Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH LƯỢNG ĂN VÀO, TỈ LỆ TIÊU HÓA, CÂN BẰNG NI-TƠ VÀ NÂNG CAO GIÁ TRỊ SỬ DỤNG LÁ CHUỐI LÀM THỨC ĂN CHO DÊ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.84 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Tập 75A, Số 6, (2012), 221-228…

221




NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH LƯỢNG ĂN VÀO, TỈ LỆ TIÊU HÓA,
CÂN BẰNG NI-TƠ VÀ NÂNG CAO GIÁ TRỊ SỬ DỤNG LÁ CHUỐI
LÀM THỨC ĂN CHO DÊ
Nguyễn Hữu Văn

Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế

Tóm tắt. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu vuông latinh gồm có 4 dê, 4 khẩu phần ăn là A
(LC): chỉ cho ăn lá chuối; B (LC–RUK): LC có bổ sung thêm RUK (là hỗn hợp Rỉ
mật+Urê+Khoáng, với lượng là 2g/kg khối lượng cơ thể); C (LC–SLK): LC có bổ sung
thêm sắn lát khô (với lượng bằng 1% khối lượng cơ thể tính theo vật chất khô ); D (LC–
RUK–SLK): LC có bổ sung thêm RUK (với lượng là 2g/kg khối lượng cơ thể) và sắn lát
khô (với lượng bằng 1% khối lượng cơ thể tính theo chất khô). Khi dê được cho ăn khẩu
phần hoàn toàn lá chuối thì chúng thu nhận được một lượng khoảng 2,62% tính theo DM so
với khối lượng cơ thể. Nhưng khi được bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc
cả RUK và sắn lát khô thì lượng ăn vào tăng lên, tương ứng là 2,98; 2,83; và 2,87% tính
theo DM so với khối lượng cơ thể. Tỉ lệ tiêu hóa DM, OM, và CP ở dê khi cho ăn khẩu
phần hoàn toàn lá chuối lần lượt là 62,0; 64,6; và 59,1%. Tỉ lệ tiêu hóa các thành phần dinh
dưỡng này được nâng cao khi dê được bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc
cả RUK và sắn lát khô. Ở dê chỉ được cho ăn lá chuối thì lượng N thải ra theo phân chiếm tỉ
lệ 40,8%, thải ra qua nước tiểu chiếm tỉ lệ 40,6%, và còn lại cho tích lũy chiếm tỉ lệ 18,5%
so với lượng thu nhận. Khi được bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc cả
RUK và sắn lát khô thì tỉ lệ N thải ra theo phân và nước tiểu có xu hướng giảm, ngược lại tỉ
lệ N tích lũy tăng đáng kể (p<0,05).


Từ khóa: cân bằng ni-tơ, dê, lá chuối, tỉ lệ tiêu hóa.

I. Đặt vấn đề
Nghề nuôi dê đang được nhiều địa phương trong cả nước quan tâm phát triển
nhằm góp phần nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo nhờ ưu thế của loài
vật nuôi này là vốn đầu tư ban đầu thấp, dễ nuôi, sinh sản nhanh, ít bệnh tật (Cục Chăn
nuôi, 2006).
Dê ăn theo lối vặt, khả năng lựa chọn thức ăn rất tinh tế, nhưng cũng là loài vật
rất phàm ăn, ăn được hầu hết các loại cây trồng và cây cỏ tự nhiên nên chúng có thể phá
phách hoa màu, ăn trụi cây cối nếu quản lý chăn thả không tốt. Tập quán chăn nuôi dê ở
nước ta chủ yếu theo hình thức chăn thả quảng canh, đòi hỏi phải có diện tích bãi chăn
222 Nghiên cứu xác định lượng ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, cân bằng ni-tơ…
thả rộng. Thế nhưng trong những năm gần đây diện tích đồng bãi chăn thả ngày càng bị
thu hẹp do chủ trương giao đất khoán rừng, mở rộng diện tích canh tác. Để khắc phục
những khó khăn đó thì đòi hỏi cần phải có sự chuyển đổi từ hình thức chăn thả truyền
thống sang bán chăn thả hoặc nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng, lúc đó dê được cho ăn
các nguồn cây lá tự nhiên thu cắt, cây cỏ trồng, và phụ phẩm nông nghiệp.
Chuối là một loại cây ăn quả được trồng phổ biến ở khắp các vùng miền nước ta.
Sau khi thu hoạch quả thì thân và lá chuối vẫn còn tươi, đặc biệt là lá, một bộ phận có
giá trị dinh dưỡng tương đối cao (Viện chăn nuôi, 2001) có thể tận dụng để làm thức ăn
xanh cho gia súc nhai lại. Tuy nhiên, hầu như chưa có nghiên cứu nào đã công bố ở
nước ta về việc sử dụng lá chuối làm thức ăn cho dê nên người chăn nuôi chưa quan tâm
sử dụng do họ chưa hiểu hết giá trị của loại thức ăn này.
Vì vậy, nghiên cứu này nhằm xác định lượng ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, cân bằng ni-
tơ và nâng cao giá trị sử dụng lá chuối khi làm thức ăn cho dê.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Bốn (4 dê đực) trong độ tuổi khoảng 10–12 tháng tuổi, khối lượng bình quân
13,0±1,15 kg (Trung bình±Độ lệch chuẩn) được chọn đưa vào thí nghiệm. Dê được nuôi
cá thể trong cũi tiêu hóa có máng ăn, máng uống riêng biệt. Dê được nuôi thích nghi 2
tuần trước khi bắt đầu thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu vuông latinh gồm

