Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tìm hiểu một số lý luận về rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.02 KB, 20 trang )

Đề tài niên luận: Tìm hiểu một số lý luận về rối nhiễu hành vi ở trẻ vị
thành niên.
Sinh viên: Nguyễn Thu Trang
Lớp: k50 – Tâm lý học.
I. Phần mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
Trong quá trình phát triển, ý thức của trẻ được hình thành theo các giai đoạn
với các mức độ phát triển từ thấp đến cao và được biểu hiện ra bằng những hành vi,
lời nói, cử chỉ của trẻ trong sinh hoạt hàng ngày (học tập, vui chơi ). Trẻ được
gia đình, nhà trường truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm sống để
định hướng cho sự phát triển nhân cách, nhằm làm cho trẻ phát triển một cách đầy
đủ nhất cả về vật chất lẫn tinh thần. Hay nói cách khác là chuẩn bị những điều kiện
cần và đủ cho sự phát triển của những chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình đó vẫn có những trẻ, đặc biệt là những trẻ vị thành
niên mà sự phát triển của nó bị lệch khỏi những chuẩn mực, những quy tắc của xã
hội. Trong đó, những trẻ phát triển lệch chuẩn biểu hiện rất nhiều qua hành vi của
chúng. Trong tâm lý học lâm sàng như trong tâm bệnh học gọi hiện tượng này là
rối nhiễu hành vi.
Rối nhiễu hành vi gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cá nhân trẻ vị
thành niên, đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Trong xã
hội, nếu có nhiều trẻ bị rối nhiễu hành vi sẽ gây ảnh hưởng đến an toàn xã hội, tác
động tiêu cực gián tiếp đến sự phát triển nói chung của xã hội.
Nghiên cứu về vấn đề này nhằm hạn chế, ngăn chặn những nguyên nhân dẫn
đến rối nhiễu hành vi, tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển lành mạnh của trẻ vị
thành niên.
Có thể nói đây là một vấn đề mang rất nhiều tính cấp thiết trong xã hội, càng
ngày càng có nhiều người biết đến và dành nhiều sự quan tâm đến nó. Xuất phát từ
1
tính cấp thiết của vấn đề này, và từ trong quá trình học tập trên lớp, vấn đề rối
nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên đã tạo nên nhiều hứng thú mong muốn nghiên
cứu, tìm hiểu sâu hơn. Đó cũng chính là lý do chọn đề tài này của em.


2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc đọc các tài liệu nghiên cứu thực tế và các tài liệu nghiên cứu
lý luận trong lĩnh vực nghiên cứu hành vi nhằm khái quát hóa các vấn đề sau:
• Thực trạng về rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên hiện nay.
• Nguyên nhân của thực trạng này.
• Đề xuất, kiến nghị nhằm giảm rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là: rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp nghiên cứu tài liệu.
II. Nội dung nghiên cứu.
1. Sơ lược vấn đề nghiên cứu.
Rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên đã được nghiên cứu và nhắc đến trong
rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, nhà tâm thần học trong
nước và ngoài nước.
Trong phạm vi nghiên cứu của một đề tài niên luận, em xin được đề cử một
vài nghiên cứu:
1.1 Các nghiên cứu ngoài nước.
X.N.Miaxisshev đã có công trình nghiên cứu rối nhiễu hành vi và chỉ ra: rối
nhiễu hành vi là một căn bệnh của nhân cách có căn nguyên tâm lý. Sự rối loạn các
quan hệ đóng vai trò xuất phát điểm và quyết định. Từ những rối nhiễu đó dẫn đến
2
rối nhiễu sự tiếp nhận và rối nhiễu các chức năng tâm lý tùy theo cách tiếp nhận và
xử lý hiện thực thế nào.
Ông nhấn mạnh nguyên nhân chính làm phát sinh rối nhiễu hành vi ở trẻ em
và con người nói chung là do sự mâu thuẫn tâm lý, nghĩa là sự mâu thuẫn nội tâm.
Xixon, M.M Model và L.L.Galpêrin (1935) đã chỉ ra rằng: theo sự gia tăng
theo tuổi, những xung đột nội tâm do phát triển khả năng tự đánh giá, yêu cầu với
bản thân và khả năng xử lý nội tâm. Các tác giả còn quan sát thấy những phản ứng
rối nhiễu hành vi xuất hiện do sinh con thứ hai trong gia đình.

