với bùng nổ đầu tư ở nước nhà. Tuy nhiên, nền kinh tế đảo quốc này đã
kết hợp khu chế xuất với một khu vực nội địa được bảo hộ chặt chẽ mãi đến giữa thập niên
80. Xuất phát điểm của chiến lược song hành này (không giống như chiến lược của Trung
Quốc) nằm ở kết cấu xã hội và chính trị của hòn đảo và ở quyết định của các nhà hoạch định
chính sách là không phá vỡ một bối cảnh tình hình dân tộc mỏng manh thông qua sự tự do
hoá đồng loạt khắp các lĩnh vực mà có thể gây bất lợi cho các nhóm sản xuất hàng cạnh tranh
nhập khẩu kỳ cựu. Trên thực tế, chương trình thực hiện khu chế xuất đã mang đến một
phương cách khéo léo để tránh những khó khăn chính trị. Việc thành lập khu chế xuất tạo ra
các cơ hội mới về ngoại thương và công việc làm mà không phải giải tỏa sự bảo hộ các nhóm
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu hay những người lao động nam giới chiếm số đông trong
các ngành kỳ cựu. Sự phân đoạn thị trường lao động trước đây vẫn tiếp diễn giữa lao động
nam và lao động nữ, trong đó phụ nữ chiếm đa số trong khu chế xuất, có ý nghĩa quan trọng,
vì nó ngăn không cho sự phát triển của khu chế xuất gây áp lực làm tiền lương tăng trong
phần còn lại của nền kinh tế và không làm tổn thương các ngành thay thế nhập khẩu. Các cơ
hội lợi nhuận mới được hình thành ở mức cận biên trong khi các cơ hội cũ vẫn được giữ
nguyên không bị xáo trộn.
Người ta có thể dẫn ra những ví dụ khác về các cuộc cải cách phi chính thống mà đã
tỏ ra thành công nhờ thích hợp với thực tế chính trị và và thể chế hiện hữu. Sự hướng ngoại
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 12 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

của Hàn Quốc trong những năm 60 chẳng hạn, đã đạt được không phải thông qua tự do hoá
nhập khẩu (không đáng kể) mà là thông qua trợ cấp xuất khẩu (rất nhiều). Loại cải cách này

hiện nay bị cấm bởi các qui tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới về trợ cấp. Tương tự,
chiến lược cải cách song hành của Trung Quốc trong nông nghiệp, công nghiệp và ngoại
thương, vẫn duy trì các hình thức thể chế phi thị trường đồng thời vẫn sắp xếp các động cơ
khuyến khích của thị trường ở mức cận biên, đã thành công rực rỡ. Đây là những trường hợp
mà sự thử nghiệm một cách sáng tạo với cải cách thể chế đã đạt được những phần thưởng mà
rất có thể đã lớn lao hơn nhiều so với việc du nhập toàn bộ các thể chế từ những quốc gia
công nghiệp tiên tiến.
3

Hội nhập vào nền kinh tế thế giới như một mô hình cải cách thể chế
Tư cách thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới đòi hỏi phải có những cuộc cải cách thể
chế mà không chỉ yêu cầu cao, mà còn thuộc vào một loại nhất định. Người ta có thể đặt nghi
vấn, như Michael Finger đã hùng hồn đưa ra nghi vấn về sự phù hợp giữa các cuộc cải cách
này và nhu cầu của các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất.
Finger đã tính toán rằng một quốc gia đang phát triển phải tốn 150 triệu đô la để thực hiện
những yêu cầu theo các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới về đánh giá hải quan,
các biện pháp vệ sinh và vệ sinh thực vật (SPS), quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) – một con số
tổng cộng bằng với ngân sách phát triển cả năm đối với nhiều quốc gia kém phát triển nhất.
Liệu rằng những đồng tiền này có được chi tiêu đúng đắn hay chăng? Finger lập luận rằng
đối với phần lớn các quốc gia đang phát triển, câu trả lời là không. Cho dù các nước này có
thể hưởng lợi nhờ củng cố các thể chế của họ trong những lĩnh vực phù hợp, nhưng thực tế là
“Các ràng buộc của Tổ chức Thương mại Thế giới không phản ánh được nhận thức về các
vấn đề phát triển”. Những chọn lựa khác, ví dụ như giáo dục cơ bản cho phụ nữ, sẽ có con số
suất sinh lợi hấp dẫn hơn nhiều (Finger 1999). Chắc chắn là bất kỳ một vòng đàm phán
thương mại mới nào cũng rút ngắn sợi dây buộc quanh các nước đang phát triển hơn nữa,
ngay cả khi người ta có thể né tránh được áp lực trong các lĩnh vực nhiều tranh cãi về môi
trường và lao động.
Việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng có những yêu cầu khác về mặt thể chế,
tinh tế hơn. Sự mở cửa ngụ ý sự va chạm với rủi ro bên ngoài nhiều hơn, và vì thế, sẽ có nhu
cầu bảo hiểm xã hội nhiều hơn. Việc cung ứng bảo hiểm xã hội nhiều hơn xem ra là yếu tố