có 4 dê, 4 khẩu phần ăn, tiến hành qua 4 giai đoạn. Mỗi giai đoạn gồm có 12 ngày, trong
đó: 7 ngày đầu cho gia súc làm quen với khẩu phần ăn mới và tiếp theo là 5 ngày thu
mẫu.
Lá cây chuối tiêu (Musa acuminata) được lấy từ cây chuối sau thu hoạch, rọc
lấy phần lá còn phần cọng bỏ đi. Sắn lát khô được thái lát dày khoảng 5mm, phơi khô,
bảo quản trong bì nilon. Hỗn hợp rỉ mật, urê và khoáng (RUK) được phối trộn đều theo
công thức sau: 2,7kg rỉ mật + 1,3kg nước + 3,3kg cám gạo + 1,3kg urê + 0,3kg
Diammonium phosphate + 0,5kg muối ăn + 0,5kg vôi + 0,1kg lưu huỳnh. Kết quả phân
tích thành phần dinh dưỡng các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm này được trình
bày ở bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn dùng trong thí nghiệm
Loại thức ăn

Chỉ tiêu
Lá chuối sau thu
hoạch
Sắn lát khô
Hỗn hợp rỉ mật,
urê và khoáng
DM (%) 25,61 86,53 76,12
OM (% DM) 91,35 97,25 78,33
CP (% DM) 11,18 4,19 44,24
EE (% DM) 5,72 0,33 2,83
NGUYỄN HỮU VĂN 223
NDF (% DM) 55,8 7,95 13,55
Ash (% DM) 8,65 2,75 15,10
GE (Kcal/kg DM) 4385 4011 2627
Bốn khẩu phần ăn được thí nghiệm như sau: A (LC): chỉ cho ăn lá chuối; B (LC–
RUK): LC có bổ sung thêm RUK (với lượng là 2g/kg khối lượng cơ thể dê); C (LC–
SLK): LC có bổ sung thêm sắn lát khô (với lượng bằng 1% khối lượng cơ thể dê tính

