Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

LUẬN văn PHÒNG NGỪA rối NHIỄU HÀNH VI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.75 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ LAN

PHÒNG NGỪA RỐI NHIỄU HÀNH VI CHO HỌC SINH LỚP 10 TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành:
Mã số:

HÀ NỘI – 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ LAN

PHÒNG NGỪA RỐI NHIỄU HÀNH VI CHO HỌC SINH LỚP 10 TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: .................................
Mã số:....................................

HÀ NỘI – 2022.


MỤC LỤC




DANH MỤC TÊN VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

CHỮ ĐẦY ĐỦ

ĐTB

Điểm trung bình

ĐLC

Độ lệch chuẩn


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2

Tên bảng
Đặc điểm của nhóm khách thể đối chứng là con cái
Đặc điểm của nhóm khách thể nghiên cứu là bố mẹ

Trang
41
42

Bảng 2.3


Đặc điểm của nhóm khách thể giáo viên và nhân viên nhà

44

Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

trường
Độ tin cậy bảng hỏi dành cho học sinh
Độ tin cậy bảng hỏi dành cho phụ huynh
Độ tin cậy bảng hỏi dành cho giáo viên
Mức độ hiểu biết của học sinh về rối nhiễu hành vi
Nguồn thông tin giúp học sinh biết đến rối nhiễu hành vi
Nhận thức của học sinh về những cơ sở có khả năng hỗ trợ

47
48
49
52
54
55

Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6

Bảng 3.7

các vấn đề về rối nhiễu hành vi
Biện pháp để phòng ngừa rối nhiễu hành vi ở học sinh
Mức độ hiểu biết của phụ huynh về rối nhiễu hành vi
Nguồn thông tin giúp phụ huynh biết đến rối nhiễu hành vi
Nhận thức của phụ huynh về những cơ sở có khả năng hỗ

56
56
58
59

Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10

trợ các vấn đề về rối nhiễu hành vi
Mức độ hiểu biết của phụ huynh về rối nhiễu hành vi
Mức độ hiểu biết của giáo viên về rối nhiễu hành vi
Phương tiện giáo viên có thể tiếp cận về những kiến thức

59
60
61

Bảng 3.11

rối nhiễu hành vi
Nhận thức của giáo viên về những cơ sở có khả năng hỗ


62

Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Bảng 3.15
Bảng 3.16

trợ các vấn đề về rối nhiễu hành vi
Biện pháp để phòng ngừa rối nhiễu hành vi ở giáo viên
Mức độ biểu hiện hành vi do học sinh tự đánh giá
Mức độ biểu hiện hành vi do phụ huynh đánh giá
Mức độ biểu hiện hành vi do giáo viên đánh giá
Kế hoạch hoạt động phòng ngừa rối nhiễu hành vi

63
64
66
69
73

DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Biều đồ
Biểu đồ 3.1

Tên biểu đồ
Điểm trung bình chung mức độ biểu hiện hành vi rối
nhiễu ở học sinh


Trang
72


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chăm sóc sức khoẻ tâm thần là một trong những vấn đề cần được quan tâm
nhất là trong bối cảnh hiện nay, công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang tạo ra
những khoảng cách ngày càng lớn giữa con người với con người thậm chí là giữa
những người thân thuộc, trong gia đình. Điều đó làm cho một số trẻ găp khó khăn về
tâm lý và dẫn đến những rối nhiễu hành vi. Rối nhiễu hành vi trở nên khá phổ biến ở
các nước trên thế giới. Theo thống kê có 4% dân số Mĩ mắc phải (DSM –IV-APS,
2000). Độ tuổi thường gặp rối nhiễu hành vi là vị thành niên. Đây là con số khá cao
trong các rối nhiễu về sức khỏe tâm thần của trẻ. Trong một số nghiên cứu cũng chỉ


ra rằng tỉ lệ mắc phải ở thành thị cao hơn nông thôn và nam mắc nhiều hơn nữ.
Nguyên nhân gây rối loạn có thể là trẻ bắt chước những hành vi ngược đãi, xâm
phạm của cha mẹ, anh chị hay của những người lớn khác. Bệnh cũng có thể là hậu
quả của sách báo, phim ảnh bạo lực, các văn hóa phẩm đồi trụy hoặc xuất hiện do
ảnh hưởng của nhóm trẻ em xấu. Phản ứng của bản thân trẻ và của các bậc phụ
huynh trước áp lực của cuộc sống cũng có thể gây rối loạn hành vi.
Trong môi trường học đường hiện nay, việc dạy làm người còn chưa được
xem trọng, việc dồn ép trẻ học càng nhiều càng tốt vẫn được đặt ra như một yêu cầu
tối quan trọng. Đó là chưa kể việc thiếu mềm mại trong cách thức giáo dục, thiếu đầu
tư cho việc tìm hiểu đối tượng giáo dục... Khơng ít thầy cơ giáo vẫn cho rằng mình là
chân lý, thời gian đâu để lắng nghe, điều kiện đâu để tìm hiểu hồn cảnh của từng
học sinh. Sự ảnh hưởng của các loại sản phẩm được núp bóng dưới văn hố một cách
thơ thiển, đó là những trị chơi bạo lực gián tiếp hay trực tuyến, đó là những phim

ảnh thiếu sự kiểm soát của những cơ quan chức năng được tuồn vào bằng nhiều hình
thức dẫn đến sự rối nhiễu hành vi về mặt tâm lý. Đây không hẳn là sự rối nhiễu mang
tính chất tâm thần mà đó là rối nhiễu hay lệch chuẩn hành vi với những định hướng
chuẩn mực chung của xã hội Đặc biệt là khi gia đình thiếu quan tâm, chưa thân
thiện với con cái trong khi xã hội lại có quá nhiều yếu tố độc hại đối với lứa tuổi
các em. Học sinh tiếp xúc với hàng ngàn cảnh chưa đúng chuẩn… để rồi trở thành
một hình ảnh quen thuộc và bắt chước theo. Đó cịn là hệ quả của sự vô cảm của
người lớn, của nền giáo dục quá nặng về lý thuyết, kiến thức mà không giáo dục
về kỹ năng, đạo đức, nhân cách làm người của chúng ta hiện nay.
Bên cạnh đó những giá trị đạo đức trong xã hội đang thay đổi nhanh, nếu
không trang bị đủ cho trẻ những kỹ năng ứng phó thì đa số sẽ khơng theo kịp.
Nhất là trẻ ở khu vực phụ cận thành thị.
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu là một trong bốn trường THPT trong
huyện, có số học sinh đông nhất và điểm tuyển đầu vào lớp 10 thuộc diện thấp
nhất hàng năm. Trong những năm gần đây, tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm trung
bình và yếu có xu hướng tăng lên, các vụ gây hấn, đánh nhau, và vô lễ với giáo
viên cũng bắt đầu xuất hiện. Theo thầy Trương Trần Hoàng Du, bí thư Đồn
trường thì tình hình học sinh có những khó khăn tâm lý, dẫn đến có hành vi vi
phạm nội qui nhà trường ngày càng tăng, các em vị phạm những lỗi từ nhẹ như
không tuân thủ qui định về đồng phục, giờ giấc, cho tới nặng hơn như đánh nhau,


