BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:
GIAO TIẾP TRONG QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
NỘI DUNG
I. KHÁI QT VỀ GIAO TIẾP
Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học. Tư
tưởng phưởng về giao tiếp được đề cập đến từ thời cổ đại qua thời kỳ phục
hưng và đến giữa thế kỷ XX thì hình thành nên một ngành tâm lý học giao
tiếp. ngay từ khi cịn là các tư tưởng về giao tiếp đến khi xuất hiện tâm lý
giao tiếp chưa bao giờ thống nhất hồn tồn. Mỗi tác gỉa đề cập đến một
mặt, một khía cạnh của hoạt động giao tiếp.
Ở Việt Nam ta cũng có nhiều quan điểm về giao tiếp:
Theo từ điển tâm lý học của Vũ Dũng thì giao tiếp là q trình thiết
lập và phát triển tiếp xúc cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động.
Giao tiếp động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao tiếp có ba
khía cạnh chính: giao lưu, tác động tương hỗ và tri giá.
Từ điển tâm lý của Nguyễn Khắc Viện: Giao tiếp là q trình truyền
đi, phát đi một thơng tin từ một người hay một nhóm cho một người hay một
nhóm trong những mối quan hệ tác động lẫn nhau. Thơng tin hay thơng điệp
được nguồn phát mà người nhận phải giải mã. Cả hai bên đều vận dụng một
mã
chung
theo tâm lý học của Trình Thị Minh Đức, giao tiếp là sự trao đổi tiếp xúc
trao đổi thơng tin giữa người với người qua ngơn ngữ, cử chỉ, tư thế, trang
phục.
Tâm lý đại cương: giao tiếp là q trình tiếp xúc giữa con người với
con người nhăm mục đích nhận thức, thơng qua sự trao đổi lẫn nhau thơng tin,
cảm xúc, sự ảnh tác động qua lại lẫn nhau.
Như vậy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi tác giả
tùy theo phương tiện nghiên cứu của mình đã rút ra một định nghĩa giao tiếp
theo một cách riêng và làm nổi bật khía cạnh nào đó. Tuy vậy số đơng các tác
giả đều hiểu giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người nhằm trao
đổi thơng tin, tư tưởng tình cảm… giao tiếp là phương thức tốn tại của con
người. Nói tóm lại có rất nhiều các ý kiến khác nhau về giao tiếp, và như vậy
dẫn đến nhiều phương pháp tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề giao tiếp. các
quan điểm trên đây cịn rất nhiều điêm khác nhau nhưng đã phàn nào phác họa
nên diện mạo bề ngồi của giao tiếp. Ở đây chúng ta sẽ tập trung đi tìm hiểu
vấn đề giao tiếp trong hoạt động quản lý.
* Hoạt quản lý hành chính nhà nước cũng là một dạng hoạt động mang
tính tổ chức. Vậy thì đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu các loại quan hệ thương
thấy trong tổ chức:
1. Các loại quan hệ trong tổ chức
Tổ chức là một hệ thống các mối quan hệ đan xen nhằm tạo sự nỗ lực
chung của các bộ phận, các thành viên trong việc thực hiện mục đích mà tổ
chức theo đuổi. Giao tiếp là q trình giao tiếp giữa con người với con người
nhằm mục đích trao đổi nhận thức, tư tưởng tình cảm, vốn sống, kinh
nghiệm cá nhân xã hội, kỹ xảo nghề nghiệp hồn thiện nhân cách phù hợp
với những chuẩn mực hành vi xã hội của cộng đồng. Nó là phương tiện quan
trọng để thiết lập và vận hành các mối quan hệ. vì thế, để hiểu về giao tiếp,
trước hết phải hiểu về những quan hệ trong tổ chức.
a. Quan hệ liên nhân cách.
* Khái niệm:
Quan hệ tâm lý của con người bao giờ cũng tồn tại trong một tổ chức
nhất định (có thể là chính thức hoặc khơng chính thức). Quan hệ liên nhân
cách cũng tồn tại trong tổ chức, trong phạm vi của những người đang trực
tiếp hay gián tiếp giao tiếp với nhau, tác động với nhau.
Quan hệ liên nhân cách là quan hệ qua lại trực tiếp, hay gián tiếp của
con người (tronng q trình giao tiếp hay trong q trình qua lại) ln ln đi
kèm với trạng thái hài lịng hay khơng hài lịng của các chủ thể với nhau.
Với định nghĩa trên cho thấy khơng phải bất kỳ quan hệ nào cũng có quan hệ
liên nhân cách chỉ có quan hệ nào đi kèm trạng thái hài lịng hay khơng hài
lịng mới là quan hệ liên nhân cách
* Cấu trúc của q trình tác động qua lại trong quan hệ liên nhân cách,
bao gồm ba thành phần: hành vi, xúc cảm và nhận thức. Sự tác động thứ bậc
vai trị ba thành phần này khác nhau trong từng loại tổ chức. Ở tổ chức chính
thức, quan hệ hành vi giữ vai trị điều chỉnh cơ bản, trong khi đó quan hệ cảm
xúc lại thực hiện chức năng điều chỉnh cơ bản trong tổ chức khơng chính
thức. Quan hệ liên nhân cách than gia điều chỉnh ba thành phần vì bao giờ nó
cũng kèm theo trạng thái tình cảm, dù cho quan hệ đó diễn ra ở loại tổ chức
nào.
* Quan hệ liên nhân cách và giao tiếp:
Quan hệ liên nhân cách nảy sinh và phát triển trong q trình giao tiếp là
sự tác động qua lại và có sự giác lẫn nhau. Nói cách khác, giao tiếp làm nảy
sinh(hình thành) quan hệ giữa người với người. Đồng thời giao tiếp cịn kèm
theo sự trao đổi các trạng thái cảm xúc, hình thành sự tiếp xúc có tính chất
xúc cảm và thỏa mãn nhu cầu nào đó. Đây là cơ sở để quan hệ liên nhân cách
nảy sinh, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ. Khi quan hệ liên nhân cách nảy
sinh đã hình thành, nó có vai trị chi phối q trình giao tiếp .