theo vật chất khô ); D (LC–RUK–SLK): LC có bổ sung thêm RUK (với lượng là 2g/kg
khối lượng cơ thể dê) và sắn lát khô (với lượng bằng 1% khối lượng cơ thể dê tính theo
vật chất khô)
Lượng sắn lát khô và hỗn hợp RUK bổ sung được chia làm 2 bữa: sáng lúc 7 giờ
15 phút và chiều lúc 13 giờ 30 phút. Lá chuối được cho ăn thỏa măn, nước uống được
cung cấp đầy đủ trong suốt thời gian thí nghiệm Hỗn hợp RUK được bôi lên lá chuối và
cho ăn hết đầu mỗi bữa ăn.
Mẫu các loại thức ăn, mẫu phân và mẫu nước tiểu được lấy trong giai đoạn thu
mẫu (liên tục 5 ngày) để phân tích thành phần hóa học. Vật chất khô (DM), vật chất hữu
cơ (OM), nitơ tổng số, mỡ thô (EE), và khoáng tổng số (Ash) được phân tích theo
AOAC (1990). Xơ không hòa tan trong chất tẩy trung tính (NDF) được xác định theo
Van Soest và cộng sự (1991). Năng lượng tổng số (GE) được xác định bằng Bomb
Calorimeter (Bomb Calorimeter 6300, Đức).
Số liệu được xử lý theo mô hình phân tích thống kê GLM dùng cho thiết kế thí
nghiệm theo kiểu ô vuông la tinh với độ tin cậy P<0,05 bằng phần mềm Minitab Version
14.0.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Lượng ăn vào thực tế các loại khẩu phần
Bảng 2. Lượng ăn vào thực tế các loại khẩu phần
Thành phần
Khẩu phần
A B C D S.E.M
Tổng lượng
(g/con/ngày)
1329 1459 1178 1116 -
- Lá chuối (g) 1329 1430 1028 936 -
- Sắn lát (g) 0 0 150 150 -
- RUK
*
(g) 0 29 0 30 -

Tổng lượng 393 447 437 431
-
224 Nghiên cứu xác định lượng ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, cân bằng ni-tơ…
(kg DM/con/ngày)
- OM (g) 359 405 406 398 -
- CP (g) 43,9 57,2 40,0 46,5 -
Tỉ lệ DM ăn vào so với P
cơ thể dê (%)
2,62 2,98 2,93 2,87 0,205
Kết quả theo dõi lượng ăn vào của dê đối với các loại khẩu phần được trình bày
ở bảng 2. Khi dê chỉ được ăn lá chuối thì lượng ăn vào bình quân là 1329 g/ngày, qui
đổi ra vật chất khô là 393 g/ngày, tương đương với 2,62% so với khối lượng cơ thể tính
theo chất khô. Mức ăn vào này là trung bình so với công bố của các tác giả khác.
Devendra và McLeroy (1982) cho biết các giống dê thịt ở vùng nhiệt đới thường thu
nhận thức ăn với lượng hiếm khi vượt quá 3% so với khối lượng cơ thể tính theo chất
khô. Ví dụ dê Jumnapari (Ấn độ) ăn vào mức 3,1%, nhưng dê Katjang (Malaysia) ăn
vào với lượng từ 2,2 - 2,8% tùy theo chất lượng cỏ, so với khối lượng cơ thể.
Khi được bổ sung thêm hỗn hợp rỉ mật, urê và khoáng (RUK) với lượng 2g/kg
thể trọng thì tổng lượng ăn vào bình quân của dê tăng thêm 9,8% (từ 1329 g/ngày lên
1459 g/ngày), qui đổi ra vật chất khô là 447 g/ngày. Điều này chứng tỏ hỗn hợp RUK,
có chứa các loại carbohydrates dễ lên men, urê và khoáng bổ sung, tuy với lượng nhỏ
nhưng đã có tác dụng làm tăng tính ngon miệng và khả năng thu nhận lá chuối của dê.
Nhờ đó mà lượng thu nhận bình quân so với thể trọng dê tăng từ 2,62% lên 2,98% tính
theo chất khô.
Khi được bổ sung thêm sắn lát khô hoặc hỗn hợp RUK + sắn lát khô thì lượng
thu nhận lá chuối giảm đi, kéo theo tổng lượng ăn vào giảm nhưng do hỗn hợp RUK và
sắn lát khô đều có hàm lượng chất khô cao nên tổng thu nhận chất khô/con/ngày cũng
như tỉ lệ phần trăm thu nhận so với khối lượng cơ thể tính theo chất khô vẫn cao hơn so
với khi dê chỉ được cho ăn lá chuối và tương đương với khi dê được cho ăn lá chuối có
bổ sung hỗn hợp RUK.

