Nhà tù Phú Quốc, biểu tượng của
tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên
cường
Nhiều khách tham quan đã đến thăm nhà tù Phú Quốc – nơi một thời từng được
mệnh danh là “địa ngục trần gian”.
Nhà tù Phú Quốc (Kiên Giang) là di tích lịch sử cấp quốc gia được xếp hạng năm 1993.
Từ một nhà tù với quy mô gần 500 nhà giam, đến nay chỉ còn lại 4 nhà nguyên gốc cùng
một số cổng chào, bộ khung cửa nhà thờ và các nền đá… Những năm qua, tỉnh đã phục
hồi, tôn tạo một số hạng mục công trình như: 5 nhà tiền chế gồm nhà giam, nhà ăn, nhà
bếp và hai nhà canh giữ của giám thị; phục hồi đường ngầm vượt ngục, một đoạn hàng
rào kẽm gai, chòi canh, chuồng cọp, đài tưởng niệm ở nghĩa địa tù binh và nhà trưng bày
bổ sung di tích… Năm 2005, các hạng mục này được hoàn thành đi vào hoạt động phục
vụ khách tham quan, mỗi năm đã có hàng trăm ngàn lượt người đến thăm di tích.
Từ thời thực dân Pháp tiếp đến thời Mỹ-Ngụy, Nhà tù Phú Quốc đã tồn tại 20 năm (1953
– 1973). Đây là nơi tập trung điển hình về tội ác của chế độ thực dân, đế quốc. Ở đây kẻ
thù tự do đặt ra nhiều kiểu hành hạ con người một cách dã man. Quản tù là những tên
khát máu hành hạ tra tấn tù binh, vì thế hơn 4.000 người đã hy sinh trong tù. Với ý chí
kiên cường, dũng cảm, mưu trí, anh em tù binh đã đối phó lại chúng bằng nhiều hình thức
đấu tranh từ thấp đến cao, phân hóa hàng ngũ địch, diệt ác ôn, tổ chức nhiều cuộc vượt
ngục .vv… Nhà tù Phú Quốc thực sự là một bằng chứng xác thực ghi dấu tội ác vô cùng
dã man của bọn xâm lược, đồng thời nói lên tinh thần bất khuất đấu tranh kiên cường của
các chiến sĩ cách mạng.
Nhà tù Phú Quốc thời thực dân Pháp:
Tháng 9/1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Phú Quốc. Địch chọn Phú Quốc để lập
nhà tù lớn nhất Đông Nam Á, giam cầm các chiến sĩ cách mạng, vì hòn đảo này có vị trí
quân sự chiến lược, xa đất liền, xa các cơ quan báo chí ngôn luận để chúng dễ bề đàn áp
tù nhân. Giữa năm 1953, Pháp dùng doanh trại của đám tàn quân Quốc Dân đảng để xây
dựng nhà tù, gọi là Căng Cây Dừa. Nhà tù có diện tích khoảng 40 ha, hình chữ nhật, chia
làm bốn trại A, B, C, D. Toàn Căng có hàng rào thép gai dày bao quanh, phía trên mắc
dây điện trần và đèn bảo vệ. Chòi canh thường xuyên có lính gác. Mỗi cổng lại có một
tiểu đội lính tuần tiễu được trang bị tiểu liên và súng trường. Vành ngoài có công sự
chiến đấu. Số lượng tù binh thời kỳ này có khoảng 6.000 người. Đến tháng 4/1954 thì có
khoảng 14 nghìn tù nhân đều là nam giới.
Chi bộ trong Nhà lao Cây Dừa đã lãnh đạo tù nhân đấu tranh, viết nội san bí mật, tổ chức
nhiều cuộc vượt ngục thành công. Chỉ tính từ tháng 7/1953 – 9/1953 đã có 5 cuộc vượt
ngục lớn. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954) Pháp trao trả cho ta số tù binh ở Nhà
tù Phú Quốc.