Nhận biết quan hệ liên nhân cách thơng qua các biểu hiện:
Sự thiện cảm và ác cảm: Thiện cảm của hai chủ thể là sự gần gũi
thực sự hay mong muốn gần gũi về mặt khơng gian giữa họ. Khi thiện cảm
phát triển ở mức độ cao sẽ chuyển thành tình u thương và sự gắn bó (sự
gắn bó phụ thuộc lẫn nhau, dám từ chối những lợi ích cá nhân vì lợi ích của
người
khác).
Ngược lại với thiện cảm là ác cảm. Sự ác cảm khiến mỗi chủ thể chỉ khẳng
định bản thân mà phủ nhận hoặc chia rẽ người khác.
Sự làm việc ăn ý: là kết quả của sự tác động qua lại của con người cụ
thể trong hoạt động cụ thể đạt đượ hiệu quả cao trong khi tiêu hao năng
lượng thấp của về tâm lý và về thần kinh.
Sự tương hợp: là sự làm việc chung có hiệu quả cao và đem lại sự hài
lịng cho mọi người trong khi hoạt động chung. Tương hợp là sự phát triển
cao của sự làm việc ăn ý giữa các cá nhân trong tổ chức.
b. Quan hệ xã hội
Quan hệ xã hội là quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức, một cộng
đồng khi họ đóng các vai trị xã hội khác nhau để tiến hành một hoạt động
chung nào đó. Quan hệ xã hội là những tương tác xã hội được lặp lại và mang
tính ổn định tương đối.
Quan hệ xã hội trong tổ chức giúp cơng việc được thực hiện đúng theo
u cầu chung, giúp cộng đồng xã hội có nền nếp trật tự, chống lại sự hỗn
độn tùy tiện có thể nảy sinh trong tổ chức. Nhờ quan hệ này, người lãnh đạo
có thể quả lý tốt các hoạt động chung nhất và quản lý ở tầng vĩ mơ.
+ Quan hệ xã hội là quan hệ khách quan. Điều đó có nghĩa khi tham gia
vào quan hệ này, các cá nhân buộc phải tn theo những u cầu chung(dù
muốn hay khơng muốn). Những u cầu này xuất phát từ u cầu khách quan
của các vai trị mà cá nhân đảm nhận quy định. Vì lẽ đó, người ta khơng thể
tùy tiện khi tham gia vào các quan hệ xã hội.
+ Là quan hệ gián tiếp: Tính gián tiếp của quan hệ xã hội do sự quy
định và vai trị của mỗi cá nhân trong tổ chức. Khi tham gia vào quan hệ xã
hội, mỗi cá nhân khơng có điều kiện để thể hiệ cái riêng của mình (quan hệ
thơng qua vai trị chứ khơng phụ thuộc vào khơng gian thực hiện quan hệ đó).
+ Có những nghi thức, cách thức quy định: Quan hệ xã hội được vận
hành dưới sự điều chỉnh của các u cầu, cách thức nghi thức… được quy
định một cách chặt chẽ. Những u cầu nnaayf có sự khác biệt trong các tổ
chức khác nhau.
c. Quan hệ cá nhân
Quan hệ cá nhân là quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng với
ttaats cả các đặc điểm riêng vốn có của họ.
Quan hệ cá nhân xuất hiện trong tổ chức, trong cộng đồng nhằm thỏa
mãn các nhu cầu giao lưu tình cảm của các thành viên. Trong quan hệ này mỗi
cá nhân được bộc lộ ra (hoặc ít có điều kiện bộc lộ ra). Quan hệ cá nhân hỗ
trợ cho quan hệ xã hội nhằm điều hịa các quan hệ tâm lý giúp cho cộng đồng
hồn thành các nhiệm vụ được đặt ra. Thơng qua quan hệ cá nhân, mỗi cá
nhân thỏa mãn được nhu cầu giao lưu tình cảm, do đó nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống tâm lý của mỗi cá nhân.
Các quan hệ cá nhân:
Trong các quan hệ cá nhân, các cá nhân có điều kiện bộc lộ cái riêng
của mình. Căn cứ vào mức độ biểu hiện cái riêng quan hệ cá nhân người ta
chia quan hệ cá nhân ra làm hai loại:
+ Quan hệ chức năng: là quan hệ cá nhân dựa trên cơ sở hai bên cùng có
lợi trong việc đạt tới mục đích của mình.
+ Quan hệ tình cảm: là loại quan hệ cá nhân trong đó con người được
bộc lộ những đặc điểm riêng của mình, và được người khác thừa nhận,
khuyến khích thực hiện. Đây là quan hệ người trực tiếp, có tính chọn lọc và
khi được phát triển sẽ trở thành tình bạn tình u v.v…
Quan hệ tình cảm được duy trì, đảm bảo các điều kiện như sự tin cậy,
cởi mở và tơn trọng lẫn nhau. Đây là lọa quan hệ quan trọng nhất bảo đảm sự
n ổn trong đời sống tinh thân của con người.
Các yếu tố chi phối quan hệ cá nhân:
+ Sự cảm thụ giữa các cá nhân với nhau: con người cảm nhận về nhau
như thế nào họ có quan hệ tương ứng, đặc biệt là trong lần tiếp xúc đầu tiên.
Vị trí xã hội của cá nhân: được xác định qua địa vị xã hội , tuổi tác, nghề
nghiệp, trình độ học vấn. vị trí xã hội ảnh hưởng đến các quan hệ cá nhân
như: sự bình dẳng, sự thỏa mái v.v…
+ Khoảng cách xã hội: khoảng cách xã hội trong quan hệ cá nhân sẽ
xuất hiện khi có sự khác biệt về sự xuất thân của các cá nhân tham gia vào
các quan hệ này. Tầng lớp xuất thân làm cho con người có những đặc điểm
khác nhau, khi quan hệ các quan hệ này sẽ bộc lộ và chi phối tính chất các
mối
quan
hệ
đó.