Tuy tỉ lệ vật chất khô thu nhận so với khối lượng cơ thể khi dê được ăn khẩu
phần B, C, và D cao hơn so với khẩu phần A nhưng sự sai khác này không có ý nghĩa
thống kê. Tỉ lệ thu nhận vật chất khô so với thể trọng dê khi cho ăn khầu phần A, B, C,
và D lần lượt là 2,62; 2,98; 2,93; và 2,87%. Như vậy, sự thu nhận vật chất khô của dê
đối với các khẩu phần ăn này là bình thường so với công bố của các tác giả khác như đã
trình bày ở phần trên.
3.2. Tỉ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng có trong khẩu phần
Kết quả thí nghiệm theo dõi, phân tích và tính toán tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến của dê
đối với một số thành phần dinh dưỡng có trong các khẩu phần ăn được trình bày ở bảng
3.
NGUYỄN HỮU VĂN 225
Chúng tôi chưa tìm thấy công bố nghiên cứu tương tự về tỉ lệ tiêu hóa lá chuối ở
dê, nhưng ở bò thì theo Ffoulkes và Preston (1977) cho biết tỉ lệ tiêu hóa DM của lá
chuối ở bò là 65,2%. Nguyễn Xuân Bả (2006) công bố kết quả một loạt các thí nghiệm
tiêu hóa in vivo trên dê và cừu khi cho ăn lá dâu và lá dâm bụt có tỉ lệ tiêu hóa DM dao
động từ 58,0 - 76,2%, tỉ lệ tiêu hóa OM dao động từ 63,1 - 80,3%, và tỉ lệ tiêu hóa CP
dao động từ 79,9 - 84,4%.
Bảng 3. Tỉ lệ tiêu hóa DM, OM, và CP có trong khẩu phần ăn (%)
Thành phần
Khẩu phần
A B C D S.E.M
Vật chất khô (DM) 62,0 63,6 71,7 69,3 4,27
Chất hữu cơ (OM) 64,6 65,9 74,1 71,8 4,01
Protein thô (CP) 59,1 64,5 61,2 64,5 2,46
(Giá trị bình quân trên cùng một hàng có số mũ khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống
kê với P<0,05).
Kết quả thí nghiệm của chúng tôi ở dê chỉ được cho ăn lá chuối có tỉ lệ tiêu hóa
DM, OM và CP lần lượt là 62,0; 64,6; và 59,1%. Khi dê được bổ sung thêm hỗn hợp
RUK thì tỉ lệ tiêu hóa DM được cải thiện (63,6%) và đạt cao nhất khi được bổ sung
thêm sắn lát khô (71,7%). Trong khi đó việc bổ sung thêm cả RUK và sắn lát khô không

làm thay đổi đáng kể tỉ lệ tiêu hóa DM so với chỉ bổ sung sắn lát khô (69,3% so với
71,7%). Tỉ lệ tiêu hóa OM cũng có xu hướng thay đổi tương tự tỉ lệ tiêu hóa DM.
Tỉ lệ tiêu hóa CP đã được cải thiện đáng kể (64,5% so với 59,1%) khi dê được
cho ăn khẩu phần B có bổ sung thêm RUK chứng tỏ hiệu quả của việc sử dụng rỉ mật,
urê và khoáng bổ sung để nâng cao khả năng lên men của hệ vi sinh vật dạ cỏ. Tuy
nhiên, ở khẩu phần C có bổ sung thêm sắn lát khô, mức tăng tỉ lệ tiêu hóa không đáng
kể so với khẩu phần B và D. Theo chúng tôi, nguyên nhân có thể là do hàm lượng CP có
trong sắn lát khô thấp và khó tiêu hóa, mặt khác lượng CP thu nhận khi dê được ăn khẩu
phần C cũng ít (bảng 4).
Kết quả xử lý thống kê không cho thấy sự sai khác có ý nghĩa (P>0,05), tuy
nhiên các kết quả trên cũng bước đầu phản ánh được xu hướng cải thiện về tỉ lệ tiêu hóa
một số thành phần dinh dưỡng khi dê được cho ăn lá chuối có bổ sung thêm hỗn hợp
RUK, hoặc sắn lát khô, hoặc bổ sung đồng thời cả hỗn hợp RUK và sắn lát khô.
3.3. Cân bằng nitơ ở dê được cho ăn các khẩu phần thí nghiệm
Số liệu bảng 4 cho thấy kết quả tính toán cân bằng N ở dê khi được cho ăn các
khẩu phần A, B, C, D .
226 Nghiên cứu xác định lượng ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, cân bằng ni-tơ…
Bảng 4. Cân bằng N ở dê khi được cho ăn các loại khẩu phần
Thành phần
Khẩu phần
A B C D S.E.M
N thu nhận (mg/ngày) 7040
b
9146
a
6374
b
7434
ab
508