Trong tập phân loại bệnh quốc tế 10F do các nhà tâm thần có uy tín trên
thế giới nghiên cứu và phân loại, đã phân loại rối nhiễu hành vi thành 3 mục và lưu
trong phân mục F91:
F91- 0 : rối nhiễu hành vi khu trú trong môi trường gia đình.
F91-1 : rối nhiễu hành vi ở những người kém thích ứng với xã hội.
F91-2 : rối nhiễu hành vi ở những người còn thích ứng với xã hội.
Trong DSM 4 - tập phân loại bệnh của các nhà tâm lý học Mỹ, đã đưa ra 15
tiêu chuẩn chẩn đoán và chia thành 4 nhóm chủ yếu:
• Xâm hại người khác hay súc vật.
• Phá hoại tài sản (hành vi xâm hại gây tổn thất tài sản)
• Lừa đảo hay trộm cắp
• Vi phạm nghiêm trọng các luật lệ
1.2 Các nghiên cứu trong nước
Năm 1989, Viện tâm thần học Việt Nam đã nghiên cứu 124194 thanh thiếu
niên thì có tới 21960 em có biểu hiện rối nhiễu hành vi. Và trong đó tỷ lệ trẻ nam
mắc bệnh thì cao hơn ở trẻ nữ.
Giáo sư Nguyễn Việt đã nghiên cứu và đưa ra một số phương pháp chuẩn
đoán và điều trị rối nhiễu hành vi. Trong đó, ông cũng đã nghiên cứu thuyết tập
nhiễm của Watson, Skiner, Wolop và phát biểu nó như sau: tất cả những rối loạn
3
hành vi đều là những hành vi đã bắt chước, tiêm nhiễm trong quá trình hành động ở
các môi trường gia đình và xã hội.
Giáo sư Đặng Phương Kiệt cũng đã nghiên cứu nhiều về rối loạn hành vi, từ
các nghiên cứu của mình, ông đã chỉ ra rằng: nguyên nhân dẫn đến rối loạn hành vi
là stress gia đình, được hiểu là những căng thẳng trong gia đình do cha mẹ ly dị,
mất người thân, do bố mẹ trộm cắp
Bác sĩ Nguyễn Văn Siêm hiện đang tham gia giảng dạy bộ môn Tâm lý học
lâm sàng của khoa Tâm lý học trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, cũng là
một trong những người đã nghiên cứu rất nhiều về rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành
niên. Từ những công trình nghiên cứu của mình và qua tham khảo những công

trình nghiên cứu khác, ông đã đưa ra những lý luận chung về rối nhiễu hành vi ở trẻ
em và thanh thiếu niên, những lý luận này hiện đang sử dụng làm giáo trình học tập
cho sinh viên khối tâm lý học lâm sàng trong khoa.
Qua các nghiên cứu có thể thấy: nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rối loạn hành
vi của trẻ vị thành niên là do các nhân tố từ bên ngoài như gia đình, xã hội tác
động vào trẻ.
2. Các khái niệm cơ bản.
2.1 Khái niệm “hành vi”
Có nhiều quan điểm khác nhau về hành vi, các nhà sinh vật học thì cho rằng:
hành vi là cách sống và hoạt động của cá nhân trong môi trường nhất định, dựa trên
sự cần thiết thích nghi tối thiểu của cơ thể đối với môi trường. Quan niệm như thế
đã khiến cho hành vi của con người hoàn toàn bị sinh vật hóa, không có “tính
người”, hành vi đối với họ chỉ là những hành động bản năng nhằm đáp ứng với môi
trường sống.
Đối với nhà phân tâm học thì coi hành vi là cái hợp lực, cái thỏa hiệp bắt
nguồn từ sự xung đột giữa nguyên tắc khoái cảm và nguyên lý thực tế, là những
xung lực của “cái ấy” và những cấm kỵ của cái “siêu tôi” được thống hợp trong bản
4
thân cái tôi. Song chủ yếu thì những hành vi đều có khởi nguồn từ vô thức và do vô
thức điều khiển. Các nhà phân tâm đã quá nhấn mạnh tính vô thức của hành vi.
Theo quan điểm của tâm lý học Mác-xít, cả ý thức và hành vi đều tồn tại
khách quan, tham gia một cách tích cực vào quá trình tác động của con người đối
với thế giới xung quanh, với người khác và với chính bản thân mình. Khái niệm
hành vi trong tâm lý học Mác-xít không tách rời khái niệm hoạt động mà hành vi là
sự biểu hiện cụ thể ra bên ngoài của hoạt động.
Trong từ điển Tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện chủ biên có viết: hành vi –
trong tiếng Anh là “behovio”. Trong tiếng Pháp có có hai từ tương đương là
“comportement” và “conduit”, song hai từ này còn mang nghĩa là ứng xử. Từ ứng
xử chỉ, mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào đó trong môi trường
kích thích, các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống

và tiến trình của ứng xử để thích ứng có định hướng nhằm giúp chủ thể thích nghi
với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh tính khách quan tức là các yếu tố bên ngoài kích
thích cũng như phản ứng đều là những hiện tượng có thể quan sát được chứ không
như tình ý bên trong thì nói là ứng xử, khi nhấn mạnh mặt định hướng, mục tiêu thì
gọi là hành vi.
Từ những quan điểm về hành vi như trên thì có thể hiểu hành vi như sau:
hành vi là những cử chỉ, ứng xử của con người và môi trường xung quanh do bị
kích thích nhằm thích nghi với hoàn cảnh. Hành vi bao gồm các yếu tố bên ngoài
và tình trạng cơ thể bên trong hợp thành một tình huống của ứng xử để thích ứng có
định hướng nhằm giúp cho chủ thể thích nghi với hoàn cảnh.
2.2 Khái niệm “rối nhiễu hành vi”
Trong tập phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10, “rối nhiễu hành vi” được định
nghĩa như sau:
“Rối nhiễu hành vi có đặc trưng là toàn bộ các hành vi chống đối xã hội, xâm
phạm hay khiêu khích được lặp lại và kéo dài. Một hành vi như vậy trong hình thái
5
cực độ nó sẽ đưa đối tượng đến chỗ vi phạm các quy tắc xã hội chủ yếu tương ứng
với lứa tuổi của đứa trẻ, điều này vượt quá hành vi ranh mãnh thông thường và các
thái độ nổi loạn của thanh thiếu niên.”
Trong tập phân loại bệnh DSM-IV-tập phân loại bệnh của Hoa kỳ cũng có
định nghĩa rối nhiễu hành vi như sau:
“Rối nhiễu hành vi là kiểu hành vi lặp đi lặp lại và kéo dài trong đó các
quyền cơ bản của người khác hay các chuẩn mực xã hội hoặc luật lệ lớn phù hợp
với lứa tuổi bị vi phạm”
Như vậy có thể thấy rối nhiễu hành vi có một số đặc điểm như:
 Những hành vi rối nhiễu là những hành vi vi phạm các chuẩn mực,
quy tắc của xã hội.
 Những hành vi đó lặp đi lặp lại trong một thời gian dài.
 Hậu quả của những hành vi này có ý nghĩa nhất định đối với gia đình,
xã hội, cộng đồng