Ngồi các yếu tố nêu trên, quan hệ cá nhân bị chi phối bởi các yếu tố khác
như: phong tục tập qn, mẫu người được cộng đồng xây dựng, kỳ vọng và
một số cơ chế về thơng tin được duy trì trong tổ chức, trong cộng đồng.
2. Bản chất của giao tiếp trong hoạt động quản lý.
Giao tiếp là hoạt động xác lập mối quan và tiếp xúc giữa con người với
nhau trong phạm vi hành chính nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định của
cá nhân và tổ chức.
a. Giao tiếp là một q trình trao đổi thơng tin.
Trong hành chính, giao tiếp có chức năng chủ yếu là thu nhận và trao
đổi thơng tin giữa hai bên giao tiếp. Trong q trình trao đổi, thơng tin khơng
đơn thuần là được truyền đi mà cịn được hình thành, chính xác hóa và phát
triển. Nói cách khác giao tiếp khơng đơn giản chỉ là một q trình truyền
thơng điệp. Giao tiếp là cuộc đối thoại hai chiều làm thay đổi nhận thức của
hai bên giao tiếp, tức là có sự chia sẻ thơng tin.
Q trình trao đổi thơng tin giao tiếp có thể gặp phải những rào cản. Có
hai loại rào cản là rào cản có tính chất xã hội (khơng thống nhất trong đánh
giá của cả hai bên về tình huống giao tiếp; sự khác nhau trong vai trị xã
hội,nghề nghiệp v.v…) và rào cản có tính chất tâm lý(sự khơng tin tưởng,
khơng thiện cảm với nhau, sự e dè thiếu cởi mở v.v…).
Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, để sự trao đổi thơng tin
trong giao tiếp có hiệu quả cần chú ý một số u cầu sau:
Xây dựng các thơng điệp một cách có hiệu quả (nội dung rõ ràng, trình
bày hợp lý…).
Đảm bảo thơng tin đuợc thơng suốt trong tổ chức và hạn chế đến
mức thấp nhất tác động của các rào cản.
Xác định rõ về mơi trường giao tiếp: trong tổ chức, mỗi chức danh,
mỗi cơng việc đều có những quy định (chính thức hoặc khơng chính thức) chi
phối các hành vi giao tiếp, vì vậy khi tiến hành giao tiếp phải biết rõ mình
giao tiếp với ai, phải giao tiêp như thế nào và thời gian bao lâu v.v…
Thực hiện sự đáp ứng (phản hồi): sự đáp ứng cho biết mức độ phù
hợp về hồn cảnh giao tiếp cũng như độ chính xác trong q trình trao đổi
thơng tin.
b. Giao tiếp là q trình tác động qua lại.
Trong q trình giao tiếp, cùng với sự trao đổi thơng tin các bên tham gia
vào q trình này cịn thực hiện sự giao lưu tình cảm, tư tưởng. qua giao tiếp
con người hiểu biết về nhau và có những thay đổi nhất định.
Tác động qua lại giữa các bên giao tiếp có tác dụng tạo ra những dạng
những chuẩn mực hành động chung. Hầu hết các cơng việc thuộc lợi ích cơng
đều được tiến hành thơng qua con đường giao tiếp. Các cuộc giao tiếp đều có
mục đích, do vậy sự tác động diễn ra trong q trình giao tiếp xét đến cùng
đều hướng đến đạt mục đích giao tiếp mà mỗi bên đã xác định. Trong quản lý
hành chính, tác động qua lại trong giao tiếp phải làm cho các bên tham gia giao
tiếp cảm thấy tốt hơn, thuận lợi khi cùng nhau làm việc,cùng nhau xây dựng
giải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Nhà
nước của chúng ta là nhà nước của dân do dân vì dân, do đó bộ máy hành
chính được xây dựng lên là để phục vụ nhu cầu chung của nhân dân. Muốn
vậy, giao tiếp trong các bộ máy này phải được thực hiện theo quan điểm nêu
trên.
II. MỘT SỐ YẾU TỐ TÂM LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Định kiến ảnh hưởng đến giao tiếp.
* Định kiến là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học quan tâm. Bởi lẽ,
nó là một trong những yếu tố tâm lý nhxã hội đặc trưng của nhóm, phản ánh
đời sống tâm lý phức tạp trong phạm vi nhóm và xã hội nói chung. Các nhà
tâm lý cũng có định nghĩa khác nhau về định kiến.
Các nhà tâm lý học xơ viết cũ cho rằng: Định kiến xã hội là quan niệm
đơn giản, máy móc, thường khơng đúng sự thật thể hiện trong nhận thức
hàng ngày về một khách thể xã hội nào đó (một cá nhân, một nhóm hay một
cộng đồng xã hội…). Như vậy, theo các nhà tâm lý học Xơ Viết thì định kiến
mang tính tiêu cực trong ứng xử với xã hội.
Nhiều nhà tâm lý học cũng đưa ra những định nghĩa riêng về định kiến
riêng của mình. Nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, định kiến là
một kiểu thái độ liên nhóm hoặc các thành viên của nhóm. Tuy nhiên, chúng ta
có thể có một số thái độ tiêu cực đối với nhóm hoặc các thành viên của nhóm.
Song khơng phải tất cả các thái độ đều trở thành định kiến. Định kiến có thể
được định nghĩa như sau: Định kiến là thái độ mang tính tiêu cực, bất hợp lý
đối với nhóm hoặc các thành viên của nhóm.
* Một số yếu tố tâm lý của định kiến.
Khi nói đến định kiến là thái độ bất hợp lý, tiêu cực, điều này thể hiện
qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, thái độ này dựa trên ngun nhân sai lầm hoặc thiếu lơgic.
Chẳng hạn, trong một cơ quan, một số thành viên bị mất việc khơng phải do
họ lười biếng hoặc khơng cố gắng mà với tư cách của những cá nhân bị
người quản lý định kiến.
Thứ hai, thái độ này bất hợp lý vì nó khơng được tất cả các thành viên
của nhóm hoặc các nhóm cháp nhận
Thứ ba, thái độ này dựa trên những niềm tin, thơng tin khơng đúng.