then chốt đàng sau sự cân đối thực nghiệm mà chính phủ các nước nhắm tới, nhiều hơn tại
các nền kinh tế mà ngoại thương chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (Rodrik 1998). Nói khái quát,
sự mở cửa làm tăng mức đền bù đối với các thể chế quản lý xung đột (Rodrik 1999).
Người ta thường bỏ qua sự kiện là các nền kinh tế toàn cầu hoá thành công nhất của
thời kỳ trước đây – các con rồng Đông Á – đã không phải tuân thủ những ràng buộc quốc tế
và không phải tốn nhiều chi phí cho sự hội nhập trong kinh nghiệm tăng trưởng của họ vào
những năm 60 và 70. Các qui tắc ngoại thương toàn cầu thực chất đã cho phép họ được “ăn
theo”, và sự lưu chuyển vốn không phải là một vấn đề. Đó là lý do tại sao các nước này
không thể được xem là những hình mẫu quảng cáo cho việc toàn cầu hoá ngày nay. Hàn
Quốc, Đài Loan, và các nền kinh tế Đông Á khác đã được tự do hành động theo những chính
sách riêng của họ, và họ đã sử dụng điều đó tối đa. Như trên đã lưu ý, họ đã kết hợp sự trông
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 13 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

cậy vào ngoại thương với những chính sách phi chính thống – trợ cấp xuất khẩu, các qui định
yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, các mối liên kết nhập khẩu- xuất khẩu, vi phạm bản quyền và
bằng phát minh, các biện pháp hạn chế sự lưu chuyển vốn (bao gồm cả đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài), tín dụng theo sự chỉ đạo v.v…. Những chính sách phi chính thống này giờ
đây hoặc không được tán thành, hoặc đã bị loại bỏ bởi các qui tắc ngày nay. Môi trường toàn
cầu hoá ngày nay đã đổi khác hoàn toàn.
Không một cuộc cải cách thể chế nào cần cho việc bước vào nền kinh tế thế giới mà
là xấu cả, và trên thực tế, phần lớn các cuộc cải cách đó có thể đáng mong đợi một cách độc
lập với nhau, như tôi đã lập luận trên đây. Một số có thể có những lợi ích bất ngờ. Ví dụ,
chính phủ một nước buộc phải bảo vệ quyền của các nhà đầu tư nước ngoài có thể cũng sẽ

trở nên có xu hướng bảo vệ nhân quyền nhiều hơn cho các công dân của mình. Đây là một
lập luận hiệu nghiệm trong các cuộc tranh luận của Hoa Kỳ về qui chế quan hệ thương mại
bình thường lâu dài của Trung Quốc (PNTR), trước khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Nhưng người ta phải công nhận rằng một chiến lược cải cách thể chế dựa trên sự hội
nhập toàn cầu là một chiến lược cải cách “nhỏ giọt”. Các cuộc cải cách có thể có tính “nhỏ
giọt,” hoặc có thể không, và ngay cả khi có tính nhỏ giọt, chúng cũng hiếm khi tạo thành một
phương cách hữu hiệu nhất nhắm tới những kết cuộc như mong đợi, cho dù những kết cuộc
này là cải cách hợp pháp, tuân thủ nhân quyền, hay giảm tham nhũng. Sự thay đổi về thể chế
là tốn kém và đòi hỏi phải sử dụng nguồn nhân lực khan hiếm, năng lực hành chính và vốn
liếng chính trị. Những yếu tố ưu tiên hàng đầu trong việc hội nhập toàn cầu không nhất thiết
sẽ trùng hợp với những yếu tố ưu tiên của một chương trình phát triển toàn diện hơn.
Liệu chúng ta có thể trông đợi ở sự ban thưởng về mặt tăng trưởng nhờ mở cửa?
Hội nhập toàn cầu mang đến những chi phí cơ hội bởi các hệ quả về mặt thể chế mà một
chiến lược hội nhập như thế gây ra. Người ta phải đánh đổi giữa những chi phí cơ hội này với
những lợi ích kỳ vọng. Tất cả các nhà kinh tế học đều biết rằng lợi ích từ ngoại thương là có
hiện hữu đấy, nhưng những lợi ích tiêu chuẩn từ ngoại thương thường có xu hướng là ít ỏi
mà thôi. Xu hướng trong các thảo luận chính sách thường vượt ra khỏi trường hợp ngoại
thương tiêu chuẩn và đưa ra luận điệu rằng các chính sách mở cửa ngoại thương dẫn đến sự
tăng vọt các mức tăng trưởng kinh tế một cách đáng kể. Luận điệu này có vẻ như được hỗ trợ
bởi tư liệu thực nghiệm của các quốc gia. Gần đây, Francisco Rodriguez và tôi đã rà soát lại
tư liệu về mối quan hệ giữa chính sách ngoại thương và tăng trưởng (Rodriguez và Rodrik
2001), và đi đến kết luận rằng có một khoảng cách lớn giữa thông điệp mà người sử dụng tư
liệu này đã suy ra và “sự kiện” mà tư liệu thực sự chứng minh. Khoảng cách này hình thành
từ một số yếu tố. Trong nhiều trường hợp, các chỉ báo về “độ mở cửa” được sử dụng bởi các
nhà nghiên cứu là có vấn đề, như các số đo hàng rào thương mại, hoặc có tương quan cao với
các nguồn gốc khác của thành quả kinh tế. Trong những trường hợp khác, các chiến lược
thực nghiệm được sử dụng để xác định mối liên kết giữa chính sách ngoại thương và tăng
trưởng có những thiếu sót nghiêm trọng, việc loại bỏ các thiếu sót này sẽ dẫn đến những kết
quả yếu đi rất nhiều.