 Những hành vi rối nhiễu mang tính chất lứa tuổi. Ví dụ như hành vi
lấy trộm đồ ở trẻ trước 6 tuổi là không đáng kể vì trẻ chưa nhận thức được giá trị
của đồ vật, nhưng nếu trẻ vẫn tiếp diễn hành vi đó sau 10 – 12 tuổi thì được coi là
hành vi trộm cắp.
Phân loại rối nhiễu hành vi:
- Theo tuổi khởi phát chia ra hai thể:
• Khởi phát ở tuổi trẻ em: ít nhất có một rối loạn đặc trưng khởi phát
trước 10 tuổi.
• Khởi phát ở tuổi thanh thiếu niên: không có tiêu chuẩn đặc trưng nào
xuất hiện trước 10 tuổi.
- Theo mức độ chia ra 3 loại:
• Nhẹ: có vài hành vi quá mức, gây thiệt hại nhẹ cho người khác
• Trung bình: số vấn đề hành vi gây hậu quả mức giữa “nhẹ” và “nặng”
6
• Nặng: có nhiều vấn đề hành vi nặng và gây hại đáng kể cho người
khác.
3. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên
Trẻ được xác định là tuổi vị thành niên là những trẻ trong độ tuổi từ 11 đến
17 tuổi.
Đây là giai đoạn quan trọng trong quá trình trưởng thành và phát triển của
trẻ, với nhiều những “biến cố” đặc biệt và được đặc trưng bởi những dấu hiệu của
tuổi dậy thì ở cả trẻ nam và trẻ nữ.
Vị thành niên đã có một vị trí xã hội mới, nó không hoàn toàn là trẻ con
nhưng cũng chưa phải là người lớn. Trẻ cảm thấy mình “người lớn” một cách có
căn cứ do nhận thức được những chuyển biến trong sự phát triển thể chất và trong
sự phát dục của mình. Và mặt khác, chính người lớn cũng không hoàn toàn coi trẻ
như trẻ con trước đây: cho trẻ tham gia các công việc của gia đình nhiều hơn, có trẻ
còn tham gia lao động góp phần giải quyết vấn đề kinh tế trong gia đình, nhiều
người lớn nhìn nhận và tự trẻ cũng nhận thấy mình có trình độ học vấn cao hơn bố
mẹ Do đó, trẻ có nguyện vọng mong muốn được làm người lớn và được đối xử

như người lớn.
Hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động học tập, vì thế nhận thức và trí tuệ
của trẻ được phát triển và dần hoàn thiện trong quá trình học tập.
“Cái tôi” ở trẻ dần hình thành và phát triển mạnh. Sự tự đánh giá, tự nhận
thức ngày càng phát triển cao hơn, trẻ nhận thức về mình một cách tỉ mỉ và nghiêm
khắc. Điều này khiến cho hành động của trẻ chủ yếu đi theo 2 xu hướng: một là,
nhận nhiệm vụ khó khăn và cố gắng hoàn thành nó; hai là, so sánh ngầm mình với
những người xung quanh. Do vậy mà lòng tự trọng của trẻ cũng phát triển theo hai
hướng: đánh giá mình không thấp hơn người khác (đánh giá tích cực) hoặc không
hài lòng, xem thường mình (đánh giá tiêu cực). Nhưng nhìn chung, trẻ chưa đạt
được tính tự trọng cao do hạn chế về độ tuổi.
7
Trong giai đoạn này, trẻ có nhu cầu giao tiếp cao với gia đình, bạn bè Các
quan hệ giao tiếp của trẻ được mở rộng, vượt ra ngoài phạm vi gia đình, bạn bè
cùng lớp, những người thân, hàng xóm
Trẻ bắt đầu bộc lộ rõ những tình cảm đạo đức như khâm phục, kính trọng
những người dũng cảm, coi trọng những giá trị đạo đức, mong muốn làm được điều
gì đó mang lại lợi ích cho nhiều người Những tình cảm cao đẹp khác về trí tuệ,
thẩm mỹ cũng được hình thành một cách sâu sắc.
Ở trẻ cũng bắt đầu xuất hiện những tình cảm mới lạ với bạn khác giới được
gọi là các rung cảm đầu đời. Song không phải ở trẻ nào cũng có những tình cảm
này.
Trong các quan hệ, đặc biệt là những quan hệ với người lớn, nếu như người
lớn vẫn coi vị thành niên như đứa trẻ thì trẻ sẽ chuyển mối quan hệ đó sang quan hệ
đối lập dưới dạng chống đối, bướng bỉnh, thậm chí là xung đột. Trẻ thường có tâm
lý “phóng đại” các năng lực mình, đánh giá chúng cao hơn hiện thực, tỏ ra ngang
bướng, “bất cần” trong những công việc hàng ngày cũng như những trải nghiệm
thất bại mà trẻ gặp phải. Nhiều nhà tâm lý đã dùng thuật ngữ “tuổi khủng hoảng”,
“tuổi bất trị”, “tuổi không thể giáo dục” để gọi độ tuổi này.
Song những khó khăn này có thể được giải quyết bằng những phương thức