có lời nói thái độ chưa đúng mực với giáo viên, đánh bạc, thậm chí hiện tượng học
sinh bỏ nhà đi cũng đã từng xảy ra. Do đó ở trường THPT hiện nay rất cần các
chương trình phịng ngừa, nằm giúp học sinh có đầy đủ kiến thức ứng phó với các
khó khăn mà các em gặp phải.
Với những lý do như trên chúng tơi chọn đề tài “Phịng ngừa rối nhiễu
hành vi ở học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, Tỉnh Long An” làm
đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn góp thêm một cái nhìn mới, một số biện
pháp mới về vấn đề ngăn ngừa rối nhiễu hành vi trong học sinh trung học phổ thơng

Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và trên địa bàn huyện Cần Giuộc nói chung.

2. Mục đích của nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất biện pháp quản
lý giáo dục phòng ngừa rối nhiễu hành vi trong học sinh lớp 10 ở trường THPT
Nguyễn Đình Chiểu huyện Cần Giuộc tỉnh Long An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về phòng ngừa rối nhiễu hành vi ở học sinh
trường THPT
3.2 Khảo sát và phân tích thực trạng rối nhiễu hành vi trong học sinh ở trường
THPT Nguyễn Đình Chiểu huyện Cần Giuộc tỉnh Long An
3.3 Đề xuất và khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp phòng
ngừa rối nhiễu hành vi trong học sinh ở trường THPT Nguyễn Đình Chiểu huyện Cần
Giuộc tỉnh Long An.
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biểu hiện rối nhiễu hành vi trong học sinh ở trường THPT Nguyễn
Đình Chiểu huyện Cần Giuộc tỉnh Long An.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh và giáo viên ở trường THPT Nguyễn Đình Chiểu huyện Cần Giuộc
tỉnh Long An


5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, điều tra, khảo sát các đối tượng liên quan tại trường THPT
Nguyễn Đình Chiểu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
5.2. Về khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu học sinh khối lớp 10 ở Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An.

5.3. Địa bàn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tại Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, huyện Cần Giuộc,
tỉnh Long An
5.4. Về thời gian
Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 10 năm 2021
Từ tháng 1/2021 đến tháng 4/2021: nghiên cứu thực trạng, biểu hiện rối nhiễu
hành vi của học sinh lớp 10 Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Từ tháng 5/2021- 7/2021 : Xây dựng chương trình phịng ngừa rối nhiễu hành
vi dành cho học sinh trường THPT Nguyễn Đình Chiểu.
Từ tháng 7/2021 tiến hành thử nghiệm một chương tình phịng ngừa ngừa rối
nhiễu hành dành cho học sinh trường THPT Nguyễn Đình Chiểu và hồn thành báo
cáo.

6. Giả thuyết khoa học
Học sinh THPT có biểu hiện rối nhiễu hành vi ở mức nguy cơ gây khó khăn
cho việc thiết lập các mối quan hệ xung quanh, kết quả học tập và quá trình phát triển
của bản thân học sinh. Nếu xây dựng và thực hiện chương trình phịng ngừa rối nhiễu
hành vi phù hợp sẽ giúp học sinh học tập tốt hơn, thiết lập tốt các mối quan hệ xung
quanh, giảm thiểu đáng kể các hành vi không mong đợi trong môi trường học đường
và nhà trường sẽ hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ giáo dục.
7. Phương pháp nghiên cứu


7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, phân tích và tổng hợp các
tài liệu, các nghiên cứu trong và ngồi nước để tìm hiểu thực trạng nghiên cứu về rối
nhiễu hành vi ở học sinh THPT, từ đó xây dựng cơ sở lý luận và công cụ (bộ câu hỏi
điều tra) cho đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu câu hỏi: Đây là phương
pháp chính của đề tài nhằm thu thập các thông tin định lượng về thực trạng nhận
thức, mức độ biểu hiện về rối nhiễu hành vi .

7.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê: Phương pháp này được thực hiện
bằng phần mềm SPSS 26.0 nhằm thực hiện các phép thống kê (mô tả, suy luận) để
thu thập các kết quả điều tra từ phiếu hỏi.

8. Đóng góp mới của luận văn
Vận dụng vấn đề nghiên cứu để phòng ngừa rối nhiễu hành vi cho học sinh
khối lớp 10 ở Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu và có thể mở rộng ra trong tỉnh
Long An cũng như những địa phương có điều kiện kinh tế xã hội tương tự.

9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phòng ngừa rối nhiễu hành vi ởcho học sinh lớp
10 trường THPT
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA RỐI NHIỄU HÀNH VI
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

1.1.

Tổng quan về phịng ngừa rối nhiễu hành vi

Phịng ngừa rối nhiễu hành vi là một trong những chủ đề khá mới mẻ và thu
hút nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà tâm lý học, xã hội học, công tác xã
hội trên thế giới và Việt Nam. Các nghiên cứu của họ xoay quanh các vấn đề nguồn
gốc, các hình thức biểu hiện, các yếu tố ảnh hưởng và các biện pháp phòng ngừa sơ
cấp, mối quan hệ giữa phòng ngừa và các rối loạn tâm thần. Dưới đây là một số

nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước về phịng ngừa sức khỏe tâm thần nói


chung và phòng ngừa rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên và học sinh trung học phổ
thơng nói riêng.
1.1.1.

Các cơng trình nghiên cứu nước ngồi

Phịng ngừa trong sức khỏe tâm thần đã có lịch sử hơn 100 năm. Kể từ những
ngày đầu của phong trào vệ sinh tâm thần vào đầu thế kỷ 20, nhiều ý tưởng đã được
nảy sinh về các chiến lược khả thi để ngăn ngừa các vấn đề về hành vi và rối loạn
tâm thần ở trẻ em và người lớn. Những điều này một phần đã được chuyển thành các
hoạt động thử nghiệm trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và trường học cũng như
trong các hoạt động y tế công cộng. Tuy nhiên, sự phát triển có hệ thống của các
chương trình phòng ngừa dựa trên khoa học và các nghiên cứu có kiểm sốt để kiểm
tra tính hiệu quả của chúng đã không xuất hiện cho đến khoảng năm 1980. Trong 25
năm qua, lĩnh vực khoa học dự phòng đa ngành trong sức khỏe tâm thần đã phát triển
với tốc độ nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao kiến thức về rủi ro
dễ uốn và các yếu tố bảo vệ. Điều này đã dẫn đến một số lượng phát triển nhanh
chóng các ấn phẩm khoa học và các chương trình hiệu quả. Các trung tâm nghiên cứu
phịng ngừa, các trường đại học và các tổ chức khác, cùng với các nhà quản lý và
thực hành chương trình, đã tạo ra bằng chứng cho thấy rằng các can thiệp phịng
ngừa và nâng cao sức khỏe tâm thần có thể ảnh hưởng đến các yếu tố nguy cơ và bảo
vệ, đồng thời giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của một số rối loạn tâm thần.
Các chương trình tồn diện về sức khỏe tâm thần học đường bao gồm chương
trình phịng ngừa và nâng cao sức khỏe tâm thần cho tất cả học sinh cũng như sàng
lọc, đánh giá và các can thiệp phòng ngừa và điều trị hiệu quả và các dịch vụ cho
những học sinh có nhu cầu chuyên sâu hơn. Quan hệ đối tác giữa trường học và cộng
đồng các chuyên gia sức khỏe tâm thần / hành vi cung cấp cho sinh viên và gia đình