4
Một vấn đề phổ biến là sự qui kết sai lầm các hiện tượng kinh tế vĩ mô
(đồng tiền bị định giá quá cao hay bất ổn kinh tế vĩ mô) hay các yếu tố xác định về mặt địa lý
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 14 Biên dịch: Kim Chi
Hiệu đính: Quang Hùng

(như định địa điểm trong các vùng nhiệt đới) cho các chính sách ngoại thương thích hợp. Một
khi đã thực hiện những điều chỉnh đơn giản cho các vấn đề này, người ta hiếm khi tìm thấy
mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa mức thuế quan và các hàng rào phi thuế và sự
tăng trưởng kinh tế ở các nước.
Thật ra có những lý do để người ta hoài nghi về sự hiện diện của một mối quan hệ
chung và rõ ràng giữa mở cửa ngoại thương và tăng trưởng. Mối quan hệ này có thể là một
mối quan hệ ngẫu nhiên, phụ thuộc vào nước chủ nhà và các đặc điểm bên ngoài. Sự kiện
rằng trên thực tế tất cả các nước tiên tiến ngày nay đạt được tăng trưởng đàng sau các hàng
rào thuế quan và bảo hộ giảm chắc chắn chỉ đưa ra được một manh mối lẫn lộn mà thôi. Hơn
nữa, lý thuyết hiện đại về tăng trưởng nội sinh mang đến câu trả lời mơ hồ cho câu hỏi liệu
rằng tự do hoá ngoại thương có thúc đẩy tăng trưởng hay chăng. Câu trả lời thay đổi tuỳ theo
việc các áp lực lợi thế cạnh tranh có đẩy các nguồn lực của nền kinh tế hướng tới những hoạt
động mà tạo ra tăng trưởng dài hạn hay chăng (thông qua các yếu tố ngoại tác trong nghiên
cứu và phát triển, mở rộng đa dạng sản phẩm, cải tiến chất lượng sản phẩm, và v.v…) hay là
lại tách chúng ta khỏi các hoạt động đó. Cuối cùng, như tôi đã nhấn mạnh trong suốt chương
này, bối cảnh thể chế mà trong đó các chính sách ngoại thương được ban hành có ý nghĩa
quan trọng đối với thành quả kinh tế hơn là mức độ ấn định các hàng rào thương mại cụ thể.
Không một quốc gia nào phát triển thành công bằng cách quay lưng lại với thương