giáo dục đúng đắn, đòi hỏi gia đình cũng như những nhà giáo dục phải hiểu rõ đặc
điểm tâm lý của trẻ cùng các điều kiện cũng như những hoàn cảnh tác động vào trẻ
để có những phương pháp giáo dục thích hợp.
4. Rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
4.1 Định nghĩa rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
Rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên là rối loạn của giai đoạn phát triển của
trẻ vị thành niên, một số trường hợp có thể tiếp diễn sang tuổi trưởng thành.
Trường hợp này gọi là rối loạn nhân cách và hành vi của người lớn.
8
Rối loạn hành vi loại này không phải là thứ phát sau một bệnh của não hay
một chấn thương não hay một số rối loạn tâm thần khác.
Phân loại mục bệnh này dựa vào nét nhân cách và rối loạn hành vi nổi bật
nhất và thường gặp nhất.
Việc thu thập thông tin về các trường hợp này phải dựa vào nhiều nguồn
thông tin và thăm dò nhiều chiều (mô tả các hành vi rối loạn hành vi nổi bật, thăm
dò các đặc điểm tâm lý và thể chất của mẹ trong khi có mang, thời kỳ chu sinh và
sức khỏe của trẻ em từ lúc lọt lòng mẹ đến thời điểm thăm khám, các tình huống
gây stress trong quá khứ và năng lực hoạt động của trẻ em trong một năm qua).
4.2 Phân biệt rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên và các thuật ngữ liên quan đến
mục bệnh này.
Trong quá trình làm việc, rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên rất dễ nhầm
lẫn với hai thuật ngữ: biến đổi nhân cách và rối loạn nhân cách và hành vi của
người lớn. Hai thuật ngữ này cũng có liên quan nhiều đến mục bệnh rối nhiễu hành
vi.
Trong đó:
Biến đổi nhân cách là rối loạn các đặc điểm tâm lý của một người, thứ phát
sau một bệnh hay một tổn thương não, ví dụ như: trẻ đã qua viêm nhiễm hay chấn
thương não có thể có biểu hiện tăng động với các cơn xung động hung hãn (viêm
não, chấn thương sọ não ); do sang chấn của một stress trầm trọng gây khủng
hoảng tâm thần do một thảm họa tự nhiên hay do con người gây ra (bão lụt, chiến

tranh, khủng bố; do bị đảo lộn môi trường sống (bị bắt cóc, bị hãm hiếp ).
Ở trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn hình thành nhân cách một cách
mạnh mẽ, nếu gặp những biến cố này thì sẽ gây những hậu quả nghiêm trọng đến
sự phát triển nhân cách sau này.
Rối loạn nhân cách và hành vi của người lớn là các kiểu hành vi có ý
nghĩa về mặt lâm sàng, kéo dài, tương đổi ổn định, biểu hiện đặc trưng cách sống
9
cá nhân, cách quan niệm về bản thân và cách thiết lập mối quan hệ với người khác.
Các kiểu trạng thái này bao gồm các phương thức hành vi bắt rễ sâu và kéo dài, là
các phản ứng mất uyển chuyển với các tình huống cá nhân và xã hội rất đa dạng,
phản ánh các lệch lạc cực đoan về nhận thức, tư duy, cảm giác và đặc biệt là các
quan hệ với người khác
4.3 Các biểu hiện chính của rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên
Theo DSM-IV (Hội tâm thần học Hoa Kỳ, 1994) cácb biểu hiện của rối loạn
hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên gồm có 15 biểu hiện và được tập hợp thành 4
nhóm:
 Xâm hại người khác hay uy hiếp người khác:
(1) Hay bắt nạt, đe dọa hay uy hiếp người khác
(2) Hay gây sự đánh nhau
(3) Dùng vũ khí có thể gây hại nghiêm trọng thân thể người khác
(4) Hành vi độc ác về thân thể với người khác
(5) Hành vi độc ác về thân thể với súc vật
(6) Ăn cắp đối mặt với nạn nhân (cướp đoạt, giật đồ, tống tiền, ăn cướp có
vũ khí)
(7) Cưỡng dâm
 Phá hoại tài sản
(8) Cố ý gây cháy với ý định gây hại nghiêm trọng
(9) Cố ý phá hoại tài sản người khác (khác với gây cháy)
 Lừa đảo hay trộm cắp
(10) Đập phá xông vào nhà hay ô tô của ai đó

