Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Những Nét Văn Hoá Độc Đáo Của Tỉnh Đồng Nai docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.42 KB, 8 trang )

Những Nét Văn Hoá Độc Đáo Của Tỉnh Đồng Nai


Tạ Xuân Thạc

Đồng Nai phát triển không ngừng nhờ hội đủ ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa cho
đến hôm nay. Nhìn lại, trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đồng Nai có được những nét
đặc biệt nhờ vào vị trí địa dư, miền đất Dồng Nai có nhiều ưu điểm nhờ vào dân lao động
đã cố gắng vươn lên để có một cuộc sống càng ngày càng sung túc thêm lên Vị trí địa dư:

Đông giáp tỉnh Bình Thuận.

Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.

Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước

Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Tây giáp Thành phố Saigon

Đồng Nai nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng yếu của miền Nam gồm 1 thành phố,
và 1 thị xã với 9 huyện.

TP Biên Hoà là trung tâm kinh tế, văn hoá của tỉnh; và thị xã Long Khánh và 9 huyện
gồm:



TP. Biên Hoà:

Vị trí: Nằm ở phía Tây của tỉnh Đồng Nai, Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, Nam giáp huyện


Long Thành, Đông giáp huyện Thống Nhất, Tây giáp huyện Dĩ An, Tân Uyên tỉnh Bình
Dương và Quận 9 – TP Saigon . Nằm 2 bên bờ Sông Đồng Nai, cách trung tâm Thành
phố Saigon 30 km (theo Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 1A), cách TP Vũng Tàu 90 Km (theo
Quốc lộ 51).

TP.Biên Hòa có 26 đơn vị hành chính gồm 23 phường: Trung Dũng, Thanh Bình, Hòa
Bình, Tam Hòa, Tân Mai, Tam Hiệp, Quang Vinh, Quyết Thắng, Bình Đa, Tân Tiến, Tân
Hòa, Hố Nai, Thống Nhất, Tân Biên, Tân Hiệp, Bửu Hòa Tân Vạn, An Bình, Bửu Long,
Long Bình Tân, Tân Phong, Trảng Dài, Long Bình và 3 xã: Tân Hạnh, Hiệp Hòa, Hóa
An.

Tổng diện tích tự nhiên: 154,73 km2, chiếm 2,64% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.

Dân số ước năm 2004: 531.898 người, mật độ 3.438,92 người/Km2



Biên Hòa có vai trò và vị trí quan trọng:

Là tỉnh lỵ, trung tâm chính trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai.

Là đô thị loại II, là TP lớn, là trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước.

Là đầu mối giao thông quan trọng của quốc gia (đường sắt Thống Nhất, Quốc lộ 1, Quốc
lộ 51).

Là cửa ngõ phía Đông Bắc, là bộ phận trong địa bàn Tp Saigon - Biên Hòa - Vũng Tàu
của cả vùng phía Nam.

Là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng, là đầu mối giao lưu đa dạng của vùng Đông

Nam bộ, đồng thời giữ vị trí an ninh - quốc phòng trọng yếu của vùng Đông Nam bộ.



Đời Sống Văn Hoá Của Tỉnh Đồng Nai



Tôi yêu bài Tiếng Hò Miền Nam của nhạc sĩ Phạm Duy mà ông đã sáng tác tại Saigon
năm1956 để ca ngơi miền Đồng Nai như sau


Nhà Bè nước chẩy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Ai li hò lờ ! Ai li hò lờ !
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hoà
Ai li hò lờ ! Ai li hò lớ !
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió
Ai nghe chăng tiếng người công phu
Biết tìm tự do tránh xa ngục tù
……………………………..
Ngày nào cạn nước Đồng Nai
Ngày nào cạn nước ngoài khơi
Non sông ta xóa mờ
Không ai nghe tiếng hò
Thì lời nguyền mới phai...