một mạng lưới dịch vụ mở rộng dễ dàng tiếp cận. Khi các chương trình có thể xác
định và giải quyết những thách thức về tinh thần và hành vi của học sinh sớm, học
sinh có nhiều khả năng đạt được các kỹ năng phục hồi và thành công trong trường
học và cuộc sống trong khi các mối đe dọa tác hại sau này được giảm bớt [28, tr121140].
Từ trẻ sơ sinh đến tuổi trưởng thành, tiếp cận với các biện pháp phòng ngừa
các dịch vụ và can thiệp là quan trọng để cải thiện chất lượng cuộc sống và hoạt động
của con người và giảm thiểu bệnh tật và chết sớm [39]. Phòng ngừa thường được


thực hiện một phương pháp tiếp cận phát triển, tập trung vào trẻ em và thanh thiếu
niên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các quỹ đạo dẫn đến tích cực kết quả (Hội
đồng Nghiên cứu Quốc gia & Viện Y học, 2009). Trẻ em và thanh thiếu niên có nguy
cơ đáng kể lạm dụng chất kích thích, bạo lực và lây truyền qua đường tình dục nhiễm
trùng và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng của họ là hạn chế (Trung tâm
Kiểm sốt và Phịng ngừa Dịch bệnh, 2007; Weissberg, Walberg, O’Brien và Kuster,
2003). Do đó, sự phát triển bình thường có thể bị cản trở với chi phí lớn cho xã hội,
và các chủng bổ sung áp đặt cho các gia đình. Trong bất kỳ năm, 14% –20% trẻ em
và thanh thiếu niên trải qua rối loạn tâm thần, cảm xúc hoặc hành vi (Hội đồng
Nghiên cứu Quốc gia & Viện Y học, 2009). Ngoài ra, các cuộc khảo sát quốc gia cho
thấy rằng phần lớn thanh niên có thể có khả năng hưởng lợi từ các dịch vụ sức khỏe
tâm thần không nhận được dịch vụ (Ringel & Sturm, 2001). Sớm và tập trung các
biện pháp can thiệp có thể hạn chế độ dài và mức độ nghiêm trọng của các triệu
chứng và tăng cường hoạt động [27], [35]. Phòng ngừa cũng bao gồm hợp tác thiết kế
và cung cấp sức khỏe dựa trên thế mạnh các chiến lược xúc tiến và cải thiện mơi
trường (ví dụ: Cowen, 1985). Các phương pháp nâng cao sức khỏe trang bị cho mọi
người với các kỹ năng sống và năng lực ứng phó, chẳng hạn như kỹ năng giải quyết
vấn đề, góp phần nâng cao năng lực sống của họ đầy đủ trong khi có thể chống chọi
tốt hơn với căng thẳng trong tương lai sự kiện cuộc đời. [56, tr425-432]
Nhiều thập kỷ nghiên cứu đã chỉ ra rằng phịng ngừa và lợi ích tiềm năng suốt đời
của việc ngăn ngừa các rối loạn tâm thần, cảm xúc và hành vi (MEB) là lớn nhất

bằng cách tập trung vào những người trẻ tuổi và các biện pháp can thiệp sớm có thể
có hiệu quả trong việc trì hỗn hoặc ngăn chặn sự khởi phát của các rối loạn đó. Các
ưu tiên quốc gia xây dựng dựa trên cơ sở bằng chứng này nên bao gồm (1) đảm bảo
rằng các cá nhân có nguy cơ nhận được các biện pháp can thiệp dựa trên bằng chứng
tốt nhất hiện có trước khi bắt đầu rối loạn và (2) thúc đẩy sự phát triển rối loạn hành
vi cảm xúc tích cực cho tất cả trẻ em, thanh thiếu niên , và thanh niên [68, tr15-20].
Hiện đã có một số chương trình khuyến khích và phịng ngừa cần được xem
xét để triển khai rộng rãi. Mặc dù những người đã bị ảnh hưởng bởi rối loạn hành vi


cảm xúc nên được điều trị dựa trên bằng chứng tốt nhất hiện có, các can thiệp trước
khi rối loạn xảy ra mang lại cơ hội lớn nhất để tránh những chi phí đáng kể cho cá
nhân, gia đình và xã hội mà những rối loạn này gây ra[68, tr15-20].
Hầu hết các rối loạn hành vi cảm xúc có nguồn gốc từ thời thơ ấu và thanh
niên. Trong số những người trưởng thành báo cáo về rối loạn hành vi cảm xúc trong
suốt cuộc đời của họ, hơn một nửa cho biết sự khởi phát xảy ra ở thời thơ ấu hoặc
thanh thiếu niên. Trong bất kỳ năm nào, tỷ lệ thanh niên mắc các chứng rối loạn này
được ước tính là từ 14 đến 20 phần trăm. Các vấn đề về rối loạn hành vi cảm xúc ở
những người trẻ tuổi – bao gồm cả các rối loạn có thể chẩn đốn và các hành vi có
vấn đề khác, chẳng hạn như sử dụng ma tuý hoặc rượu sớm, hành vi chống đối xã hội
hoặc gây hấn và bạo lực – gây ra những tổn thất lớn cho cá nhân, gia đình và xã hội.
Chi phí hàng năm có thể định lượng được cho những rối loạn như vậy ở những người
trẻ tuổi được ước tính vào năm 2007 là 247 tỷ đơ la. Ngồi ra, rối loạn hành vi cảm
xúc ở những người trẻ tuổi cản trở khả năng của họ để hoàn thành các nhiệm vụ phát
triển bình thường, chẳng hạn như thiết lập các mối quan hệ giữa các cá nhân lành
mạnh, thành công ở trường học và chuyển đổi sang lực lượng lao động. Những rối
loạn này cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của các thành viên trong gia đình họ. [68,
tr15-20].
Một báo cáo năm 1994 của Viện Y học (IOM), Giảm nguy cơ rối loạn tâm
thần: Biên giới cho nghiên cứu can thiệp dự phòng, đã nêu bật hiệu quả của phòng