Thứ tư, thái độ có thẻ bất chấp hợp lý bởi vì nó phụ thuộc vào thái độ
thiếu khách quan của người quản lý nhóm trong đối xử với các thành viên của
nhóm. Vì vậy, trong giao tiếp với các thành viên trong cơ quan người lãnh đạo
khơng nên có thái độ định kiến.
2. Tâm thế ảnh hưởng đến giao tiếp của người lãnh đạo.
* Khái niệm tâm thế có thể hiểu tâm thế là sự định hướng con người
đến một đối tượng, vật thể nhất định Tâm thế là những yếu tố tâm lý bên
trong thúc đẩy sự sẵn sàng những cái gì đó sẽ xảy ra.
* Chức năng của tâm thế
Xoay quanh vấn đề chức năng có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: tâm thế có chức năng sau:
Chức năng thích ứng hướng chủ thể đến khách thể đạt mục đích của
mình.
Chức năng nhận thức chỉ ra phương thức hành vi có quan hệ với
khách thể cụ thể.
Chức năng biểu cảm (đơi khi cịn là chức năng đánh giá tự điều chỉnh).
Chức năng bảo vệ có khả năng giải quyết những xung đột bên trong
của nhân thức.
Quan điểm thứ hai:
Quan điểm này cho rằng, cần phải lựa chọn từ mơi trường xung quanh
con người và từ kinh nghiệm của cả những khách thể cần thiết cho việc thực
hiện hành động.
Nội dung của ý thức, kinh nghiệm và kiến thức của con người nói
chung giúp rất nhiều cho cá nhân trong việc thực hiện một cách hợp lý hành
động được đặt ra trong việc thõa mãn nhu cầu của con người. Như vậy, tâm
thế tạo ra cơ sở tâm lý cho sự thích nghi của con người, tâm thế tạo ra cơ sở
xung quanh và cải tạo mơi trường đó phụ thuộc vào u cầu của con người.
Tóm lại, tâm thế là sự định hướng của con người đến các vật thể, sự
việc nhất định làm cho con người phủ định, thừa nhận “chúng”. Đó là khuynh
hướng hai mặt của tâm thế. Cùng một con người, một sự việc nhưng sự định
hướng khác nhau sẽ tạo cho ta nhận xét khác nhau, cách giao tiếp ứng xử
khác nhau. Đó là khuynh hướng hai mặt của tâm thế mà con người đơi khi
khơng ý thức được. thái độ đối khách thể như thế thường mang tính chất tình
huống thời điểm song nó có thể định hình và trở thành mãn tính(định kiến).
Vì vậy, đối với người cán bộ lãnh đạo nói chung và đối với lãnh đạo
trong cơ quan hành chính nhà nước cần lưu ý giảm bớt mức độ phụ thuộc vào
các thời điểm ngẫu nhiên mang tính chất tình huuoongstrong các hoạt đọng
lãnh đạo của mình. Dần dần trong con người trở thành một hệ thống khơng
phụ thuộc, đọc lập hơn và hệ thống khơng phụ thuộc, độc lập hơn và hệ
thống có thể đáp lại sự tác động của hiện thực bằng các phản ứng đặc trưng
cho phong cách và cho lối xử thế phù hợp với nhân cách của mình.
Như vậy, nhìn chung tâm thế xuất hiện dưới sựu tác động của những
nhân tố bên trong và bên ngồi tương hợp với nhau. Tâm thế có cường độ lớn
so với các loại khác là cơ sở của hành động tương ứng. Tâm thế này được
định hình và giữ vị trí trung tâm trong cấu trúc nhân cách. Trong trường hợp
này con người xuất hiện thái độ khẳng định đối với những mà hành động cảu
người đó hướng đến và thái độ phủ định đối với những khách thể cản trở
người đó. Tâm thế trong trường hợp nàysẽ xuất hiện trong quuy luật lây
lantrong tình cảm “u nên tốt, ghét nên xấu”. Vì vậy, là người lãnh đạo cần
phải làm chủ tâm trạng, cảm xúc của mình, tránh tình trạng thiếu khách quan
trong giao tiếp ứng xử, nhất là với những cán bộ cấp dưới mà mình khơng
“ưa họ”.
3. Tri giác người người.
Để cho người lãnh đạo khi giao tiếp với mọi người, với cấp dưới tốt
hơn, ngồi các yếu tố trên, cần phải biết tri giác con người bởi con người.
Bởi lẽ khơng phải ngẫu nhiên mà người xưa đã khái qt: “trơng mặt mà bắt
hình dong con lợn có béo cỗ lịng mới ngon”.
Sự tri giác con người bởi con người là một vấn đề khoa học. Đó chính
là một q trình nhận thức lẫn nhau của con người trong những điều kiện
giao tiếp trực tiếp giữa hai chủ thể.
Đây là loại hình tri giác đặc biệt vì đối tượng của tri giác cũng là con
nguời, hơn nữa là một chủ thể, một nhân cách.
Q trình này bao gồm tất các mức độ của sự phản ánh tâm lý, từ cảm
giac cho đên tư duy. Do vậy, nó tn thủ những quy luật chung của sự phản
ánh tâm lý. Mức độ đặc trưng của đối tượng tri giác là do gía trị xã hội cuả nó
quy định. Giá trị xã hội đặc biệt của con người như là đối tượng của tri giác
đã đưa nó lên vị trí hàng đầu trong q trình nhận thức giữa các đối tượng
khác.
Tri giác con người bởi con người thực chất chỉ là tri giác xã hội. vậy tri
giác xã hội là gì?
Tri giác xã hội đó là sự cảm nhận, sự hiểu biết và đánh giá của chủ thể
về các đối tượng xã hội.
Đối tượng xã hội có thể là chính bản thân mình, người khác, một nhóm
hay cộng đồng xã hội.
Khái niệm tri giác xã hội được nhà tâm lý học Mỹ J.Bruner dùng chỉ
hiện tượng nhận biết xã hội. Sự nhận biết này khơng phụ thuộc vào kinh
nghiệm, mục đích, nguyện vọng của chủ thể tri giác vào giá trị, ý nghĩa quan
trọng của hồn cảnh.