(Tiếng Hò Miền Nam - Nhạc Phạm Duy)




Sau cuộc di cư vĩ đại 1954, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, miền Nam Việt Nam
được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc ấm no nên nhạc sĩ Phạm Duy có ngẫu hứng
viết bài “Tiếng Hò Miền Nam” nêu trên, nó cũng đã nói lên được hoạt cảnh của Đồng
Nai, cũng làm cho ta nghĩ ngay đến một miền đất trù phú đã có hơn 300 năm hình thành
và phát triển do con sông Đồng Nai đem đất bùn sa mầu mỡ vun bồi. Nhiều biến cố lịch
sử đã ghi lại biết bao thăng trầm, với không ít sự biến động trên nhiều lãnh vực của vùng
đất Đồng Nai này. Tất cả đã tạo ra diện mạo, cho Đồng Nai một nét độc đáo về Văn hoá
vào cuối thế kỷ thứ XVI, khi đó vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được nguưòi
ta khai phá, chỉ có người dân bản xứ gồm các sắc dân như dân tộc Stiêng, dân tộc Mạ,
dân tộc Kơ-ho, dân tộc M'nông, dân tộc Chơ-ro và một vài buôn sóc người Khơ-me sinh
sống. Dân cư thưa thớt, sống rải rắc chứ không sống thành cộng đồng, kỹ thuật sản xuất
rất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp kém. Cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn ở
miền Trung và Bắc Việt Nam làm cho dân chúng lầm than khổ sở, điêu đứng nên đã tạo
ra một làn sóng di cư của người dân miền Thuận an Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Đồng
Nai tìm đất dể sinh sống.



Dân tộc ta vốn bản tính cần cù, chịu thương chịu khó, dân di cư người Việt đã cùng
chung sống với người bản xứ chung sức chung lòng quyết tâm khai phá đất hoang để sản
xuất nông nghiệp. Lâu dần, những khu rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh đồng
lúa và các loại hoa màu tươi tốt.



Trong cuộc Nam tiến có sự góp công của người Hoa mà ta thường gọi là người Minh
Hương. Dưới thời chúa Hiền Vương (1649 – 1687). Người Mãn Châu xâm lăng nước

Trung hoa lật đổ nhà Minh lập ra nhà Thanh, khi nhà Minh ở Trung Quốc bị sụp đổ,
những người trung thành với nhà Minh trong đó có Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn
thủ các châu Cao, Lôi, Liêm, cùng với một số tướng lãnh khác như Dương Ngạn Địch,
Hoàng Tiến, Trần An Bình, họ không khuất phục nhà Thanh nên đã đem khoảng 50 chiến
thuyền, hơn ba ngàn binh lính thân tín và gia quyến đến xin thần phục chúa Nguyễn ở
Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu thời đó đã thâu nhận và cho vào khai khẩn đất vùng
Mỹ Tho, Bến Tre, và Chợ Lớn. Một số thì đến khai khẩn ở vùng đất Đông Phố (Cù lao
Phố ngày nay).



Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả miền Nam bây giờ), đặt vùng đất mới
thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn
Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn
cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập
nghiệp và phát triển kinh tế.



Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng thấy Cù lao Phố
có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết định di chuyển đến đây sinh
sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung
tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định (miền Nam ngày nay).

Cũng nơi đất Đồng Nai này mà người ta đã chứng kiến biết bao nhiêu mối tình cao đẹp,
trung thành và nên thơ là khi đôi trai gái đã hứa hẹn với nhau:

“Ngày nào cạn nước Đồng Nai, ngày nào cạn nước ngoài khơi, non sông ta xoá mờ,
không ai nghe tiếng hò, thì lời nguyền mới thôi”.


Chính những câu ca mộc mạc đó mà ta thấy ngay cảnh thanh bình hiển hiện đầy tình tự
của người miền Đồng Nai nói ở trên.

Đồng Nai phồn thịnh và phát triển thêm nữa là vào thời kỳ của dân di cư 1954 trốn chạy
chế độ Cộng sản từ miền Bắc vào đây lập nghiệp dưới nền Đệ Nhất Cộng Hoà.

Xin đan cử vài nét độc đáo về văn hoá:



Kể về Trang Phục:

Trang phục của Đồng Nai có một ít thay đổi theo thời gian. Hiện nay, bộ đồ truyền thống
của đàn ông là khăn đống áo dài thì đã được thay thế bằng bộ âu phục. Trong khi đó
những phụ nữ thì vẫn mặc áo dài và đầu đội nón lá. Mặc áo dài là trang phục độc đáo của
Việt Nam thì phụ nữ Đồng Nai cũng rập theo nề nếp đó, nhất là vào các ngày lễ hội thì họ
càng đua nhau trưng diện, khoe chiếc áo dài đủ mầu muôn sắc.Những ngày lễ hội truyền
thống, phải kể như sau:



Kể về lễ hội quan trọng nhất hàng năm là Tết Nguyên Đán:

Đồng Nai có những ngày lễ hội chính trong năm, đáng kể nhất phải là ngày Tết Nguyên
Đán là ngày mùng 1 tháng 1 âm lịch, là lễ lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt
Nam. Tết Nguyên Đán Việt Nam có từ lâu đời đã tiềm tàng nhiều giá trị nhân văn thể
hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ.Tết còn là dịp để mọi người Việt
Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn
quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng...