ngừa. Để đáp ứng với cơ sở nghiên cứu đang phát triển sau đó và sự hiểu biết ngày
càng tăng về các con đường phát triển dẫn đến các vấn đề rối loạn hành vi cảm xúc,
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất và Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần, Viện Sức khỏe
Tâm thần Quốc gia, Viện Quốc gia về Lạm dụng Ma túy và Viện Quốc gia về Lạm
dụng Rượu và Nghiện rượu của Hoa Kỳ đã yêu cầu một nghiên cứu từ Học viện
Quốc gia Hoa Kỳ để xem xét cơ sở nghiên cứu và kinh nghiệm chương trình kể từ
thời điểm đó, tập trung vào những người trẻ tuổi. Ủy ban Phòng chống Rối loạn Tâm
thần và Lạm dụng Chất gây nghiện ở Trẻ em, Thanh niên và Người chưa thành niên


được thành lập dưới sự bảo trợ của Ủy ban về Trẻ em, Thanh niên và Gia đình để tiến
hành đánh giá này [48].
Một số can thiệp phòng ngừa cụ thể có thể sửa đổi nguy cơ và thúc đẩy các
yếu tố bảo vệ có liên quan đến các yếu tố quyết định quan trọng đối với sức khỏe tâm
thần, cảm xúc và hành vi, đặc biệt là trong các lĩnh vực như hoạt động của gia đình,
trải nghiệm thời thơ ấu và kỹ năng xã hội. Các biện pháp can thiệp cũng có sẵn để
giảm tỷ lệ mắc các rối loạn phổ biến hoặc các hành vi có vấn đề, chẳng hạn như trầm
cảm, sử dụng chất kích thích và rối loạn hành vi. Một số biện pháp can thiệp làm
giảm nhiều rối loạn và các hành vi có vấn đề cũng như tăng cường hoạt động lành
mạnh. Mặc dù bằng chứng về chi phí và lợi ích của các biện pháp can thiệp cịn hạn
chế, nhưng nó cho thấy nhiều khả năng có lợi ích vượt q chi phí [48]. Ngồi ra,
một số biện pháp can thiệp đã cho thấy hiệu quả để giảm nguy cơ cho trẻ em phải đối
mặt với những nghịch cảnh nghiêm trọng, chẳng hạn như trầm cảm ở mẹ và tan vỡ
gia đình. Giống như những bất lợi trong gia đình, nghèo đói là một yếu tố rủi ro
mạnh mẽ và việc giảm thiểu nó sẽ có những tác động sâu rộng đối với nhiều kết quả
tiêu cực về tinh thần, cảm xúc và hành vi. Nhiều chính sách và chương trình nhắm
mục tiêu nghèo đói như một yếu tố rủi ro bằng cách ưu tiên cho trẻ em có thu nhập
thấp và gia đình của chúng và bằng cách thúc đẩy các nguồn lực cho hoạt động lành
mạnh của những người sống trong nghèo đói, chẳng hạn như các chương trình giáo
dục mầm non, các chương trình củng cố gia đình và trường học, và nỗ lực để giảm

bớt bạo lực trong khu phố.
Hiệu quả của việc phòng ngừa để tăng cường hoạt động của con người và
giảm bớt sự lo lắng về tâm lý đã được chứng minh [25], [38], [48]. Các biện pháp can
thiệp phịng ngừa thành cơng thường dựa trên lý thuyết, phù hợp với văn hóa, phù
hợp với sự phát triển và được thực hiện trên nhiều bối cảnh [47]. Các dịch vụ và can
thiệp dự phòng giúp nâng cao hơn nữa sức khỏe và hạnh phúc của các cá nhân, cộng
đồng và quốc gia [58],[69]. Mở rộng các dịch vụ phịng ngừa giúp giảm chi phí chăm
sóc sức khỏe tâm thần [62], trong khi các đổi mới cơng nghệ mới nổi (ví dụ,
telehealth) mang lại hứa hẹn cho các biện pháp can thiệp phòng ngừa [21], [26].


Do đó, thơng tin dịch tễ học về tồn bộ cộng đồng (hoặc mẫu đại diện của cả
cộng đồng) thường cần thiết để trả lời các câu hỏi về tỷ lệ hiện mắc (tổng số trường
hợp mắc trong một khoảng thời gian nhất định) và tỷ lệ mắc (số trường hợp mới
trong một quần thể). Ngoài ra, nhiều thanh niên mắc nhiều hơn một chứng rối loạn
hành vi và cảm xúc (Angold, Costello, và Erkanli, 1999). Bệnh đi kèm này có thể
làm tăng mức độ nghiêm trọng của rối loạn (Kessler, Chiu, & CS, 2005). Tỷ lệ mắc
bệnh đi kèm không thể được xác định bằng cách sử dụng dữ liệu dựa trên phịng
khám, bởi vì các trường hợp gặp ở cơ sở điều trị khác với nhiều trường hợp không
được điều trị (Berkson, 1946). Thông tin cấp độ dân số là cần thiết để xác định những
bệnh nào đang được quan tâm về sức khỏe cộng đồng. Nó cần bao gồm một loạt các
rối loạn, bao gồm tỷ lệ xuất hiện và đồng xuất hiện của chúng và gánh nặng mà
chúng gây ra cho cá nhân, gia đình họ, các tổ chức xã hội và cơ quan nơi các cá nhân
sống cuộc sống của họ [Dãn theo 68].
Hành vi của một số học sinh trong môi trường trường học có thể đặt ra một
thách thức nghiêm trọng đối với bất kỳ giáo viên nào. Ở bang Ekiti, Nigeria; Việc
học sinh tham gia vào một loạt các hoạt động khó chịu mà luôn ảnh hưởng đến kết
quả của các em trong cả kiểm tra nội bộ và ngoại khóa là điều đáng chú ý. Điều khiến
việc này trở nên đáng lo ngại là thực tế là hành vi đó có thể gây tổn thương cho bản
thân học sinh, bạn bè và bạn cùng trường và ngay cả ở nhà [71]. Trước khi bất kỳ