(11) Thường xuyên nói dối để nhận được đồ vật hay ân huệ hay để tránh các
nghĩa vụ (nghĩa là lừa gạt người khác)
(12) Ăn cắp các vật có giá trị lớn không đối mặt với nạn nhân (lấy cắp trong
cửa hàng, giả mạo giấy tờ)
10
 Vi phạm nghiêm trọng các luật lệ
(13) Thường qua đêm ngoài gia đình mặc dù bố mẹ cấm đoán, bắt đầu trước
tuổi 13
(14) Trốn nhà qua đêm ít nhất hai lần trong khi đang sống ở nhà bố mẹ hay ở
nhà người thay thế bố mẹ (hay một lần không trở về nhà trong thời gian dài)
(15) Thường trốn học trước tuổi 13
Khi kết luận trẻ vị thành niên có bị rối nhiễu hành vi hay không cần thiết
phải dựa vào các biểu hiện chủ yếu trên. Tuy nhiên, rối loạn hành vi có mang tính
chất lứa tuổi (cùng một biểu hiện, nếu xuất hiện ở lứa tuổi nhỏ có thể là bình
thường, nếu nó xuất hiện ở tuổi lớn hơn thì lại là bất thường), vì vậy khi đánh giá
các hành vi của trẻ vị thành niên cần chú ý xem xét yếu tố tuổi để kết luận chính
thức rằng đó có phải là một hành vi bệnh lý hay không.
Những trẻ rối loạn hành vi thường khiến cho cả gia đình, thày cô giáo, bạn
bè của trẻ, những người thân, những người sống xung quanh( hàng xóm) phải lo
lắng. Như vậy đã tạo ra sự bất an trong xã hội: cha mẹ lo lắng buồn phiền trước
tương lai của con em mình, bạn bè thất vọng, chán nản, lo lắng mình cũng có thể sẽ
trở thành nạn nhân của những hành vi rối loạn của bạn mình
Qua tìm hiểu những tài liệu về rối loạn hành vi, thấy rằng có một số biểu
hiện rối nhiễu hành vi được các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu nhiều hơn. Và
trong thực tế thì những biểu hiện này xuất hiện rất nhiều trong số những hành vi bị
rối nhiễu của trẻ. Có thể kể ra như: hành vi bỏ trốn, hành vi ăn cắp, hành vi nói dối,
rối loạn hành vi và băng nhóm, hành vi hung tính
Hành vi bỏ trốn: khi đánh giá hành vi này của trẻ cần phân biệt giữa bỏ trốn
thật và bỏ trốn tưởng tượng. Trong đó, bỏ trốn tưởng tượng là bỏ trốn mà bản thân
trẻ nhiều khi không nhận thức được trước mắt trẻ là nơi nào.

Bỏ trốn thật là để chạy trốn một xung đột gây khó chịu để đi tìm sự dễ chịu
hơn. Như bỏ trốn môi trường gia đình, trường học do giữa trẻ và người lớn (cha
11
mẹ, anh chị, thầy cô ) nảy sinh mâu thuẫn khó điều hòa (nguyên nhân có thể do sự
kiểm soát của gia đình, nhà trường với trẻ, do sự đối lập trong các quan điểm nhân
sinh quan). Bỏ trốn ở đây cũng có thể là biểu hiện của thái độ tự lập, trẻ cho rằng
mình đã đủ lớn, không cần phụ thuộc vào gia đình, cho rằng mình bị xem thường.
Bỏ trốn có 3 loại:
• Bỏ trốn trường học: trẻ đáng lẽ phải đến trường nhưng trẻ lại dùng thời
gian đó đi chơi hoặc làm một việc gì đó nhưng lại về nhà đúng giờ.
• Trốn nhà: trẻ thường tự giới hạn về thời gian, nhưng không tương
xứng với giờ học.
• Trốn nhà đi lang thang, du đãng hoặc đến nhà người thân ở. Hiện
tượng này nếu kéo dài sẽ có thể dẫn trẻ đến chỗ phạm pháp do bị những nhóm
người xấu lôi kéo hay đe dọa.
Hành vi trốn nhà thông thường hay gặp ở những trẻ học kém, có những vấn
đề xung đột ở trường hay trong gia đình. Nếu không tìm thấy, những căn nguyên
gây phản ứng để có phương pháp giải quyết thích hợp và kịp thời thì sẽ dẫn trẻ đến
những hành vi phạm pháp.
Hành vi ăn cắp: Trong nhiều trường hợp, trộm cắp thường là hành vi trái
với luân lý là pháp luật, song ở trẻ vị thành niên nói riêng và ở trẻ em nói chung có
thể do nhiều cơ chế tâm lý phức tạp. Hành vi ăn cắp của trẻ vị thành niên có thể là
hành vi ăn cắp đối mặt với nạn nhân (cướp giật, tống tiền, ăn cướp có vũ khí )
hoặc là ăn cắp không đối mặt với nạn nhân (lấy cắp đồ trong gia đình, ăn cắp trong
cửa hàng, giả mạo giấy tờ ). Hiện nay càng ngày càng có nhiều trẻ vị thành niên
phạm tội ăn cắp có đối mặt với nạn nhân, chúng thường tụ tập với nhau thành băng
đảng để cùng nhau thực hiện hành vi ăn cướp.
Trước 6 tuổi, việc trộm cắp đối với trẻ không đáng kể vì đứa trẻ chưa nhận
thức được giá trị của đồ vật mà trẻ lấy và chưa phân biệt được nó và người khác,
những gì thuộc về nó và những gì thuộc về người khác. Ví dụ như trẻ khoảng 2 - 3

