Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Văn hóa Việt trong tín ngưỡng Đức Thánh Trần pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.19 KB, 9 trang )



Văn hóa Việt trong tín
ngưỡng Đức Thánh Trần

Trong đạo Mẫu, Đức Thánh cha là Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn - vị tướng tài ba của Việt Nam và thế giới,
văn võ song toàn, tinh anh kiệt xuất. Là người có công lớn
nhất triều Trần trong ba lần đánh bại quân Mông Nguyên.

Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông là con
An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tôn là
chú ruột, sinh ngày 10/12 âm lịch. Còn có truyền thuyết kể
lại rằng, nguyên xưa kia Đức Thánh Tản Viên thấy luồng
khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh thuồng luồng, xuống
nhà người đàn bà kia tư thông, ngài nghĩ ắt hẳn đó sẽ đầu thai
thành kẻ gây hậu họa cho nhân gian (tên đó sau này chính là
Phạm Nhan_Nguyễn Bá Linh, cha là người Tàu Phúc Kiến,
mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng luồng mà
sinh ra hắn), vậy nên Đức Thánh Tản liền đem tâu chuyện đó
với Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng hỏi rằng ai có thể xuống hạ
phàm để trừ diệt mối hậu họa đó thì có Thanh Tiên Đồng Tử
tình nguyện xin xuống phàm để giúp dân. Ngọc Đế ưng
thuận sai ban thần kiếm, cờ ấn, tam tài của Lão Tử, ngũ bảo
của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá xe mây
xuống nước Nam hạ phàm. Liền đó Vương Mẫu nằm mơ
thấy có người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình
xuống đầu thai phù đời, từ ấy bà hoài thai, đủ ngày đủ tháng
thì hạ sinh được ông, trong nhà ngào ngạt hương thơm và ánh
sáng. Vậy nên, trong bản văn cũng có đoạn:
Vương Phụ là Đức An Sinh


Cùng Đức Thánh Mẫu cầm lành hợp duyên
Điềm lành vốn tự thiên nhiên
Thanh Tiên Đồng Tử phút liền đầu thai Chí kì sinh đặng con
trai Tài kiêm văn võ ít ai sánh bằng"

Sau này ông giúp vua Trần hai lần chống giặc Nguyên Mông,
ông sinh được bốn người con trai (thường gọi là tứ vị vương
tử) và hai người con gái (thường gọi là nhị vương cô hay nhị
vị vương bà) đều có công lao giúp vua Trần chống giặc
Nguyên, ngoài ra trong công cuộc “Sát Thát” còn có rất
nhiều đóng góp của vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện
Súy (thường gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng
Đại Vương) cùng các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết
Kiêu (thường gọi là đôi bên Đức Ông Tả Hữu)… Có thể nói
trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần, có công
đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là
người một lòng vì nước vì dân, vì nghĩa lớn mà quên đi mối
thù nhà: ông không nghe lời cha giành lại ngai vàng từ tay
vua Trần, vậy nên được vua Trần nể trọng, tin tưởng, thường
hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia. Ông mất vào
ngày 20/8 âm lịch.

Sinh thời, do công lao lớn của mình ông được vua Trần
phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại
Vương hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông ( xét về
thứ bậc thì vừa là cháu lại là cháu rể của ông, vì vua lấy Cô
Bé Cửa Suốt_Tĩnh Huệ Công Chúa tức là cháu gái của ông)
phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc
đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương
(tước hiệu này nếu xét theo thời đại của chúng ta thì sẽ là: Ủy

viên bộ chính trị, bí thư quân ủy trung ương, Nguyên Súy, Bộ
trưởng Bộ quốc phòng. Sau này , khi mất đi tên tuổi ông vẫn
vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra toàn thế
giới (ông là một trong số 10 vị tướng tài ba nhất trên thế giới,
cùng với các vị như Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư
Hãn là những người có ý nghĩa to lớn với lịch sử thế giới ),
người ta tôn làm Đức Thánh Trần. Còn trong tín ngưỡng dân
gian, người ta thường tôn danh ông là Đức Thánh Ông Trần
Triều hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.