hành vi nào có thể được gọi là rối loạn cảm xúc / rối loạn hành vi, thì hành vi đó sẽ
có mức độ kém hoặc thiếu hụt. Những hành vi cực đoan theo nghĩa là những hành vi
đó vượt ra ngồi những hành vi bình thường được xã hội chấp nhận. Theo một khía
cạnh khác, một hành vi có thể được coi là thiếu hụt khi một người thiếu những đặc
điểm bắt buộc mà xã hội mong đợi. Những học sinh được cho là đang đi học được
nhìn thấy đang nơ đùa, đi xe máy, vi phạm luật giao thông buýt, hút thuốc lá và các tệ
nạn xã hội, các vấn đề tình cảm khác. Theo một trong hai cách, bất kỳ hành vi nào
không tuân theo tiêu chuẩn chung có thể chấp nhận được đều bị từ chối hoặc từ chối
[Dẫn theo 18].
Ở học sinh trung học, người ta thường thấy các em có một số hành vi lệch lạc
hoặc thái quá. Nghiên cứu này nhằm điều tra ảnh hưởng và những đóng góp của môi
trường vật chất đối với hành vi của học sinh. Theo nghiên cứu này, môi trường vật
chất theo nghĩa là văn hóa, kinh tế, các nhóm đồng đẳng, bối cảnh gia đình và trường
học của người học. Với nỗ lực tìm hiểu sâu những gì tạo nên rối loạn hành vi cảm


xúc ở học sinh trung học; người ta cần phải một cái nhìn tổng thể về nó. Theo luật
Giáo dục Khuyết tật, IDEA (1997) đã chỉ ra một số đặc điểm chính của bất kỳ đứa trẻ
nào bị rối loạn hành vi cảm xúc, bao gồm khơng có khả năng đồng nhất với những gì
được dạy, khơng có khả năng xây dựng hoặc duy trì mối quan hệ thỏa đáng với bạn
bè, bạn học và giáo viên, biểu hiện của hành vi bất thường dưới một tình huống bình
thường với biểu hiện rõ ràng như sợ hãi ở nhà và trường học. Theo IDEA, để một
hành vi được xác định là rối loạn hành vi cảm xúc, một số đặc điểm phải được biểu
hiện liên tục trong một khoảng thời gian khá dài, chẳng hạn như: hành vi không được
chấp nhận hoặc không được hướng dẫn trong các trường hợp bình thường, khơng có
khả năng duy trì và xây dựng một mối quan hệ lâu dài, trầm cảm, hung hăng , trả đũa
và như vậy. Ngoài ra, cần lưu ý rằng, bất kỳ định nghĩa nào về rối loạn hành vi được
đưa ra, đều phải nhấn mạnh rằng những đặc điểm thể hiện đó phải là mơ hình hành vi
lặp đi lặp lại và dai dẳng có thể nhìn thấy theo thời gian và được chứng thực trong
các trường hợp khác nhau [72].

Rối loạn cảm xúc / hành vi có thể gây ra mối quan tâm nghiêm trọng cho phụ
huynh và thậm chí cả giáo viên, đặc biệt nếu những hành vi đó ảnh hưởng đến kết
quả học tập của những học sinh đó trong lớp [71]. Ở Nigeria, một thực tế đáng lo
ngại khác là, học sinh có biểu hiện rối loạn hành vi có thể khơng coi những hành vi
đó là bất thường, trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, họ khơng bận tâm đến
điều đó vì họ coi đó là chuẩn mực và dễ chịu. Hệ lụy là, nếu điều đó khơng được
kiềm chế, nó có thể tiếp tục gây bất lợi cho trẻ và những người xung quanh [18].
Nhiều học sinh mắc rối loạn hành vi cảm xúc thường gặp phải những thách
thức trong trường học và bên ngoài trường học. So với các bạn, chúng thường có
điểm số thấp hơn, hay trốn học, thiếu tập trung và dễ bỏ học [55],[60]. Theo một báo
cáo khác, do sự không ổn định, học sinh mắc rối loạn hành vi cảm xúc ít có khả năng
vượt trội hơn ở trường và bỏ học trước khi hoàn thành chương trình học và học tại
các cơ sở giáo dục cao hơn [22], [24]. Do mức độ nghiêm trọng và tần suất của
những hành vi này, học sinh mắc rối loạn hành vi cảm xúc ít được lắng nghe hơn,
thỉnh thoảng được lắng nghe, ít được coi trọng và ít được tôn trọng hơn [19], [29].
Wehby, Lane và Fork (2003) cho rằng những học sinh bị rối loạn cảm xúc thể hiện
những hành vi phi lý trí, do đó ảnh hưởng đến học tập và sự tự tin của họ. Học sinh
có các đặc điểm rối loạn hành vi có nhiều khả năng phát triển mối quan hệ khơng
được chấp nhận ở nhà và vùng xung quanh trường học [66, tr195].


Đã có nhiều quan điểm khác nhau về việc liệu học sinh bị rối nhiễu cảm xúc
hành vi có nên được giữ ở trường học khác nhau hay không, nhưng nghiên cứu đã
chứng minh ngược lại. Dựa trên những phát hiện khác nhau và báo cáo về rối nhiễu
cảm xúc hành vi, người ta đã chứng minh rằng học sinh mắc rối nhiễu cảm xúc hành
vi có thể được dạy trong mơi trường trường học bình thường mặc dù chúng có thể
nhận được nhiều sự chú ý. Trên thực tế, việc xa lánh hoặc tách biệt có thể khơng cần
thiết trừ một số trường hợp hiếm hoi [41], [44, tr17].
Nghiên cứu và những phát hiện gần đây cho thấy rằng ở trẻ em đi học, thanh
thiếu niên và thanh niên; có ba hành vi gây rối chính là Rối loạn thách thức chống đối

(ODD), Rối loạn hành vi (CD) và Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Ba loại
này (ODD, CD, & ADHD) có các đặc điểm và tính năng tương tự nhau, có thể gây
khó khăn cho việc xác định và chẩn đoán [45, tr154]. Người ta quan sát thấy rằng
mười phần trăm trẻ em dưới 12 tuổi được cho là mắc chứng rối loạn thách thức
chống đối (ODD) với một số phần trăm lớn hơn là trẻ em trai. Trẻ em mắc chứng rối
loạn này thường biểu hiện những đặc điểm sau: thường xuyên tỏ ra tức giận, khơng
vâng lời các cơ quan có thẩm quyền, hình ảnh thấp về bản thân, lập luận lặp đi lặp lại
và những thứ tương tự [Dẫn theo 18]
Thanh thiếu niên có biểu hiện rối loạn về hành vi thường được gắn nhãn vì các
em khơng chỉ tn theo các quy tắc đơn giản và cơ bản. Các em thể hiện những hành
vi phạm pháp và những hành động phi lý khiến người lớn phải quan tâm. Các hành
động như: đánh nhau thường xuyên, trốn học, hành hung, tấn công và phản ứng dữ
dội hoặc quá khích (IDEA, 2004). Với rối loạn hành vi tăng động, các hành vi biểu
hiện ra bên ngồi bao gồm khơng chú ý, hay qn, đãng trí, hiếu động thái quá (hoạt
động quá mức), thường xuyên bồn chồn và mất cân bằng thể chất. Đối với rối loạn
tăng động giảm chú ý cũng được xác nhận xuất hiện ở trẻ em trai nhiều hơn [Dẫn
theo 72].
Vì khơng xác định rõ ngun nhân chính xác gây ra rối loạn hành vi cảm xúc,
nhưng một số học giả tin rằng các nguyên nhân của rối loạn hành vi cảm xúc (EBD)
có thể được nhóm lại dưới hai yếu tố chính là sinh học và mơi trường tự nhiên. Theo
lưu ý này, cần phải điều tra môi trường vật chất của đứa trẻ và nó ảnh hưởng tích cực
hay tiêu cực đến đứa trẻ như thế nào[72]. Nghiên cứu đã làm rõ rằng, khơng có
ngun nhân chính xác nào gây ra cảm xúc / rối loạn hành vi. Mặc dù người ta cũng
cho rằng nó có thể do các yếu tố sinh học và môi trường như: kỷ luật nghiêm khắc,