- Tỉ lệ (%) 100 100 100 100 -
N thải ra phân (mg/ngày) 2890 3238 2483 2625 243
- Tỉ lệ (%) 40,8 35,5 38,8 35,5 2,45
N thải ra nước tiểu (mg/ngày) 2838
ab
3422
a
2100
ab
1611
b
229
- Tỉ lệ (%) 40,6 37,3 32,5 22,3 2,15
N tích lũy (mg/ngày) 1312
a
2486
bc
1792
ab
3197
c
131
- Tỉ lệ (%) 18,5
a
27,1
b
28,7
b
42,2
c

0,48
(Giá trị bình quân trên cùng một hàng có số mũ khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống
kê với P<0,05).
Ở dê chỉ được cho ăn lá chuối (khẩu phần A), lượng N thu nhận bình quân là
7040 mg/ngày, lượng thải ra theo phân là 2890 mg/ngày (chiếm tỉ lệ 40,8% so với lượng
thu nhận), lượng thải ra qua nước tiểu là 2838 mg/ngày (chiếm tỉ lệ 40,6% so với lượng
thu nhận), lượng còn lại cho tích lũy là 1312 mg/ngày (chiếm tỉ lệ 18,5% so với lượng
thu nhận). Kết quả này cho thấy nếu dê chỉ được ăn lá chuối vẫn có thể duy trì được
tăng trọng.
Từ kết quả phân tích ở bảng 4 thấy: Có sự tăng lên có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
về lượng N thu nhận khi dê được cho ăn khẩu phần B, có bổ sung hỗn hợp RUK một
mặt là nhờ lượng lá chuối ăn vào tăng thêm, mặt khác là trong hỗn hợp RUK có hàm
lượng N cao. Tuy nhiên lượng thu nhận N khi cho ăn khẩu phần C và D có xu hướng
giảm do sắn lát khô bổ sung có hàm lượng N thấp.
Mặc dù không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05) nhưng tỉ lệ N thải ra
theo phân có xu hướng giảm ở các khẩu phần có bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn
lát khô, hoặc bổ sung đồng thời cả hỗn hợp RUK và sắn lát khô. Tương tự tỉ lệ N thải ra
theo nước tiểu có xu hướng giảm dần theo thứ tự khi dê được ăn khẩu phần A, B, C, và
thấp nhất là khầu phần D.
Từ những thay đổi kể trên dẫn đến N tích lũy ở dê tăng lên có ý nghĩa thống kê
(P<0,05) theo thứ tự khi dê được cho ăn khẩu phần A, B, C, D.
Từ kết quả thu được cho thấy lá chuối sau khi thu hoạch là nguồn thức ăn có giá
trị có thể làm thức ăn cho dê. Khi cho dê ăn khẩu phần chỉ có lá chuối lượng thu nhận
vật chất khô vẫn đảm bảo ở mức bình thường, tỉ lệ tiêu hóa DM, OM, CP cũng nằm
NGUYỄN HỮU VĂN 227
trong giới hạn trung bình của các loại thức ăn thô xơ và có cân bằng dương về N. Hiệu
quả sử dụng các thành phần dinh dưỡng và cân bằng N có xu hướng được cải thiện khi
dê được cho ăn lá chuối có bổ sung thêm hỗn hợp RUK, hoặc sắn lát khô, hoặc bổ sung
cả RUK và sắn lát khô.
4. Kết luận