12
tuổi cho rằng mọi thứ là của nó, nó có thể lấy và không cần hỏi xin ai, khi bố mẹ có
hỏi thì nói rằng đó là của người ta cho nó. Như vậy là trẻ đã nói dối.
Ở trẻ lớn hơn, ăn cắp có thể là để bù trừ cho những thiếu hụt, để lấp chỗ
trống. Như một đứa trẻ thấy bạn có một món đồ chơi, nó cũng muốn có nhưng bố
mẹ không đồng ý đã dẫn đến việc nó ăn trộm tiền của bố mẹ để đi mua món đồ
chơi đó.
Nhiều trường hợp, ăn cắp là để “khoe tài”, trẻ coi đó là một sự thách đố, một
trò vui. Hiện nay, thỉnh thoảng báo đài cũng đưa tin về những trẻ vị thành niên rủ
nhau lấy trộm đồ trong siêu thị, những đồ đó nhiều khi là những thứ mà trẻ đã có,
thậm chí là những thứ mà trẻ không cần đến. Có nhiều trường hợp ăn cắp để có tiền
ăn chơi, đua đòi cùng nhóm bạn
Hành vi ăn cắp của trẻ có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau, có thể là để thể
hiện những thiếu thốn thật sự của trẻ, nhưng cũng có thể là những hành vi hoàn
toàn tiêu cực. Vì vậy cần phải làm rõ động cơ khiến trẻ hành động và tránh cho bố
mẹ thái độ bi quan đối với hành vi của trẻ. Nếu hành vi ăn trộm của trẻ lặp đi lặp lại
và sau 10 – 12 tuổi thì mới coi đó là biểu hiện của rối nhiễu hành vi.
Hành vi nói dối: Hành vi bỏ trốn, hành vi ăn cắp và rất nhiều những hành vi
khác ở trẻ vị thành niên đều đi liền với hành vi nói dối
Trẻ trước 7 tuổi, nói dối hầu như là sinh lý, nhất là khi trẻ muốn khoe khoang
hoặc đặt chuyện. Nói dối để tự vệ là điều thông thường, đặc biệt là ở trường học và
được xem là bệnh lý khi mà trẻ ý thức được hành động nói dối của mình và tự mình
sát nhập vào cơ chế phức tạp của sự phủ định, đồng thời hành vi nói dối của trẻ
phải kéo dài hơn 6 tháng.
Một trẻ bỏ trốn và nói dối nhằm mục đích che dấu việc chuẩn bị ra đi. Nói
dối còn để tránh bị giễu cợt, trách mắng, để duy trì hình ảnh đặc trưng của mình,
hình ảnh do bố mẹ đã tạo dựng cho nó; để tìm kiếm sự thương hại; thu hút sự quan
tâm; trốn tránh nghĩa vụ; để che đậy sự thật; để lừa gạt Trẻ có thể thú nhận một
13
lỗi lầm mà nó không hề gây ra để bị trừng phạt nhưng mục đích chính là để thu hút

sự quan tâm. Giữa những trẻ cùng nhóm với nhau nhiều khi cũng nói dối để bao
biện cho nhau và giữa chúng thường có sự thỏa hiệp trước với nhau về nội dung nói
dối người lớn và cả những bạn trong hoặc ngoài nhóm bạn.
Thường nói dối đi cùng với các hành vi ăn trộm, hành vi bỏ trốn. Để chuẩn
đoán là chứng nói dối thì hiện tượng này phải diễn ra trên 6 tháng gần đây.
Hành vi hung tính (hành vi độc ác về thân thể với người khác, với súc
vật): là những hành vi hung bạo với súc vật, con người và môi trường xung quanh.
Trẻ có những hành vi này có thể do yếu tố bẩm sinh, yếu tố tâm lý và các mối quan
hệ chi phối.
Những trẻ này thường hay gây gổ, bắt nạt với các bạn cùng tuổi, nhỏ tuổi
hơn và thậm chí là những bạn lớn tuổi hơn và cả những người lớn nữa. Những
nguyên nhân dẫn đến hành vi hung bạo thường không có nguyên nhân rõ ràng:
thích bắt nạt người khác, do bị kích động, bị khiêu khích, cũng có thể là để giải tỏa
tâm trạng bức bối do không thể giải quyết được với người gây ra mâu thuẫn thì trút
bỏ lên người khác hay súc vật khác
Rối loạn hành vi và băng nhóm: các rối loạn hành vi thường bị biến dạng
và phình đại khi có nhiều trẻ em cùng tham gia (băng nhóm). Một đứa trẻ một mình
nó không dám làm chuyện bậy bạ nhưng khi ở trong nhóm, nó có thể có hành vi
khác hẳn (do các trẻ khác trong nhóm kích động, trẻ cảm thấy mình được công
nhận, được ủng hộ hành vi sai phạm của mình là đúng, do có các trẻ khác cùng
tham gia hưởng ứng ).
Trẻ vị thành niên trong nhóm thường có một số đặc điểm như:
 Không ý thức được tác hại của việc làm bậy sẽ mắc phải.
 Tỏ ra gan dạ hoặc sợ hãi. Nhưng thường nó không chịu thua kém hơn
các trẻ khác.
14
 trẻ muốn được các trẻ khác trong nhóm ngưỡng mộ, không nghĩ gì
đến hậu quả của việc nó làm.
 Trẻ thấy sung sướng khi được sống và hoạt động cùng với nhóm, khi
phải tách khỏi nhóm là một hình phạt nặng nề.