lạm dụng và bỏ rơi trẻ em, tính cách của trẻ, bạo lực trong gia đình, thiếu sự giám sát
kỹ lưỡng và tổn thương não [45, tr153-160]. Vì vậy, nhiều rủi ro có thể xảy ra liên
quan đến rối loạn hành vi cảm xúc ở học sinh trung học đang gặp khó khăn trong học
tập, thiếu tập trung tối đa, phá hủy tài sản và tổn thương não. Tất cả những điều này

có thể cản trở sự phát triển tâm lý của một đứa trẻ và ảnh hưởng xấu đến việc theo
đuổi mục tiêu học tập và cá nhân của chúng [18].
1.1.2.

Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam

Hiện nay có nhiều thơng tư, nghị định của chính phủ hướng dẫn về việc thực
hiện ngăn chặn các hành vi bạo lực, phòng chống và nâng cao sức khỏe tâm thần…
Tuy nhiên đề tài về phòng ngừa rối nhiễu hành vi còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Xoay
quanh về phòng ngừa hành vi có một số đề tài nghiên cứu về ngăn ngừa hạn chế các
hành vi bạo lực học đường ở học sinh như:
Nghiên cứu về nguyên nhân và một số biện pháp hạn chế bạo lực học đường tác
giả Nguyễn Văn Lượt (2009) chỉ ra những biện pháp nhằm hạn chế các hành vi bạo
lực ở học sinh như sau: Đứng trước những hành vi bạo lực của trẻ, cha mẹ, thầy cơ
nên có thái độ bình tĩnh, ân cần chỉ bảo cho các em để các em dần dần nhận ra sự
không đúng đắn và từ bỏ nó. Sự quát tháo, đánh đập, nhiếc móc hoặc trừng phạt chỉ
làm tăng thêm những hành vi đó ở trẻ. Giải pháp tận gốc của vấn đề là trẻ phải tự
nhận ra và từ bỏ hành vi đó một cách tự nguyện. Đặc biệt, quan hệ giữa cha mẹ và
con cái trong gia đình phải là mối quan hệ tin tưởng- bình đẳng. Cha mẹ phải phấn
đấu để trở thành những “người bạn lớn” của con cái, kịp thời uốn nắn những lệch lạc
trong nhận thức, thái độ và tình cảm của các em. Các cơ quan chức năng cần có
những biện pháp để hạn chế sự ảnh hưởng của văn hố độc hại đến nhân cách của trẻ.
Thầy/cơ giáo có thể áp dụng một số biện pháp sau nhằm hạn chế hành vi bạo lực
trong nhà trường : (1)Quan tâm tới học sinh cả trong và ngồi mơi trường nhà trường.
(2) Không cho phép các thái độ định kiến, thù địch và phân biệt đối xử diễn ra giữa
các học sinh và các nhóm học sinh trong lớp học. Thầy/cô giáo phải thiết lập quy tắc
này ngay từ khi bắt đầu lớp/khoá học; (3) Lắng nghe học sinh của mình xem những
điều gì đang diễn ra ở các em; (4) Nhận biết những dấu hiệu bạo lực ở học sinh. Các
dấu hiệu cho thấy hành vi bạo lực sắp xảy ra bao gồm: học sinh giảm hứng thú học
tập; thích chơi hoặc xem các trị game bạo lực; tâm trạng chán nản; nói về nỗi tuyệt

vọng/thất vọng và cơ lập với các học sinh khác; thiếu kỹ năng kiểm sốt sự giận giữ;
có hành vi bạo lực với động vật; nói về cái chết hay mang vũ khí vào trường; (5)


Thảo luận với học sinh về các biện pháp ngăn chặn bạo lực học đường; (6) Khuyến
khích học sinh thơng báo những biểu hiện về bạo lực học đường cho giáo viên; (7)
Dạy cho học sinh kỹ năng kiểm soát giận giữ và giải quyết xung đột; (8)Giữ mối liên
hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh. [Dẫn theo 5, tr322 - 325].
Tác giả Bahr Weiss, Đặng Hoàng Minh và cộng sự đã cơng bố thích nghi văn hố
Chương trình Chăm sóc sức khoẻ tâm thần dựa vào trường học (RECAP) vào Việt
Nam với tên là “Nối kết”. Đây là một chương trình can thiệp dựa vào trường học
nhằm hỗ trợ những trẻ gặp khó khăn đồng thời cả vấn đề hành vi và cảm xúc, ở mức
độ nhẹ và trung bình. Mục tiêu của chương trình nhằm hỗ trợ giáo viên nâng cao kỹ
năng của họ trong việc giúp học sinh sử dụng kĩ năng xã hội phù hợp, quản lý hành
vi, giúp học sinh học cách thương lượng để giải quyết các mẫu thuẫn với bạn cùng
lứa, học cách thương lượng và tơn trọng người lớn khi có bất đồng xảy ra [6].
Trong Bộ công cụ hướng dẫn xây dựng các mối quan hệ tơn trọng và bình đẳng
trong trường học thuộc chương trình phịng ngừa bạo lực học đường trên cơ sở giới
cho học sinh cơ sở được xuất bản bởi Tổ chức giáo dục đưa ra các hướng dẫn về
phòng ngừa bạo lực học đường như sau: Giáo viên và các cán bộ nhà trường khác có
thể giám sát trường học, biết và ứng phó một cách phù hợp các vụ việc bạo lực học
đường trên cơ sở giới theo những cách sau:
-

Giám sát những khu vực học sinh cho là kém an toàn, như quanh
cổng trường vào đầu hoặc cuối giờ học, khu nhà vệ sinh và những nơi

-

kín đáo tại sân trường, hoặc trong giờ giải lao

Theo dõi các dấu hiệu chơi đùa một cách thô bạo tại khu vực hành lang, khu
vực vui chơi, căng tin, khi các em xếp hàng hoặc các nơi đông người khác

Một số trường thiết lập các cơ chế qua đó học sinh và phụ huynh học sinh có thể
báo các vụ việc bạo lực mà khơng sợ mất quyền riêng tư. Các biện pháp phổ biến bao
gồm:
-