Nếu một người có căn số hầu các giá nhà Trần thì giá Đức
Ông có thể là giá mở khăn đầu tiên (vì Tam Tòa Thánh Mẫu
không tung khăn), tuy nhiên cũng khá hiếm khi có người hầu
về Đức Ông mà chỉ khi đại sự cần thỉnh ông về để trừ tà sát
quỷ thì mới hầu ông (vì theo quan niệm cổ: “bóng” Đức Ông
khá nặng nên không phải đồng cựu đã đội lệnh nhà Trần thì
không thể hầu được) hoặc khi đại tiệc mở phủ thường thỉnh
ông về chứng đàn Trần Triều (gồm voi, ngựa, thuyền rồng,
tráp áo ) hoặc đồng mới tạ phủ và làm lễ đội lệnh nhà Trần.
Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ, thêu rồng và hổ phù (có một
số nơi hầu ông, chân đi hia, đầu đội mũ trụ), có thể mặc áo
choàng bên ngoài, một số vùng hầu ông thường múa thanh
đao. Khi về đồng, Đức Thánh Ông thường làm phép để sát
quỷ trừ tinh (điều này chỉ có đúng đồng nhà Trần, có đội lệnh
mới có thể làm như thế khi hầu ông) đó là: “lên đai
thượng”nghĩa là cầm dải lụa đỏ thắt cổ (khi thắt vào cổ, mặt
người hầu thường bạnh ra, đỏ,thì thế mới là thật đồng), lúc
này người hầu dâng phải khéo léo móc một ngón tay vào dây
thắt cổ để cho dãn bớt (vì dù là thật đồng nhưng Đức Thánh
Ông chỉ giáng li giáng lai trên đầu đồng);“rạch lưỡi” nghĩa là

dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy
máu (gọi là Đức Ông ban “dấu mặn”) sau đó phun ra tờ giấy
phù hoặc rượu, có người xin giấy phù mang về để hộ thân trừ
tà, có người bị tà mà quấy nhiễu lại xin rượu có máu, uống để
trục tà; ngoài ra còn có uống dầu sôi, nung nóng bàn cuốc rồi
đặt chân lên… Tuy nhiên, hiện nay, các lối hầu cổ như vậy
đã ít dần, chỉ còn một số người khi hầu Đức Đại Vương Trần
Triều là có thể làm như vậy. Làm như thế người ta gọi là làm
phép nhà Trần ra uy, vậy nên văn hát giá Đức Thánh Ông
Trần Triều có một số đoạn như:

“Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Hô vang trấn động Nam thành
Đánh Đông dẹp Bắc tung hoành mọi nơi”

Hay khi Đức Ông về ra uy tróc tà (lên đai thượng hay rạch
lưỡi ban dấu mặn) người ta cũng hát rằng:

“Phép ông đôi má thu phình
Lưỡi thời lấy huyết quyết linh thần phù”

Do quan niệm dân gian nên khi có tà mà dịch bệnh người ta
thường cầu đảo Đức Thánh Trần để sát quỷ trừ tà, nhất là phụ
nữ bị bệnh về sản khoa (theo dân gian, phụ nữ bị bệnh sản
khoa là do quỷ Phạm Nhan gây ra, mà Đức Ông lại là người
đã chém đầu quỷ Phạm Nhan); ngoài ra có câu chuyện còn kể
rằng nếu có giặc dã, vào đền xin Đức Ông mà thấy tráp kiếm
có tiếng kêu bên trong thì nhất định là thắng lớn.


Đền thờ Đức Thánh Ông Trần Triều cùng với gia đình và
tướng lĩnh của ông được nhân dân lập lên ở khắp nơi nhưng
uy nghiêm và nổi tiếng nhất phải kể đến: Đền Kiếp Bạc ở Chí
Linh, Hải Dương, được lập lên trên nền dấu tích ở nơi mà
năm xưa ngài cho đóng quân doanh Vạn Kiếp, sau đó phải kể
đến hai ngôi đền ở đất Nam Định, nguyên quán của ngài, đó
là Đền Cố Trạch (Đền Trần) và Đền Bảo Lộc, đều thuộc
Thiên Trường, Nam Định. Ngoài ra còn có Đền Phú Xá ở
Hải Phòng (tương truyền là nơi đóng quân nghỉ chân năm
xưa)

Ngày tiệc Đức Thánh Trần thường được tôn là ngày “giỗ
Cha” của toàn thể dân tộc Việt Nam vào ngày 20/8 âm lịch
(là ngày Đức Ông hóa) và được tổ chức long trọng nhất tại
đến Kiếp Bạc. Ngoài ra vào giữa đêm ngày 14/1 âm lịch còn
có tổ chức ban ấn của Đức Thánh Trần tại Đền Bảo Lộc.

×