 Các trẻ này thường có các tính xấu, hay rủ rê, phô trương và cấu kết
đặc biệt với nhóm, không cảm thấy mình có lỗi nên rất khó sửa chữa
Nhìn chung những trẻ đã tham gia các băng nhóm thường rất khó sửa chữa,
khó giáo dục lại. Nhưng nếu không có các biện pháp đưa các em trở lại sự phát
triển bình thường thì rất dễ dẫn đến nguy cơ phạm pháp khi các em bước vào tuổi
trưởng thành.
4.4 Các tiêu chuẩn chẩn đoán.
Từ nghiên cứu các rối nhiễu hành vi, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những
tiêu chuẩn chẩn đoán rối nhiễu hành vi, các tiêu chuẩn này rất quan trọng và cần
thiết trong tâm lý học lâm sàng và trong tâm bệnh học khi kết luận trẻ có rối nhiễu
hành vi hay không:
• Sự lặp đi lặp lại kéo dài kiểu hành vi xâm phạm các quyền cơ bản của
người khác hay các chuẩn mực xã hội, các luật lệ, ít nhất có 3 trong 15 tiêu chuẩn
trên trong vòng 12 tháng vừa qua và ít nhất có một tiêu chuẩn trong 6 tháng qua.
• Mức độ rối loạn phải gây tổn hại có ý nghĩa trong hoạt động xã hội, học tập
hay lao động ở gia đình, trường học hay đường phố.
• Các rối loạn hành vi này không phải là triệu chứng hay di chứng của một
bệnh tâm thần khác.
Người có rối loạn hành vi thường cho rằng vấn đề hành vi của họ không có
gì đáng kể.
Với người trên 18 tuổi, các tiêu chuẩn trên đây không có đủ để chuẩn đoán
rối loạn nhân cách chống đối xã hội.
Song cần phải lưu ý một số điểm như:
15
• Ở người trên 18 tuổi, chỉ chuẩn đoán rối loạn hành vi khi không đáp
ứng các tiêu chuẩn rối loạn nhân cách chống đối xã hội.
• Rối loạn nhân cách chống đối xã hội không được phép chẩn đoán ở
người dưới 18 tuổi.
4.5 Nguyên nhân rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
Theo các nghiên cứu mới đây, rối nhiễu hành vi có cả nhân tố di truyền và

nhân tố môi trường tác động.
4.5.1 Nhân tố di truyền
Theo nghiên cứu của Việt Nam, tỷ kệ trẻ em rối loạn hành vi có các vấn đề
sinh học là 4% - 28%.
Trẻ có bố mẹ đẻ hay bố mẹ nuôi bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội, có
các bệnh tâm thần hoặc có anh chị em bị rối loạn hành vi thường có nguy cơ bị rối
nhiễu hành vi cao.
Rối loạn hành vi ở trẻ em xuất hiện phổ biến ở những trẻ có cha mẹ nghiện
rượư, bị rối loạn khí sắc, bị tâm thần phân liệt hay những cha mẹ có tiền sử bị các
rối loạn giảm chú ý – tăng động hay rối loạn hành vi.
4.5.2 Nhân tố môi trường
Theo các nghiên cứu của bệnh viện tâm thần TW năm 1989, nhân tố tâm lý –
xã hội chiếm tỷ lệ 72% - 96% số trẻ em và thanh thiếu niên từ 10 – 17 tuổi bị rối
loạn hành vi.
Trong đó:
Yếu tố gia đình là một yếu tố đóng vai trò chủ đạo trong các nguyên nhân
gây rối loạn hành vi của trẻ. Yếu tố gia đình bao gồm một số những yếu tố như:
Gia đình có các vấn đề bê bối: cha mẹ hay người thân phạm pháp, nghiện
rượu, có các vấn đề xã hội.
Cha mẹ ly hôn, tái hôn với người khác.
16
Hoàn cảnh kinh tế khó khăn không đảm bảo các nhu cầu thiết yếu thường dễ
đẩy trẻ vào băng nhóm để tìm cách thỏa mãn những nhu cầu của mình hoặc là có
các hành vi ăn trộm tài sản của người khác.
Không khí gia đình không tốt: có mâu thuẫn giữa những người trong gia
đình, nghi ngờ, tranh giành lẫn nhau, nói xấu, tìm cách bôi nhọ nhau
Cha mẹ không ý thức hết được trách nhiệm với con cái, không nắm bắt được
cách giáo dục con một cách khoa học, khong nhất quán trong cách nuôi dạy, quản
lý con cái
Yếu tố nhà trường: do thầy cô thiếu mô phạm, phạm sai lầm trong cách giáo