Tri giác xã hội khác với tri giác vật thể ở chỗ: đới tượng tri giác xã hội
là một thực thể tích cực mang sắc thái tình cảm và thái độ riêng của mình và
đó chính là con người chủ thể của lao động nhận thức và giao tiếp.
* Cấu trúc của bất kỳ q trình tri giác xã hội nào cũng bao gồm:
Chủ thể tri giác;
Đối tượng tri giác;
Q trình tri giác;
Kết quả tri giác.
Quan niệm về chủ thể tri giác thay đổi theo thời gian. Vào những năm
50 các nhà khoa học cho rằng, đối tượng tri giác xã hội là người khác, nhóm
khác, cộng đồng xã hội khác, cịn chủ thể tri giác là từng người cụ thể. Đến
năm 1970 của thế kỷ XX đã có sự bổ sung thêm: chủ thể tri giác khơng chỉ là
một cá nhân mà cịn là cả một nhóm, một cộng đồng xã hội khác. Điều này
giúp chúng ta hiểu rằng tri giác xã hội chính là tri giác con người bởi con
người và chủ thể tri giác xã hội là con người. Như vậy con người là đối
tượng của sự tri giác. Con người khơng chỉ là chủ thể mà cịn là khách thể
của tri giác và với vị trí như vậy con người là một cá nhân, một cá thể, là một
cá tính trong mắt mọi người.
Là một cá nhân con người bao giờ cũng có những đặc trưng bởi đặc
điểm lứa tuổi, giới tính, lọa hình thần kinh và cấu trúc hình thái.
Là một cá thểcon người đại diện cho nhân dân, cho giai cấp, cho một
nhóm xã hội và cho tập thể.
Cùng với những cái đó mỗi con người bao giờ cũng là một cá tính, là
một sản phẩm khơng lặp đi, lặp lại, là kết quả duy nhất hội tụ những điều
kiện và hồn cảnh tự nhiên và xã hội cụ thể hình thành nên con người, là chủ
thể của lao động nhận thức và giao tiếp.
Những đặc điểm đặc trưng cho con người là một cá thể, một cá nhân
và một cá tính bao giờ cũng được khắc sâu bằng cách này hay cách khác trong
các hình ảnh và khái niệm nảy sinh khi tác động tương hỗ giữa con người với
con người.
* Một số yếu tố ảnh hưởng đến q trình tri giác người người:
Sự tri giác người người ngồi những cái chủ thể tri giác được và bản
thân đối tượng tri giác vốn có như nét mặt, điệu bộ cử chỉ… ăn mặc, ngơn
ngữ, tác phong mà chủ thể cịn tri giác đối tượng qua cái tơi nhân cách của
chính bản thân chủ thể, cũng cùng một con người đấy nhưng do chịu ảnh
hưởng của đặc điểm nhận thức, quan điểm sống, mà có những nhận xét khác
nhau, do vậy q trình tri giác ngườingười cịn chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố, nhiều cơ chế khác nhau… đó là:
Cơ chế hóa và đồng cảm:
Để hiểu về người khác và nhận thức được bản thân mình thơng thường
mỗi cá nhân đều hành động thử giống người khác hay đặt địa vị mình vào địa
vị người khác đẻ suy nghĩ và hành động giống như họ. từ đó mà cảm thơng và
đồng cảm với người khác giúp các chủ thể giao tiếp xích lại gần nhau hơn,
hiểu biết hơn và giúp nhau trong cuộc sống. Điều này cực kỳ quan trọng
trong cuộc sống của mỗi người trong xã hội. Điều này cực kỳ quan trọng
trong cuộc sống của mỗi người trong xã hội. Điều này cịn khẳng định rằng,
con người khơng thể tự tách mình ra khỏi tập thể, ra khỏi mơi trường xung
quanh. Chính những mối quan hệ trong cuộc sống làm cho con người phát
triển tâm lý bình thường, tránh khỏi những “stress” khơng đáng có trong cuộc
sống.
Cơ chế phản xạ:
Trong quan hệ giữa con người với con người sự hiểu biết nhau bao giờ
cũng hai chiều(đa chiều). Mọi người ngồi việc hiểu những tâm tư, tình cảm,
mục đích của người khác cịn muốn biết xem họ hiểu và đánh giá về mình
như thế nào. Hình ảnh về bản thân mình trong con mắ người khác giúp ta
ddieuf chỉnh được hành vi thể hiện bên ngồi, nhờ đó phối hợp tác và cải
thiện mối quan hệ với những người xung quanh, bỏ qua những xung đột cần
thiết.
Cổ nhân có câu/: biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng”.
Hiểu mình qua người khác là cơ chế phản xạ trong giao tiếp. bằng cơ
chế này mỗi người có thể hiểu xa hơn nữa hình ảnh của người khác về bản
thân mình, biết họ đang nghĩ gì về mình…
Sự tri giác của con người chịu ảnh hưởng của ấn tượng ban đầu khi tri
giác.
Ấn tượng ban đầu chính là hình ảnh tâm lý về tổng thể các đặc điểm:
diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong,ánh mắt, nụ cười, trang phục, trang sức
mà con người có được về đối tượng sau lần tiếp xúc đầu tiên.
Nếu ban đầu có ấn tượng tốt về nhau thì về sau có gì chưa tốt chưa
đẹp thì cũng làm cho chủ thể tri giác đánh gía xấu về họ.
Định hình xã hội:
Là yếu tố ảnh hưởng đến việc tri giác của con người. Định hình là
những định kiến đã ổn định của mỗi người khi tri giác và đánh gía người khác
theo những chuẩn mực nhất định(nghề nghiệp, giai cấp, dân tộc…). định kiến
xã hội có mặt tích cực là rút ngắn được q trình hiểu biết của con người.
Định kiến xã hội cũng có những mặt tiêu cực nhiều khi có những ấn
tượng sẵn có để đánh giá một con người. định kiến xã hội mang tính giai cấp.