Khuyến khích học sinh gửi thư vào hịm thư góp ý chung
Mời phụ huynh đến thăm hoặc gửi thư cho giáo viên chủ nhiệm lớp
Gọi điện, gửi email hoặc gửi thư từ nhà tới trường


-

Dán áp phích quanh trường học để thơng tin cho học sinh các cách báo cáo sự
việc khác nhau

Còn về phía giáo viên và ban giám hiệu nhà trường:
-

Lắng nghe các hình thức quấy rối bằng lời nói
Phát hiện và theo dõi các em bị cô lập trong lớp hoặc trên sân
Theo dõi sự tương tác giữa học sinh lớn và các em nhỏ hơn•Theo dõi các em

-

thường xuyên vắng mặt
Theo dõi các em xin phép nghỉ ốm, đặc biệt những em thường xuyên cảm thấy
ốm trong giờ nghỉ giải lao. Các em này có thể đang gặp phải những cảm xúc

mạnh như buồn bã, lo lắng hoặc tương tự mà có thể gây ra các triệu chứng về

-

thể chất
Hỏi về các vết bầm, vết thương, quần áo rách hoặc việc các em mất sách vở và

-

dụng cụ học
Theo dõi nếu các em khóc, gây hấn, thu mình hoặc dễ giật mình vì có thể các

-

em từng bị tổn thương
Theo dõi nếu có sự thay đổi khơng thể giải thích được về hành vi, điểm số,
tham gia trong lớp hoặc đi học

Các nỗ lực của trường nhằm làm giảm bạo lực giới đạt hiệu quả cao nhất khi áp
dụng cách tiếp cận trường học toàn diện để xây dựng một mơi trường học tập an tồn
và hỗ trợ nhau. Cách tiếp cận trường học tồn diện tập trung vào chính sách, quy
định, mối quan hệ, đối tác cũng như chương trình học .
Mơ hình trường học củng cố sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thường
được sử dụng để hướng dẫn cách tiếp cận trường học toàn diện. Mơ hình này chỉ ra
điều quan trọng là cần có hành động trên ba lĩnh vực:
a) chương trình học, hoạt động giảng dạy và học tập;
b) cơ cấu tổ chức nhà trường, chính sách và các mối quan hệ;
c) hợp tác với phụ huynh học sinh, cộng đồng và các cơ quan liên quan [Dẫn theo
12].



1.1.3. Nhận xét chung
Nghiên cứu về rối nhiễu hành vi và phòng ngừa rối nhiễu hành vi là một vấn
đề phức tạp và được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Tổng quan
tài liệu cho thấy các cơng trình của các tác giả được tiếp cận từ nhiều góc độ khác
nhau. Có thể khái quát các hướng nghiên cứu chính về rối nhiễu hành vi và phịng
ngừa rối nhiễu hành vi như sau:
Thứ nhất, những nghiên cứu về biểu hiện rối nhiễu hành vi ở học sinh: có ba
hành vi gây rối chính là rối loạn thách thức chống đối (ODD), Rối loạn hành vi (CD)
và Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Người ta quan sát thấy rằng mười phần
trăm trẻ em dưới 12 tuổi được cho là mắc chứng rối loạn thách thức chống đối
(ODD) với một số phần trăm lớn hơn là trẻ em trai. Trẻ em mắc chứng rối loạn này
thường biểu hiện những đặc điểm sau: thường xuyên tỏ ra tức giận, khơng vâng lời
các cơ quan có thẩm quyền, hình ảnh thấp về bản thân, lập luận lặp đi lặp lại và
những thứ tương tự. Thanh thiếu niên có biểu hiện rối loạn về hành vi thường được
gắn nhãn vì các em không chỉ tuân theo các quy tắc đơn giản và cơ bản. Các em thể
hiện những hành vi phạm pháp và những hành động phi lý khiến người lớn phải quan
tâm. Các hành động như: đánh nhau thường xuyên, trốn học, hành hung, tấn công và
phản ứng dữ dội hoặc quá khích. Với rối loạn hành vi tăng động, các hành vi biểu
hiện ra bên ngoài bao gồm khơng chú ý, hay qn, đãng trí, hiếu động thái quá (hoạt
động quá mức), thường xuyên bồn chồn và mất cân bằng thể chất. Đối với rối loạn
tăng động giảm chú ý cũng được xác nhận xuất hiện ở trẻ em trai nhiều hơn.
Thứ hai về nguyên nhân gây ra rối nhiễu hành vi thường không được xác định
rõ nguyên nhân chính xác nhưng một số học giả chỉ ra hai yếu tố chính là sinh học và
mơi trường tự nhiên. Do đó cần điều tra, quan tâm đến mơi trường vật chất của trẻ.
Nói chung các nghiên cứu đã làm rõ rằng, khơng có ngun nhân cụ thể nào gây rối
nhiễu hành vi. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rối nhiễu hành vi ảnh hưởng
xấu đến sự phát triển tâm lý của trẻ.
Thứ ba đã có các nghiên cứu và tổ chức các chương trình về phịng ngừa, tuy
nhiên các cơng trình nghiên cứu và các chương trình về phịng ngừa mang tính chung



chung, và các chương trình ngăn chặn bạo lực học đường, lạm dụng… mà chưa có
chương trình xây dựng kế hoạch phòng ngừa rối nhiễu hành vi ở học sinh cũng như
các hoạt động phòng ngừa giành cho giáo viên, học sinh, phụ huynh ở trường học.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề
1.2.1. Rối nhiễu hành vi
1.2.1.1. Khái niệm rối nhiễu hành vi
Rối nhiễu hành vi được Hiệp hội các nhà Tâm thần học Mỹ định nghĩa là
“những khuôn mẫu hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần trong đó các quyền cơ bản của
người khác, các chuẩn mực xã hội (phù hợp với lứa tuổi) hay các luật lệ bị vi phạm.
Những trẻ rối loạn hành vi có tần suất cao các hành vi đánh nhau, tàn ác với động
vật hoặc người khác, phá hoại tài sản, nghịch lửa, trộm cắp thường xuyên nói dối,
trốn học, bỏ nhà đi, thường xuyên trong trạng thái cáu kỉnh và có hành vi thách thức
bằng lời nói. Những trẻ rối loạn hành vi hay vi phạm các mong đợi xã hội (độ tuổi
phù hợp của trẻ)”. Thường xuyên có những hành vi nghiêm trọng hơn so với hành vi
tinh nghịch ở các bạn cùng tuổi hoặc có những hành vi mang tính nổi loạn chống đối
với người lớn. Ngồi ra, các biểu hiện này phải kéo dài trong sáu tháng thì mới đủ
tiêu chuẩn chẩn đốn [11].
Theo từ điển Tâm lý học, rối nhiễu hành vi là những hành vi của trẻ mang tính
xâm hại, chống đối hay khiêu khích như: ăn cắp, lừa dối… được lặp đi lặp lại và kéo
dài, vượt quá những hành vi lệch chuẩn thông thường của trẻ em và thái độ nổi loạn
của thanh thiếu niên. Những hành vi cả trẻ ở mức độ cao có thể dẫn đến những vi
phạm chuẩn mực xã hội [Dẫn theo 1].
Các biểu hiện chính của rối nhiễu hành vi: hành xử của rối loạn hành vi: hành
xử hung tính với người khác và với động vật, phá hoại đồ đạc, tài sản, lừa dối hoặc
ăn cắp, có những vi phạm nghiêm trọng nội quy, quy tắc chung [1].
Các rối nhiễu hành vi cũng có thể là triệu chứng của các rối loạn tâm thần
khác. Trong một số trường hợp, rối loạn hành vi thường là sự khởi đầu của rối loạn
nhân cách chống đối xã hội khi cá nhân đạt đến tuổi trưởng thành. Rối loạn hành vi