Lá chuối sử dụng trong thí nghiệm của chúng tôi có hàm lượng DM, OM, CP,
EE, NDF, Ash và GE tương ứng là 25,6%, 91,4%, 11,2%, 5,7%, 55,8%, 8,7%, và 4385
Kcal/kgDM.
Khi dê được cho ăn khẩu phần hoàn toàn lá chuối thì chúng thu nhận được một
lượng khoảng 2,62% tính theo DM so với khối lượng cơ thể. Khi được bổ sung thêm
hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc cả RUK và sắn lát khô thì lượng ăn vào tăng lên,
tương ứng là 2,98; 2,83; và 2,87% tính theo DM so với khối lượng cơ thể.
Tỉ lệ tiêu hóa DM, OM, và CP ở dê khi cho ăn khẩu phần hoàn toàn lá chuối lần
lượt là 62,0; 64,6; và 59,1%. Tỉ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng này cũng được
nâng cao khi dê được bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc cả RUK và
sắn lát khô.
Ở dê chỉ được cho ăn lá chuối thì lượng N thải ra theo phân chiếm tỉ lệ 40,8%,
thải ra qua nước tiểu chiếm tỉ lệ 40,6%, và còn lại cho tích lũy chiếm tỉ lệ 18,5% so với
lượng thu nhận. Khi được bổ sung thêm hỗn hợp RUK hoặc sắn lát khô, hoặc cả RUK
và sắn lát khô thì tỉ lệ N thải ra theo phân và nước tiểu có xu hướng giảm, ngược lại tỉ lệ
N tích lũy tăng đáng kể.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. AOAC (Association of Official Analytical Chemists), Official methods of Analysis,
15th edn, Vol 1, Washington, DC., USA, 1990.
[2]. Cục Chăn nuôi, Tóm tắt đề án phát triển chăn nuôi dê, cừu giai đoạn 2007 – 2020, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà Nội, 2006
[3]. Devendra, C. and G.B.McLeroy, Goat and Sheep Production in the Tropics,
Intermediate Tropical Agriculture Series, Longman, London and New York, 1982.
[4]. Ffoulkes, D. and T R Preston, The banana plant as cattle feed: digestibility and
voluntary intake of different proportions of leaf and pseudostem, Trop Anim Prod.
Vol.3, (1977), 2.
[5]. Nguyễn Xuân Bả, Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morus alba), cây dâm bụt
(Hibiscus Rosa Sinensis L.) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở miền Trung, Việt Nam,
Luận án tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Đại học Huế, 2006.

228 Nghiên cứu xác định lượng ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, cân bằng ni-tơ…
[6]. Van Soest, P. J., J. B. Robertson and B. A. Lewis, Methods for dietary fiber, neutral
detergent fiber, and nonstarch polysaccharides in relation to animal nutrition, J. Dairy
Sci. Vol.74, (1991), 3583-3597.
[7]. Viện chăn nuôi quốc gia, Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc gia cầm
Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.

STUDY ON THE DETERMINATION OF FEED INTAKE, DIGESTIBILITY,
NITROGEN BALANCE AND THE IMPROVEMENT OF UTILISATION
VALUE OF BANANA LEAVES AS FEEDS FOR GOAT
Nguyen Huu Van

College of Agriculture and Forestry, Hue University

Abstract. The experiment was a 4x4 latin square design with 4 rations named A (LC):
banana leaves; B (LC-RUK): LC supplemented with RUK (a mixture of molasses, urea,
and minerals, 2g/kg body weight); C (LC-SLK): LC supplemented with dry chopped
cassava (1% body weight in DM); and D (LC-RUK-SLK): LC supplemented with RUK
(2g/kg body weight) and dry chopped cassava (1% body weight in DM). When goats were
only fed with banana leaves, their feed intake was 2,62% of body weight in DM. But when
they were supplemented with RUK or dry chopped cassava or both RUK and dry chopped
cassava, their feed intake increased respectively by 2,98; 2,83; 2,87% of body weight in
DM. Digestibility of DM, OM, and CP in goats fed with only banana leaves was 62,0; 64,6;
và 59,1%. The digestibility of those DM, OM, and CP increased when the goats were
supplemented with RUK or dry chopped cassava or both RUK and dry chopped cassava. In
the goats only fed with banana leaves, the nitrogen excreted in feace was 40,8%, in urine
was 40,6%. The retention was only 18,5% in comparision with the nitrogen intake. When
they were supplemented with RUK or dry chopped cassava or both RUK and dry chopped
cassava, the nitrogen excreted in feace and in urine tended to decrease while the nitrogen
retention significantly increased (p<0,05).

Keywords: nitrogen balance, goat, banana leaves, digestibility.

×