Tóm lại, tri giác con người bởi con người là một lọa tri giác đặc biệt
mang những nét đặc thù của xã hội lồi người. Tri giác con người bởi con
người là quá trình nhận thức đối tượng giao tiếp bằng con đường cảm
tính,chủ quan, theo kinh nghiệm. Tuy có những hạn chế nhất định song sự tri
giác con người bởi con người có ý nghĩa thực tiễn to lớn và nó thể hiện chức
năng điều chỉnh của hình ảnh tâm lý trong q trình hoạt động và giao tiếp, là
điều kiện giúp cho người lãnh đạo nói riêng và con người nói chung xích lại
gần nhau, hiểu nhau hơn. Đặc biệt đối với người lãnh đạo sẽ dễ gần gũi,
thơng cảm với cấp dưới hơn và nguợc lại. Từ đó, sẽ tạo ra bầu khơng khí
lành mạnh, thân tình trong tập thể làm việc cho tốt hơn.
III. CÁC LOẠI GIAO TIẾP TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
Có nhiều cách phân loại giao tiếp, tùy theo cơ sở sẽ có những cách phân
loại giao tiếp cụ thể.
1. Căn cứ vào phương tiện giao tiếp.
Giao tiếp bằng ngơn ngữ: là giao tiếp được sử dụng hệ thống tín hiệu
bằng ngơn ngữ của con người. Đây là giao tiếp phổ biến và có hiệu quả vì
đảm bảo được ý nghĩa của thơng tin. Trong loại giao tiếp này, hiệu quả của
giao tiếp phụ thuộc vào các yếu tố: chủ thể giao tiếp, nội dung thơng điệp,
kênh truyền và đối tượng giao tiếp (liên quan đến khả năng giải mã của đối
tượng).
Giao tiếp bằng ngơn ngữ trong quản lý hành chính nhà nước có tính
chất quy chiếu được xác định cho từng tổ chức bộ máy hành chính. Đặc biệt,
việc xây dựng thơng điệp trong q trình giao tiếp phải tn thủ đúng các quy
định nhằm tạo ra sự thống nhất và thuận lợi cho việc giãi mã đối với các bên
tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Giao tiếp phi ngơn ngữ: Là giao tiếp thơng qua các hệ thống tín hiệu
khơng phải là ngơn ngữ. Hệ thống tín hiệu này thường được gọi là ngơn ngữ
cơ thể (thân thể). Các tín hiệu bao gồm:
+ Hệ thống cử chỉ nét mặt, điệu bộ được tạo ra từ các bộ phận cơ thể.
+ Âm điệu, cường độ lời nói và các tín hiệu kèm theo với lời nói (cười,
khóc).
+ khơng gian và thời gian giao tiếp: khoảng cách khơng gian giữa hai
bên giao tiếp, tư thế trong khi giao tiếp, độ dài của giao tiếp…
+ Trang phục: được xem như một chỉ báo về con người khi tiếp xúc với
người khác.
Trong quản lý hành chính nhà nước, giao tiếp phi ngơn ngữ cũng sử
dụng khác nhiều và có những quy định cụ thể về tác phong trang phục v.v…
của cơng chức khi tiến hành giao tiếp với các đối tượng khác.
2. Căn cứ vào chủ thể tham gia vào q trình giao tiếp.
Giao tiếp giữa các thành viên trong cùng tổ chức(giao tiếp trong tổ
chức): loại giao tiếp này xảy ra khi các bộ phận trong tổ chức nhận thấy họ
khơng thể hồn thành các mục tiêu cuả mình nếu khơng có mặt tổ chức. loại
giao tiếp này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển. Độ phức tạp và quy mơ
của cơng việc địi hỏi sự chun mơn hóa cao, và như vậy địi hỏi các bộ
phận có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giao tiếp trong tổ chức cũng có những
quy định cụ thể. Thơng thường, giao tiếp trong tổ chức phải phù hợp với hệ
thống thứ bậc chính thức được đưa ra nhằm phối hợp các hoạt động của tổ
chức.
Giao tiếp giữa các tổ chức với nhau: loại giao tiếp này xảy ra khi có
sự phối kết hợp giữa các tổ chức với nhau để thực hiện một hoạt động
chung. Cũng có trường hợp, khi các mục tiêu vượt ra khỏi khả năng của tổ
chức, tổ chức cần đến sự phối hợp hỗ trợ của các tổ chức khác thì loại giao
tiếp này sẽ xuất hiện. Giao tiếp giữa các tổ chức có thể cả trực tiếp lẫn gián
tiếp. Trong nhiều trường hợp giao tiếp gián tiếp được thực hiện sẽ có hiệu
quả hơn.
Giao tiếp giữa các cơng chức với nhân dân: Với các tổ chức thực hiện
chức năng tiếp xúc và giải quyết các cơng việc của nhân dân, loại giao tiếp
này rất phổ biến. Trong loại giao tiếp này, cơng chức của tổ chức phải xác
định được nhu cầu, mong muốn chờ đợi của cơng dân. Nói cách khác cần
thiết phải biết rõ lợi ích của cơng dân, hiểu rõ quan điểm của người đối thoại
và giúp họ tìm được giải pháp đáp ứng bận tân của họ làm cho họ săn sàng
chấp nhận và thực hiện.
3. Căn cứ vào q trình trao đổi thơng tin trong tổ chức.
a. Giao tiếp cấp trên với cấp dưới:
Giao tiếp này thực hiện sự ln chuyển thơng tin từ cấp cấp xuống cấp
thấp, từ thủ trưởng đến nhân viên, từ người lập kế hoạch chính sách tới
người thực hiện theo cấu trúc thức bậc của tổ chức. Sự giao tiếp từ trên
xuống nhằm tới mục đích: Hướng dẫn cơng việc, phản hổi ý kiến của nhân
dân, khuyến khích sự tham gia, động viên thúc đẩy.
b. Giao tiếp cấp dưới với cấp trên:
Đó là sự phản hổi của dịng thơng tin từ trên xuống dưới. Cấp dưới báo
cáo lên cấp trên về chính bản thân họ, về đồng nghiệp, về công việc,
cácphương pháp thực hiện công việc và các nhận thức của họ về tổ chức
bằng văn bản hoặc bằng lời qua các kênh giao tiếp khác nhau.
c. Giao tiếp hằng ngày:
Là giao tiếp giữa các bộ phận cùng cấp, sự phối hợp giữa các cá nhân
và các bộ phận cùng cấp trong tổ chức.