Nhà tù Phú Quốc thời Mỹ_Ngụy
Cuối năm 1955, ngụy quyền Sài Gòn lập lại Nhà lao Cây Dừa mà chúng gọi là Trại Huấn
chính Cây Dừa. Trại chiếm diện tích khoảng hơn 20.000 m2. Xung quanh có ba lớp rào
dây kẽm gai cao 2,6m. Ngoài ra có 14 tháp canh. Nhà tù Phú Quốc trong thời kỳ này
cũng có tổ chức Đảng hoạt động bí mật và lãnh đạo anh em tù đấu tranh. Ta còn bắt mối
được ba nội tuyến nằm sâu trong hàng ngũ địch, nhờ đó mà ta có thể thường xuyên đưa
thuốc men, tin tức vào trong tù. Từ năm 1957 địch đưa tù chính trị ra Côn Đảo, còn Phú
Quốc chỉ giam giữ tù binh. Sau Đồng khởi 1960, mức độ chiến tranh ngày càng ác liệt,
Nhà lao Cây Dừa được Mỹ-ngụy chuyển đến xây dựng tại thung lũng An Thới kéo dài 5
cây số.
Khung cảnh trại giam
Mới đầu trại có 6 khu. Sau Mậu Thân 1968, địch mở rộng đến 11 khu, nhưng khu thứ 11
chưa kịp sử dụng. Mỗi khu trại giam lại chia làm 4 phân khu A, B, C, D, mỗi phân khu có
từ 9 đến 18 nhà giam, mỗi nhà dài 20m, rộng 5m giam giữ từ 80 đến 120 người. Tổng số
có đến 400 nhà, vách dựng bằng tôn thiếc, mái lợp thiếc, cửa cũng bằng tôn thiếc. Trưa
nắng nhìn cả trại giam chói rực lên nhức mắt. Hầu hết nền nhà đều bằng đất nhưng sau
những vụ đào hầm trốn tù, địch trám xi măng. Từng phân khu có hàng rào kẽm gai bao
quanh, chỗ dày có thể từ 10-15 lớp rào, chỗ mỏng cũng 5 -7 lớp rào. Những bãi mìn dày
đặc xung quanh nhà tù. Bao quanh nhà tù là một vành đai trắng, rộng hàng cây số, không
một bóng nhà dân. Ban đêm trong những lớp rào có thả chó và ngỗng mai phục người tù
trốn trại và đèn điện sáng trưng như ban ngày.
Bộ máy đàn áp
Nhà tù chia làm năm ban: Ban điều hành, Ban giám thị, Ban an ninh, Ban chiến tranh
chính trị, Ban quân y. Chỉ huy trại giam là cố vấn người Mỹ, với 4 tiểu đoàn quân cảnh.
Ngoài ra còn có một trung đội quân khuyển toàn là chó becgiê giống Anh. Riêng lực
lượng hải quân tương đương một sư đoàn giăng kín ngoài biển… Tỷ lệ cứ 2 người tù có 1
người lính trông coi. Giám thị điểm danh cả ngày lẫn đêm liên tục để chống tù vượt ngục.
Có một tốp trực thăng chiến đấu cũng thay nhau ngày đêm quần đảo trên bầu trời Phú
Quốc tạo nên cảm giác ảm đạm ngột ngạt cho tù nhân. Bộ máy đàn áp nhà tù lên tới
4.000 người gồm cả hải, lục, không quân.
Thành phần tù binh Phú Quốc
Những người bị địch bắt đưa về nhà tù này gồm đủ các miền: Bắc, Trung, Nam. Số tù
tăng lên nhiều từ năm 1968, cao nhất vào khoảng 40.000 người, tù nhân được chở từ đất
liền ra bằng máy bay. Có người bị bắt khi địch đi càn, bị móc hầm bí mật, bị phục kích,
chiến đấu bị thương rồi bị bắt. Một số tù là cán bộ dân chính đảng, là họa sĩ, nhạc sĩ, nhà
báo…
Tình trạng ăn ở của tù binh
Nhà biệt giam không có giường sạp gì, một nhà giam 120 người chen chúc sống; không
được đi cầu tiêu, chỉ có 2 cái thùng đựng phân trong nhà. Thân thể tù binh cả mấy tháng
trời cũng không được tắm rửa lại phải nằm xếp lớp như lớp cá cạnh nhau. Vậy mà phải
quen mùi cơm hôi, cá thối, rệp dưới lưng, quen luôn cả mùi phân ở thùng phuy đặt ở đầu
nhà. Đêm nằm, dòi bọ từ đó túa ra chui cả vào miệng. Hàng ngày tù binh có lính áp giải
vào rừng lấy củi, mây, gỗ hoặc đào công sự, hoặc làm đủ thứ việc nặng nhọc, làm tạp
dịch phục vụ cho vợ con lính, người tù phải tự nấu cơm ăn, mỗi phân khu có một bếp ăn.