dục, mục đích giáo dục, thiếu công bằng, trù dập học sinh, không nắm bắt được các
biện pháp tâm lý giáo dục cho các học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng.
Do trong nhà trường có môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các
học sinh với nhau: chế diễu, bắt nạt, trù dập, tẩy chay nhau, ganh ghét nhau
Yếu tố xã hội: yếu tố xã hội gây tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nhân
cách cùng các chuẩn mực hành vi của trẻ.
Tuổi vị thành niên là giai đoạn mà trẻ bắt đầu mở rộng tầm hiểu biết, nhận
thức của mình ra ngoài xã hội một cách mạnh mẽ. Các tệ nạn xã hội, các hành vi
xấu rất dễ kích thích trẻ, làm cho trẻ bắt chước theo.
Trong những xã hội mà có nhiều vấn đề khó khăn như: thiếu chỗ ở, thiếu ăn,
thất nghiệp, không có trình độ văn hóa thì rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên càng
nhiều, trẻ dễ bị đẩy vào các hành vi ăn cắp, ăn trộm, thậm chí là ăn cắp đối mặt với
nạn nhân để thỏa mãn nhu cầu của mình hay của người khác (gia đình, bạn bè )
Những quan điểm lệch lạc trong xã hội nếu được nhiều người công nhận
cũng góp phần lớn trong việc hình thành những hành vi rối loạn ở trẻ. Như trong xã
hội coi sức mạnh là trên hết, “cá lớn nuốt cá bé”, thì những hành vi bạo lực là
đương nhiên, trẻ coi các hành vi độc ác về thân thể của người khác, của súc vật là
bình thường, không có cảm giác tội lỗi khi thực hiện những hành vi này.
17
Thêm vào đó là sự tồn tại của những băng nhóm, luôn rủ rê, lôi kéo các
thành viên mới vào nhóm mình, đặc biệt là các thành viên trẻ thường xuyên gặp
những thất bại học đường, bị bố mẹ, thầy cô mắng, ít quan tâm, những trẻ thiếu tình
thương do mồ côi hay bị mất cha (mẹ), đang gặp những mâu thuẫn gia đình, trường
học
4.6 Điều trị rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên.
Những trẻ rối nhiễu hành vi thường coi vấn đề của mình không đáng kể.
Chúng có thể có những thái độ khác nhau như:
Chán nản, bi quan, không có niềm tin sống.
Hối hận, muốn làm lại cuộc đời.
Muốn trả thù xã hội.

Cảm thấy thích thú, tự đắc vì làm được các việc khác người, có năng lực và
sức mạnh hơn người
Điều trị cho trẻ rối nhiễu hành vi vì thế gặp rất nhiều khó khăn, nhưng điều
quan trọng là phải làm cho trẻ nhận thức được sai lầm của mình và đặc biệt là chính
trẻ phải có nhu cầu mong muốn thay đổi bản thân, từ đó mới có thể hợp tác tốt
trong quá trình điều trị.
Điều trị tốt nhất là có cả sự can thiệp y – tâm lý – giáo dục, đồng thời có sự
nâng đỡ của gia đình, bạn bè xã hội. Các liệu pháp có thể sử dụng là liệu pháp tâm
lý cá nhân, liệu pháp tâm lý gia đình, liệu pháp tâm lý nhóm. Tùy từng trường hợp
cụ thể mà có sự lựa chọn phương pháp thích hợp.
Hầu như là không có thuốc đặc trị rối loạn hành vi. Chỉ sử dụng thuốc nếu
như rối nhiễu hành vi có đi kèm với các bệnh khác.
III. Kết luận và kiến nghị.
Theo số liệu điều tra của viện tâm thần TW năm 1989, kết quả rối loạn hành
vi ở môi trương thành thị là 2% - 10,22%, còn ở nông thôn là 1% và tỉ lệ trẻ em trai
(88% - 95%) trội hẳn hơn so với trẻ em gái (5% - 12%). Và theo số liệu của Sở
18
công an Hà Nội (1987), trong số các trường hợp phạm pháp nghiêm trọng có 10,2%
là trẻ em dưới 18 tuổi, đến nay, con số này đã tăng lên nhiều và càng ngày càng có
xu hướng gia tăng cùng với mức độ vi phạm ngày càng nặng hơn. Có thể nói, rối
nhiễu hành vi đang càng ngày càng phát triển hơn, phức tạp hơn.
Nguyên nhân dẫn đến rối nhiễu hành vi chủ yếu là do từ bên ngoài tác động
vào trẻ, chỉ có một số rất ít là có nguyên nhân do yếu tố di truyền bẩm sinh.
Muốn ngăn chặn các hiện tượng rối nhiễu hành vi thì không chỉ gia đình, mà
cả xã hội cũng phải nỗ lực, tìm kiếm các phương pháp giáo dục, quản lý trẻ một
cách hiệu quả, cố gắng giảm thiểu các nguyên nhân gây rối nhiễu hành vi ở trẻ
nhằm tạo cho trẻ một môi trường phát triển lành mạnh. Với những trẻ có rối nhiễu
hành vi, cần có những cách giáo dục lại thích hợp, phải khuyến khích,động viên,
không được phân biệt đối xử để trẻ có thể quay lại môi trường xã hội phát triển
bình thường.

MỤC LỤC
I. Phần mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
II. Nội dung nghiên cứu 2
1. Sơ lược vấn đề nghiên cứu 2
1.1 Các nghiên cứu ngoài nước. 2
1.2 Các nghiên cứu trong nước 3
2. Các khái niệm cơ bản 4
2.1 Khái niệm “hành vi” 4
2.2 Khái niệm “rối nhiễu hành vi” 5
3. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên 7
4. Rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên 8
4.1 Định nghĩa rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên 8
4.2 Phân biệt rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên và các thuật ngữ liên quan đến mục bệnh
này 9
4.3 Các biểu hiện chính của rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên 10
4.4 Các tiêu chuẩn chẩn đoán 15
4.5 Nguyên nhân rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên 16
4.5.1 Nhân tố di truyền 16
19
4.5.2 Nhân tố môi trường 16
4.6 Điều trị rối nhiễu hành vi ở trẻ vị thành niên 18
III. Kết luận và kiến nghị 18
20

×