IV. MỘT SỐ LƯU Ý VỀ GIAO TIẾP TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
Giao tiếp trong quản lý hành chính là hoạt động giao tiếp giữa cán bộ,
cơng chức với cơng dân hoặc giữa cán bộ, cơng chức với nhau nhằm thực thi
cơng vụ nhà nước. Giao tiếp nói chung, giao tiếp hành chính nói riêng, khơng
chỉ đơn giản là biết cách nói. Giao tiếp tốt địi hỏi cả hai kỹ năng: nói và lắng
nghe. Nếu biết lắng nghe, con người sẽ ln biết người khác đang nghĩ gì và
đang mong muốn ở mình điều gì, nhận thức được điều gì người ta đang nói
tới và thể hiện cho người ấy biết rằng mình hiểu họ. Từ đó, biết cách lắng
nghe sẽ giúp con người khơng những nắm rõ nội dung thơng tin của cuộc đối
thoại mà cịn thể hiện thái độ tơn trọng với người đang nói. Trong q trình
giao tiếp hành chính cũng vậy, lắng nghe có thể đem đến cho cán bộ, cơng
chức, viên chức và những người tham gia các lợi ích thiết yếu: Nắm rõ nội
dung thơng tin, qua đó nhận ra trách nhiệm vai trị của mình trong vấn đề đang
thảo luận; xây dựng mối quan hệ thân thiện với nhau và với người dân; thể
hiện sự quan tâm, tơn trọng; đồng cảm với những khó khăn của người nói;
hiểu và đưa ra những câu trả lời hoặc ý kiến tư vấn hợp lý. Đây là cơ sở để
hình thành văn hóa, văn minh cơng sở, tạo nền tảng để cán bộ, cơng chức,
viên chức hồn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao và tạo được lịng tin ở
người dân về nền hành chính Nhà nước. Nếu khơng có sự lắng nghe, giao
tiếp hành chính sẽ chỉ là mối quan hệ một chiều cứng nhắc và thiếu thơng tin
phản hồi một yếu tố cơ bản để tiến hành cải tiến, hồn thiện. Đó cũng
chính là những vấn đề đáng quan tâm của giao tiếp trong hành chính nhà
nước. Tính chung thì giao tiếp trong hành chính nhà nước cũng chịu sự quy
định bởi các yếu tố mang đặc tính cố hữu của người Việt Nam như:
• Vừa cởi mở, vừa rụt rè;
• Xử sự nặng nề về tình cảm hơn là lý trí;
• Trọng danh dự thái q tới mức trở thành một bệnh sĩ diện hão;
• Giữ ý trong giao tiếp;
• Thiếu tính quyết đốn.
Bắt nguồn từ “Văn minh lúa nước” bao đời nay, những phẩm chất nổi
trội về văn hố trong con người Việt Nam là:
• Khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế và lối ứng xử mềm
dẻo;
• Tinh thần đồn kết, cố kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh vượt qua
khó khăn, thử thách;
• Giản dị, chất phác, ưa đơn giản, ghét cầu kỳ xa hoa;
• Tấm lịng rộng mở và giàu cảm xúc lãng mạn;
• Cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ;
• Trọng tuổi tác, trọng người già (Lão quyền);
• Tập tính hạch tốn kém, khơng quen lường tính xa;
• Tác phong tuỳ tiện, kỷ luật khơng chặt chẽ;
• Tâm lý bình qn chủ nghĩa;
• Nhân ái, vị tha và rộng lượng;
• Nặng tình nhẹ lý, chín bỏ làm mười (cơ sở chủ nghĩa dân tộc một
người làm quan cả họ được nhờ);
• Tâm lý sống lâu lên lão làng, đề cao chủ nghĩa kinh nghiệm;
• Tư tưởng bảo thủ, đóng cửa, tự thu xếp mọi việc, khơng cầu thị.
V. ĐỊNH HƯỚNG BÀN VỀ GIAO TIẾP TRONG HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
Với các mối quan hệ nơi cơng sở, thất bại trong giao tiếp thường là
ngun nhân của những bất đồng hoặc hiểu lầm giữa các đối tượng giao
tiếp. Theo nhiều kết quả khảo sát, thất bại trong giao tiếp thường khơng phải
do khác biệt văn hóa hay bất đồng ngơn ngữ. Nhiều người gặp khó khăn trong
giao tiếp với cấp trên hoặc cấp dưới của mình, dù rằng họ nói cùng thứ tiếng
và có chung một nền văn hóa. Điều này có thể khắc phục được nếu trong
giao tiếp hành chính, cả hai phía đều biết lắng nghe và thấu hiểu lẫn nhau.
Khả năng giao tiếp kém của cán bộ, cơng chức, viên chức có thể dẫn
tới nhiều vấn đề phát sinh như: gây cảm giác khó chịu cho người dân đến liên
hệ cơng tác, giao dịch thất bại, đưa ra các hướng dẫn dễ gây hiểu lầm… Tất
cả những điều đó có thể ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả cơng việc của
bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Có kỹ năng lắng nghe tốt sẽ xây dựng được lịng
tin, sự thơng cảm và hiểu biết lẫn nhau với đồng nghiệp và với người dân.
Để đạt được điều này, mỗi người phải thường xun luyện tập và phát triển
khả năng lắng nghe. Kỹ năng lắng nghe hiệu quả sẽ cho phép tạo ra các mối
giao tiếp hành chính cởi mở hơn và có thể giải quyết được nhiều vấn đề
ngay khi chúng mới phát sinh.