Bữa ăn mỗi người chỉ được hai chén cơm hẩm với mấy miếng cá khô mà anh em tù gọi là
cá long hội (nói lái là cá lôi họng) và một ít canh dưa leo. Còn ở khu biệt giam cấm cố thì
lại càng tồi tệ, kẻ thù dùng cả bữa ăn để hành hạ tù binh, nước mỗi ngày cũng chỉ được
mỗi người một ca vừa uống vừa để rửa. Quần áo thì chúng phát cho loại vải dày, nâu xẫm
hoặc là những bộ quần áo cũ của lính Pháp, quần cộc. Trên lưng áo tù đều có đóng dấu
hai chữ tù binh (T.B).
Những thủ đoạn hành hạ, tra tấn, giết hại tù binh
Ngay từ khi bước chân vào trong tù, tất cả mọi người bị địch bắt đều bị đánh phủ đầu để
lấy cung, để uy hiếp nhằm làm nhụt tinh thần. Sự hành hạ, tra tấn, giết hại tù binh ở Nhà
tù Phú Quốc ngày càng khắc nghiệt. Người tù bị phạt phơi nắng trên những dàn thiếc
nóng như rang ngoài trời, da thịt ở bụng, ở ngực phỏng rộp lên, nhiều chỗ da non bị cháy
xém, người yếu sức thường là ngất xỉu. Nếu cựa quậy chúng phang thẳng cánh dùi cui
vào đầu hoặc sẵn sàng bắn bỏ. Người tù bị còn bị phạt leo cây nhum đầy gai nhọn, chúng
bắt người tù leo lên ngọn rồi tụt xuống, không leo chúng đánh. Chỉ cần vài ba cái nhoài
người là đùi, ngực, tay, chân bị nhòe máu. Phạt bắt ăn cơm trộn cát với nước tiểu: không
ăn chúng đánh, đang ăn ói ra chúng cũng đánh và bắt hốt hết lên ăn nữa. Địch còn dùng
gậy đập nát các đầu ngón chân, ngón tay, có thằng ác ôn còn bẻ răng tù binh làm bộ sưu
tập răng để chơi. Rồi còn dùng dao rạch dương vật người tù cho đỉa trâu vào đó rồi khâu
lại. Độc ác hơn nữa là phạt giam vào chuồng cọp. Chuồng cọp là một cái lồng bằng kẽm
gai, cao 1m, dài 2m. Vào chuồng cọp thì không nằm, không đứng, cũng không bệt đít
xuống được, nếu mỏi quá chỉ cần thay đổi động tác chút xíu là các cọc nhọn sắc cứa nát
da thịt ngay. Nóng chúng cho kê lò than gần kề, lạnh chúng hắt thêm nước vô. Đêm đến
chúng thường lôi người ra đánh, tiếng la rú, tiếng hét thật hãi hùng. Có người đang đêm
cũng bị gọi đi tra tấn, bị đóng đinh vào mắt cá chân, vào đầu gối, thậm chí vào đầu. Rất
nhiều bộ hài cốt còn cả những cái đinh 10 phân đóng vào xương chân, xương đầu gối,
xương sọ. Những vật chứng này hiện còn bảo quản tại Nhà trưng bày của di tích Nhà tù
Phú Quốc. Còn rất nhiều hình thức khác hành hạ, tra tấn tù binh dã man không khác gì
hình phạt thời trung cổ.
Tổ chức và lãnh đạo đấu tranh của Đảng trong nhà tù Phú Quốc
Các Chi bộ do tù binh tự thành lập theo kiểu du kích. Thường anh em dựa vào sự đã quen
biết nhau từ trước, ở cùng quê hoặc cùng đơn vị để xác lập lòng tin, biết nhau là đảng
viên rồi mới rỉ tai nhau lập một tổ, đủ 3 đảng viên thì nâng thành Chi bộ hoạt động phải
rất bí mật và khôn khéo. Trong một nhà giam có thể có nhiều Chi bộ nhưng Chi bộ nào
chỉ có thể biết đảng viên trong Chi bộ đó. Lúc đảng viên họp thực ra là ngồi tụm nhau ở
một góc nhà giả đánh cờ hay đi ra ngoài hàng rào giả vờ đi tiểu để hội ý chớp nhoáng.