mại quốc tế và các dòng vốn dài hạn. Rất ít quốc gia đạt được tăng trưởng trong dài hạn mà
không trải nghiệm sự gia tăng tỷ trọng của ngoại thương trong sản lượng quốc gia của họ.
Trên thực tế, cơ chế thuyết phục nhất nối kết ngoại thương với tăng trưởng trong những nước
đang phát triển là: hàng hoá vốn nhập khẩu có thể rẻ hơn nhiều so với hàng hoá vốn sản xuất
tại nước nhà. Những chính sách hạn chế nhập khẩu máy móc thiết bị sẽ làm tăng giá hàng
hoá vốn tại nước nhà và do đó làm giảm mức đầu tư thực, phải được xem là những chính
sách không đáng mong đợi ngay từ đầu. Xuất khẩu là quan trọng vì nhờ có nó người ta mới
mua được máy móc thiết bị nhập khẩu.
Nhưng cũng đúng là không một nước nào phát triển mà chỉ đơn thuần bằng cách mở
cửa ra với ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Thủ thuật của những trường hợp thành công là
kết hợp các cơ hội mang lại bởi thị trường thế giới với đầu tư trong nước và chiến lược xây
dựng thể chế để kích thích tinh thần làm ăn sôi nổi của các nhà kinh doanh trong nước. Gần
như mọi trường hợp xuất sắc – Đông Á, An Độ, Trung Quốc kể từ thập niên 80 – đều liên
quan đến sự mở cửa dần dần và từng phần cho nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
Kết luận thích hợp rút ra từ bằng chứng thực nghiệm chẳng phải là người ta nên ưa
chuộng bảo hộ mậu dịch hơn so với tự do hoá ngoại thương. Chẳng có bằng chứng nào từ 50
năm qua cho thấy rằng bảo hộ mậu dịch gắn liền một cách có hệ thống với sự tăng trưởng
cao hơn. Nhận định của chúng tôi đơn giản chỉ là: người ta không nên đề cao thái quá lợi ích
từ sự mở cửa ngoại thương. Khi những mục tiêu chính sách đáng giá khác cạnh tranh với
nhau để có được các nguồn lực hành chính và vốn liếng chính trị khan hiếm, thì tự do hoá
ngoại thương sâu rộng thường không đáng nhận được sự ưu tiên cao như nó thường được
hưởng trong các chiến lược phát triển. Đây là bài học có tầm quan trọng đặc biệt cho những
quốc gia như ở châu Phi, đang ở vào thời kỳ đầu của cải cách.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa
Bài đọc
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 1 Cải cách chính sách ngoại thương
trong từng nội dung

Bernard Hoekman 15 Biên dịch: Kim Chi

Hiệu đính: Quang Hùng

Kết luận
Một môi trường chính sách chất lượng cao là môi trường mà phát đi những tín hiệu rõ ràng
cho các nhà sản xuất và các nhà đầu tư, không dung chứa những hành vi tìm kiếm đặc lợi,
không lãng phí các nguồn lực kinh tế, nhất quán với các năng lực hành chính của chính phủ,
và duy trì hoà bình xã hội. Cải cách chính sách ngoại thương góp phần cho phát triển kinh tế
trong chừng mực mà nó giúp xây dựng các thể chế chất lượng cao cùng với các đặc tính trên
đây. Ở đây tôi đã lập luận rằng câu hỏi đầu tiên mà các nhà hoạch định chính sách đang trăn
trở với cải cách ngoại thương nên đặt ra, không phải là liệu cải cách có dẫn đến khối lượng
hàng hoá ngoại thương nhiều hơn, mang lại một cơ chế ngoại thương tự do hơn, hay gia tăng
sự tiếp cận thị trường nước ngoài hơn chăng; mà câu hỏi là liệu cải cách có cải thiện được
chất lượng của các thể chế tại nước nhà hay chăng. Kết quả của các vòng đàm phán ngoại
thương – cho dù song phương, khu vực, hay đa phương – nên được phán xét bởi cùng một
thước đo này.


Chú thích

Chương này chủ yếu dựa trên một số tài liệu trước đây, cụ thể là Rodrik 1999, 2000a, và 2000b.
1
Ta nên tiếp tục mà không cần phải nói thêm rằng sự mở cửa ngoại thương và sự nhất quán với các qui tắc của
Tổ chức Thương mại Thế giới không phải là đồng nhất với nhau. Một đất nước có thể theo đuổi những chính
sách mậu dịch tự do mà không phải là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, và nhiều qui tắc của
Tổ chức Thương mại Thế giới rất khác với mậu dịch tự do (như trong trường hợp chống phá giá, các qui định
bảo vệ an toàn, và các hiệp định khu vực).
2
Tìm đọc một bài thảo luận và khảo sát bổ ích của Hoff và Stigliz (2000).
3
Tìm đọc một bài thảo luận bổ ích của Kapur và Webb (2000) và Pistor (2000) về các hạn chế của việc du nhập

các hình thức thể chế và pháp lý từ nước ngoài.
4
Phân tích chi tiết của chúng tôi bao trùm năm tài liệu mà có lẽ được biết đến nhiều nhất trong lĩnh vực này:
Dollar (1992); Sachs và Warner (1995); Ben-David (1993); Edwards (1998); và Frankel và Romer (1999).

Tài liệu gốc: Development,Trade, and the WTO: A Handbook, Nhà xuất bản The World Bank,
Washington, D.C. Bản dịch tíếng Việt do Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright thuộc
Đại học kinh tế TPHCM biên soạn và thực hiện. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc dịch thuật. Trong trường hợp có khác biệt thì tài
liệu nguyên gốc sẽ được sử dụng làm căn cứ

×