Ngày Tết, mọi người trang hoàng nhà cửa, treo tranh, trưng bày hoa quả, rước tổ tiên về
cùng cùng vui Xuân trong ba ngày Tết. Người ta tin rằng Hoa Mai đem may mắn đến cho
mọi nhà nhân dịp Tết , nên ở Đồng Nai loại hoa này không thể thiếu trong mọi nhà trong
những ngày đầu năm.Ngoài ra mâm ngũ quả ở Đồng Nai cũng không thể thiếu, nó gồm
dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, một cành sung hoặc một loại trái cây khác nữa.
Người ta quan niệm rằng ngũ quả là lộc của trời, là một ý niệm khát khao sự đầy đủ, sung
túc. Ngày Tết, người Đồng Nai cũng còn duy trì các mỹ tục cổ truyền như khai bút, hái
lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ như các nơi khác của lãnh thổ Việt Nam



Kể về Tết Trung Thu:

Các trẻ em Đồng Nai cũng vui chơi Tết Trung Thu vì là ngày Tết của trẻ em, trong dịp lễ
hội này người ta làm ra một loại bánh đặc biệt thơm ngon, nó chỉ được sản xuất và bày
bán trong dịp này mà thôi, người ta thường gọi nó là Bánh Trung Thu. Trẻ em vui lắm
khi được đón tết Trung Thu vì có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao được làm bằng các loại
giấy mầu sặc sỡ. Trong lồng đèn được thắp sáng rồi kéo nhau đi thành từng đoàn ca hát
thật vui tươi trên các đường làng nông thôn hay ngoài ngõ, hoặc trên các đường phố khắp
thị thành. Cùng lúc với những đám múa lân có Ông Địa làm trò hoà lẫn với tiếng trống,
thanh la nghe inh tai nên rất náo nhiệt. Trong dịp này người ta có tục thưởng trăng rằm
tháng tám nên có rất nhiều cuộc vui được bày ra chơi cho vui. Người lớn thì có cuộc vui
chơi theo kiểu của người lớn, trái lại trẻ em thì lại có cuộc vui của trẻ em.

Những ngày lễ hội vui chơi, không thể thiếu Âm nhạc cổ truyền vì là một dòng chảy từ
xa xưa. Âm nhạc Việt Nam có truyền thống khá lâu đời, từ thời xa xưa dân Việt mình đã
coi âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu. Do đó tiếp nối quá trình phát triển lịch sử,
cư dân Miền Nam nói chung, dân Đồng Nai nói riêng họ đã sáng tạo nên rất nhiều loại
nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, và để lưu truyền cho con cháu,

hay để giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng, ước mơ một cuộc sống ấm no
hạnh phúc.



Tại Đồng Nai, người ta tìm ra một loại đàn đá Bình Đa, được biết đến như một di chỉ
khảo cổ học, cho thấy việc chế tác đàn đá đã xuất hiện từ trên dưới 3.000 năm trước. Loại
nhạc khí này tự thân vang, thuộc loại xylophone, metallophone. Mỗi bộ đàn gồm nhiều
thanh đá hợp thành. Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau, được chế tác
bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ (thời đồ đá). Vật liệu để làm đàn là những loại đá có
sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. (Bộ đàn đá đầu tiên tìm được tại Việt
Nam vào năm 1949 hiện được bảo quản tại viện bảo tàng "Con người" ở Paris)



Kể về Tôn Giáo:

Nói đến Đồng Nai ta phải nói đến sự tin tưởng của dân chúng vào hữu thần, ngược lại với
thuyết cộng sản vô thần, Đồng Nai vẫn còn một số tôn giáo lớn như Ðạo Phật, đạo Thiên

×