Chỉ có Bí thư Chi bộ mới biết ai là Bí thư Đảng ủy. Người Bí thư Đảng ủy thường không
để lộ diện trong các cuộc đấu tranh hay sự kiện nào. Khi kẻ thù phát hiện ra một chút
manh mối nào là diệt ngay người đứng đầu, lôi đi tra tấn, truy tìm tổ chức của ta.
Đại bộ phận tù binh bị đẩy vào nhà tù Phú Quốc vẫn giữ trọn lời thề danh dự thứ ba “Nếu
bị địch bắt, dù trong trường hợp nào cũng giữ vững khí tiết là chiến sĩ quân đội nhân dân
Việt Nam… quyết không cung khai phản bội”. Những cuộc đấu tranh và bị đàn áp đẫm
máu ở nhà tù xảy ra thường xuyên. Chẳng hạn vào năm 1965, lần ấy chúng bắt anh em
tập hợp chào cờ Ngụy và hô đả đảo cộng sản. Anh em không chịu hô thế là chúng dùng
dùi cui, báng súng đánh tới tấp, anh em đánh trả lại, chúng xả súng giết chết 78 người.
Đầu tháng 9/1969 ở khu A4 biết được tin Bác Hồ mất, sáng hôm sau ngay trước cửa trại
xuất hiện một băng vải đen rộng 10cm dài 200 cm viết chữ trắng “Đời đời nhớ ơn Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Bọn giám thị bị bất ngờ nhưng chúng cũng chỉ dám lẳng lặng
gỡ xuống rồi lặng lẽ đem đi chứ không gầm gào như mọi khi. Ít ngày sau bên khu sĩ quan
ném đá sang báo tin, anh em bên ấy đã chích máu vẽ Bác Hồ ngay trên tường thiếc. Sau
đó bọn giám thị bắt tù cạo rửa, tưới nước thế nào cũng không sạch, làm cách nào thì đôi
mắt và hàm râu Bác vẫn hiện ra.
Vượt ngục
Nhiều anh em lúc mới bước chân vào nhà tù đã nung nấu ý định trốn tù. Có những vụ từ
trong tự thoát ra. Có những vụ được lực lượng vũ trang bên ngoài hỗ trợ. Các vụ vượt
ngục ở nhà tù Phú Quốc có ba dạng trốn là: Vượt rào, đánh lính khi áp giải để chạy trốn,
đào hầm thoát ra ngoài. Dụng cụ đào hầm tự chế bằng nắp cà mèn, cán muỗng. Cách đào
phân công ba người một ca không mặc quần áo và đào vào ban đêm. Việc đào hầm không
khó, khó nhất là làm sao giữ được bí mật. Vì vậy các đồng chí lên đầy đủ kế hoạch như
lượng đất phải ép vào hai bên thành của hầm hoặc lợi dụng trời mưa đem đi đổ để xóa
dấu vết, quan sát nếu có chỉ điểm thì trừ khử ngay.
Theo tổng kết có 42 vụ vượt ngục, trong đó có 16 vụ vượt rào, 15 lần đi riêng lẻ, 7 cuộc
đánh quân cảnh, 4 lần đào hầm. Hơn 400 người ra đi nhưng chỉ có 239 người về được căn
cứ kháng chiến .
Nghĩa địa nhà tù
Nghĩa địa nhà tù đặt ở sườn đồi thấp giáp nhà thờ. Năm 1985, chúng ta đưa được 835 bộ
hài cốt về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ. Khi tìm hài cốt đã thu lượm được nhiều chiếc
đinh mười phân còn đóng dính vào xương mu bàn chân, đầu gối và đỉnh đầu. Nghĩa địa
này có lúc địch cho xe ủi san lấp đất lên rồi chôn tiếp tù binh lên lớp chết trước. Ngoài ra,
kẻ thù còn mang tù binh ra thủ tiêu ngoài biển. Có không dưới 4.000 tù binh bị giết chết
tại đây.
Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Nhà tù Phú Quốc bị giải tán. Tù binh
được trao trả. Những câu chuyện khủng khiếp về một “địa ngục trần gian” giữa biển khơi
vẫn còn trong ký ức không thể nào quên và những gì diễn ra với số phận của hơn 40.000
tù binh nơi đây là không thể kể xiết. Một khúc bi tráng về tù binh Nhà tù Phú Quốc ghi
vào lịch sử. Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích này là việc làm rất cần
thiết và quan trọng.