Vì vậy, phải thừa nhận rằng, lắng nghe là một kỹ năng khơng thể thiếu
trong hoạt động giao tiếp nói chung và giao tiếp hành chínhnóiriêng.
Cán bộ, cơng chức trong giao tiếp hành chính hiện nay cần nắm vững
một số ngun tắc cơ bản trong văn hóa giao tiếp hành chính của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Văn hóa giao tiếp của Hồ Chí Minh thể hiện một phong thái đặc
biệt, đầy nhân văn, nhân bản của con người. Người ln bình dị, lạc quan,
u đời, xử lý một cách khéo léo các tình huống giao tiếp xảy ra theo hướng
có lợi cho cơng việc chung của nhà nước. Người ln có một phong cách và
kỹ năng giao tiếp giản dị, gần gũi, ân cần, cởi mở, tế nhị và chu đáo với mọi
người. Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến giá trị văn hóa giao tiếp ở
người.
Trong quan hệ giao tiếp giữa cấp trên, cấp dưới:
Đối với cấp dưới:
Biết giao quyền, ủy quyền
Kiểm tra
Đánh giá khách quan, cơng bằng, bao dung, độ lượng
Giúp đỡ
Biết lắng nghe: khơng nên tự tơn, tự đại mà phải nghe, phải hỏi ý
kiến của cấp dưới.
Đối với cấp trên:
Cần có thái độ tơn trọng, kính trọng, lắng nghe và tiếp thu ý kiến chỉ
đạo của cấp trên.
Nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, nếu có gì thắc mắc
cần trình bày thẳng thắn trung thực, thuyết phục để cấp trên hiểu.
Cần có thái độ trung thành, trung thực, thẳng thắn, trong quan hệ với
cấp trên, khơng a dua, xu nịnh, luồn cúi.
Thực hiện tốt chế độ báo cáo cơng việc với cấp trên một cách trung
thực, khách quan, khơng gây nhiễu thơng tin, thơng tin truyền lên cấp trên phải
đúng đắn để cấp trên có biện pháp xử lý hiệu quả.
Trong quan hệ với đồng nghiệp:
Cần khiêm tốn, nhã nhặn khi trao đổi, bàn bạc những ý kiến về những
vấn đề cần phối hợp trong cơng việc.
Chú ý lắng nghe ý kiến của nhau, khơng chủ quan vội vàng cho ý kiến
của mình là tuyệt đối đúng. Cùng nhau thảo luận để tìm ra ý kiến chung, hoặc
thuyết phục đồng nghiệp hiểu vấn đề mình nói.
Biết phối hợp, đồn kết, thương u nhau, có thái độ trung thực, thân
thiện, hợp tác.
Trong quan hệ với nhân dân: cần nâng cao vai trị văn hố phục vụ.
Phong cách giao tiếp, ứng xử với nhân dân trước hết phải kính trọng, lễ
phép,khơng hách dịch, nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện
nhiệm vụ, ln nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ
thể về những quy định có liên quan đến cơng việc, tận tụy phục vụ nhân dân.
Bảo đảm đúng trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết cơng việc của dân,
khơng được từ chối thực hiện những cơng việc thuộc phạm vi trách nhiệm
của mình. Tơn trọng và giữ đúng lịch hẹn tiếp dân, giải quyết kịp thời những
vướng mắc, đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân.
Như vậy, trong giao tiếp hành chính, cán bộ, cơng chức, viên chức cần
đặc biệt chú trọng đến kỹ năng lắng nghe và qn triệt Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong mọi suy nghĩ, tình cảm và hành động. Có như vậy, hiệu lực và
hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính khơng ngừng được bảo đảm và
nâng
cao.
Hiện vấn đề giao tiếp trong hành chính nhà nước cũng được quy định trong
một số văn bản pháp luật. Đơn cử như: QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ SỐ 129/2007/QĐTTg NGÀY 02 THÁNG 08 NĂM 2007 BAN
HÀNH QUY CHẾ VĂN HỐ CƠNG SỞ TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC, điều 8 mục 2 GIAO TIẾP VÀ ỨNG XỬ CỦA CÁN
BỘ, CƠNG CHỨC, VIÊN CHỨC quy định:
Cán bộ, cơng chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ phải thực hiện các
quy định về những việc phải làm và những việc khơng được làm theo quy
định của pháp luật.
Trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, cơng chức, viên chức phải có thái độ
lịch sự, tơn trọng. Ngơn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc; khơng nói tục,
nói tiếng lóng, qt nạt.
* Điều 9. Giao tiếp và ứng xử với nhân dân
Trong giao tiếp và ứng xử với nhân dân, cán bộ, cơng chức, viên chức
phải nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các
quy định liên quan đến giải quyết cơng việc.
Cán bộ, cơng chức, viên chức khơng được có thái độ hách dịch, nhũng
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ.
* Điều 10. Giao tiếp và ứng xử với đồng nghiệp
Trong giao tiếp và ứng xử với đồng nghiệp, cán bộ, cơng chức, viên
chức phải có thái độ trung thực, thân thiện, hợp tác.
* Điều 11. Giao tiếp qua điện thoại
Khi giao tiếp qua điện thoại, cán bộ, cơng chức, viên chức phải xưng
tên, cơ quan, đơn vị nơi cơng tác; trao đổi ngắn gọn, tập trung vào nội dung
cơng việc; khơng ngắt điện thoại đột ngột v.v…
VI. TỔNG KẾT
Tóm lại, chúng ta có nhiều cách phận loại giao tiếp trong quản lý hành
chính nhà nước. Những cách phân loại đó chỉ có nghĩa tương đối. Song dù
theo cách phân loại nào, giao tiếp trong quản lý hành chính nhà nước cũng
nhằm thực hiện các cơng việc thuộc lợi ích cơng mà các cơ quan hành chính
nhà nước phải đảm nhận. Cho nên hiện tại và tương lai thì vấn đề giao tiếp
trong quản lý hành chính nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức đối với các
cơ quan hành chính nhà nước và tất cả các cán bộ cơng nhân viên chức.