thường kết hợp với những môi trường tâm lý – xã hội bất lợi như: các mối quan hệ
gia đình không tốt, thất bại trong học tập [1].


Rối nhiễu hành vi là bất kỳ hành vi thái quá nào khác biệt lâu dài và rõ rệt với
hành vi phù hợp bình thường và được mong đợi của một lứa tuổi, nhóm hoặc xã hội
nhất định, gây trở ngại đáng kể sự tăng trưởng và phát triển của đứa trẻ cũng như sự
phát triển của những người khác, ngăn cản đứa trẻ “hạnh phúc và xây dựng và duy trì
các mối quan hệ thỏa mãn giữa các cá nhân với bạn bè và người lớn. Nhưng đứa trẻ
có thể học cách cư xử được xã hội chấp nhận và hài lòng hơn về mặt cá nhân ” [50,
tr139].
Rối nhiễu hành vi theo định nghĩa là những hành vi gây bất lợi cho người
khác, không thúc đẩy học tập cũng như mối quan hệ giữa các cá nhân. Những đứa trẻ
này bị rối loạn cả về cảm xúc và hành vi và đơi khi có thể được xếp vào nhóm khuyết
tật học tập.
Rối nhiễu hành vi là những hành vi có hại cho người khác và có thể được gọi
là những hành vi lệch lạc vì chúng đi chệch hướng so với những hành vi thơng
thường hoặc bình thường.
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu của đề tài “rối nhiễu hành vi” được hiểu
là: rối nhiễu hành vi khuôn mẫu hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần trong đó có các
quyền cơ bản của người khác, các chuẩn mực xã hội (phù hợp với lứa tuổi) hay các
luật lệ bị vi phạm. Những trẻ rối loạn hành vi có tần suất cao các hành vi đánh nha,
tàn ác với động vật hoặc người khác, phá hoại tài sản, nghịch lửa, trộm cắp thường
xuyên nói dối, trốn học, bỏ nhà đi, thường xuyên trong trạng thái cáu kỉnh và có
hành vi thách thức bằng lời nói. Những trẻ rối loạn hành vi hay vi phạm các mong
đợi xã hội (độ tuổi phù hợp của học sinh). Thường xuyên có những hành vi nghiêm
trọng hơn so với hành vi tinh nghịch ở các bạn cùng tuổi hoặc có những hành vi
mang tính nổi loạn chống đối với người lớn. Ngồi ra, các biểu hiện này phải kéo
dài trong sáu tháng thì mới đủ tiêu chuẩn chẩn đốn.
Rối nhiễu hành vi còn ảnh hưởng đến cách hành động của một đứa trẻ. Họ có

thể nổi nóng, hoặc nói lại với cha mẹ hoặc giáo viên của họ. Tuy nhiên, khi mọi thứ
bắt đầu vượt quá tầm tay, đó có thể là manh mối cho thấy một điều gì đó trong cuộc
sống của đứa trẻ cần được quan tâm. Những hành vi này khơng chỉ có hại cho các em
và các bạn cùng lứa tuổi mà còn là một nguồn lo lắng cho các bậc cha mẹ và thầy cô
của các em. Ở đây cần phải chỉ ra rằng đó là một hành vi bình thường đối với trẻ em
thỉnh thoảng xảy ra do những căng thẳng trong cuộc sống của chúng. Nhưng nếu
hành vi này vẫn tiếp diễn ngay cả khi đã trấn an trẻ và cung cấp dịch vụ chăm sóc bổ


sung, thì điều quan trọng là phải tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp, đặc biệt nếu
vấn đề đã kéo dài nhiều tháng và nghiêm trọng. Rối loạn hành vi (đôi khi được gọi là
rối loạn chống đối) là những lý do phổ biến nhất khiến trẻ em được đưa đi đánh giá
và điều trị sức khỏe tâm thần. Nó bao gồm các vấn đề sức khỏe tâm thần với trọng
tâm là các hành vi vừa xác định các vấn đề cảm xúc vừa tạo ra các vấn đề xã hội và
cá nhân cho trẻ em và thanh thiếu niên trong quá trình phát triển của chúng. Trong
nghiên cứu này chúng tôi tập trung vào các rối nhiễu hành vi phổ biến nhất ở lứa tuổi
thanh thiếu niên là rối loạn hành vi chống đối (OCD) [Dẫn theo 10].
1.2.1.2. Biểu hiện rối nhiễu hành vi
Dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn hành vi theo DSM 5, các biểu hiện rối
loạn hành vi ở trẻ được tập hợp thành 4 nhóm như sau:
- Độc ác với người khác và động vật bao gồm:
(1) Hay bắt nạt, đe dọa, uy hiếp người khác;
(2) Hay gây sự đánh nhau;
(3) Sử dụng vũ khí có thể gây hại nghiêm trọng về thân thể cho người khác;
(4) Có hành vi độc ác về thân thể với người khác;
(5) Có hành vi độc ác về thân thể với động vật;
(6) Ăn cướp đối mặt với nạn nhân
(7) Cưỡng dâm
- Phá hoại tài sản (hành vi xâm hại gây tổn thất tài sản):
(8) Cố ý gây cháy với có ý định gây hại nghiêm trọng;

(9) Cố ý phá hoại tài sản của người khác (bằng các hình thức khác nhau ngồi
gây cháy).
- Lừa đảo hay trộm cắp
(10) Đập phá hay
(11) Thường xuyên nói dối để nhận được đồ vật, ân huệ hoặc để tránh các
nghĩa vụ (nghĩa là lừa gạt người khác).
(12) Ăn cắp những đồ vật có giá trị khơng lớn khơng đối mặt với nạn nhân (ví
dụ: lấy cắp trong cửa hàng, giả tạo giấy tờ, …)


×