Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tóm tắt Tây Tiến Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.75 KB, 8 trang )

TÂY TIẾN
Quang Dũng

I. TÁC GIẢ.
- Quang Dũng (1921- 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì (Hà Tây).
- Mang hồn thơ phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Là nghệ sĩ đa tài và giàu lòng yêu nước: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc và tham gia
quân đội – Ông từng làm đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến.
II.TÁC PHẨM.
1. Đoàn quân Tây Tiến.
- Là đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ
biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở
miền tây Bắc bộ Việt Nam.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên
(như Quang Dũng). Họ chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh
sốt rét hoành hành. Tuy vậy, họ vẫn sống lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
- Sau thời gian hoạt động ở Lào, họ trở về Hịa Bình thành lập trung đồn 52.
2. Hồn cảnh sáng tác, xuất xứ, chủ đề.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại
Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ này.
- Lúc đầu tác phẩm có tên là Nhớ Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô.
- Tây Tiến là bản giao hưởng của nỗi nhớ người lính, là hành khúc lãng mạn và hào hùng
của thời hoa lửa.
III. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
Chương khúc số 1 của nỗi nhớ:
Cuộc vạn lý trường chinh.
1. Nỗi nhớ - cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
- Sông Mã vừa là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là dịng sơng gắn liền với chặng đường
hành quân của trung đoàn Tây Tiến.
- Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dịng tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng để nhận ra sự


trống trải mênh mông trong thực tại bởi Sơng Mã xa rồi, để sau đó, hiện tại mờ đi, nỗi nhớ
ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
- Từ nhớ điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, miên man, ám ảnh, không thể
nguôi ngoai.
+ Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi – đó là khơng gian mênh
mơng heo hút, hoang sơ – gợi lên kỷ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả của
đoàn binh Tây Tiến.
+ Vế sau dành miêu tả sắc thái của nỗi nhớ: nhớ chơi vơi. Từ láy chơi vơi gợi độ cao
phiêu du, bay bổng – phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây. Đồng
thời, từ láy chơi vơi còn gợi cảm giác về nỗi nhớ chập chờn, đứt nối nhưng day dứt, thường
trực khơn ngi trong lịng tác giả.
→ Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi nhớ tha thiết của người
cựu chiến binh Tây Tiến về thiên nhiên và con người trên con đường vạn lý trường chinh.
2. Nỗi nhớ về vùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.


a. Sự khắc nghiệt của khí hậu:
- Nét đặc sắc của núi rừng trong ký ức Quang Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương
phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
- Câu thơ đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của khí hậu qua hình ảnh một đồn qn dãi
dầu mệt mỏi thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ
lấp – gợi tả màn sương rừng mênh mơng, dày đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ,
khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả.
- Hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương thành đêm
hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung
linh, huyền hoặc. Cũng có thể hiểu hoa về trong đêm hơi là hương hoa rừng lan tỏa, phảng
phất theo bước chân người lính.

b. Sự hùng vĩ và hiểm trở của dốc núi:
- Hình ảnh trập trùng, hiểm trở của dốc núi được miêu tả trực tiếp qua câu thơ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
+ Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc trong câu thơ – tạo nên nét vẽ gân guốc – gợi sự
trắc trở, cheo leo của địa hình và cả hơi thở nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trên đường
hành quân.
+ Nhịp 4/3 và từ dốc được điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất,
nối tiếp như đến vô tận của những con dốc: con dốc này chưa qua, con dốc khác đã lại đợi
sẵn. Những dốc núi như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính.
+ Sự hiểm trở của dốc núi cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của các từ
láy:
• Khúc khuỷu: diễn tả sự gập ghềnh, quanh co nơi sườn núi.
• Thăm thẳm: khơng chỉ diễn tả chiều cao mà cịn đẩy chiều cao của núi lên vời vợi,
nhìn lên ngút ngàn, nhìn xuống sâu hun hút.
• Heo hút vừa gợi sự cao xa, vừa gợi hoang vắng – được đảo lên đầu câu thơ nhằm
nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi.
+ Cồn mây là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi bộn bề, chồng chất, dựng lên thành
cồn, thành dốc và cao đến mức con đường như lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi, mây
mờ mịt, trập trùng khiến con đường hành quân của người lính càng thêm cheo leo, hiểm
trở, hoang vu.
+ Hình ảnh nhân hóa súng ngửi trời – gợi tả độ cao của dốc núi: người lính dường như
đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Cách nói hóm hỉnh, đầy chất lính này cho thấy
tâm hồn tươi trẻ lạc quan của những người lính phong trần: coi thường mọi gian lao, vất vả.
Có nhà thơ cịn cho rằng: hình ảnh súng ngửi trời là trung tâm hùng tráng của bức tranh
hiểm trở, bởi ở độ cao ấy, có con người – và bởi nói như ca dao thời kháng chiến: Đèo cao
thì mặc đèo cao / Ta trèo lên đỉnh, ta cao hơn đèo! Và do vậy, câu thơ khiến các anh hiện ra
trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao!
- Dốc núi miền Tây còn được miêu tả bằng nét vẻ gân guốc sắc sảo:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.

+ Điệp ngữ ngàn thước kết hợp với sự tương phản của hai động từ: lên / xuống – khắc
họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kỳ thú của dốc núi: con dốc như một đường gấp khúc, bên
này đường lên dốc dựng đứng vút cao, bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.


→ Thông qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải nghiệm của người lính Tây Tiến trên
đường hành quân, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn những người lính Tây Tiến: họ lạc quan,
mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả. Những thử thách của thiên nhiên chỉ càng rõ
hơn sức mạnh ý chí, nghị lực phi thường và tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của họ.
c. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của cảnh mưa rừng :
- Câu thơ tả mưa miên man với 7 thanh bằng như làm dịu đi sự khắc nghiệt của thiên nhiên,
mở ra một khơng gian mênh mơng, dàn trải, nhạt nhịa trong mưa:
Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi
Hình ảnh ẩn dụ mưa xa khơi cho thấy cả thung lũng mờ mịt như lỗng tan trong biển
mưa; khơng gian bỗng như mênh mang, xa vời hơn. Có thể tưởng tượng: người lính hành
quân nơi lưng chừng núi, tạm dừng chân và đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh
mắt người lính xa nhà bâng khng hướng tới những ngơi nhà bồng bềnh, thấp thoáng
trong màn mưa hư ảo. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mơng, hình ảnh ngơi
nhà gợi cảm giác ấm áp, bình n làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến lòng người xa
quê.
d. Sự hoang dã, dữ dội của núi rừng:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
- Hai hình ảnh nhân hóa: thác gầm thét và cọp trêu người làm tăng thêm sự dữ dội, hoang
sơ đầy bí hiểm của núi rừng. Nếu ở câu trên những tiếng: thác, thét mang thanh trắc ở âm
vực cao gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm thì ở câu dưới, các
tiếng Hịch, cọp cũng mang thanh trắc nhưng âm vực thấp như mô phỏng tiếng bước chân
nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vịm tối thấp của núi rừng.
- Chiều chiều và đêm đêm là hai trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại viên miễn, vĩnh hằng –
những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng không phải một chiều,

một đêm mà là sự ngự trị muôn đời.
→ Hai câu thơ miêu tả những ấn tượng về núi rừng càng khiến chân dung người lính Tây
Tiến thêm hào hùng mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng
bóng con người. Họ đã vượt qua những gian truân vất vả – đôi khi quá sức chịu đựng của
con người – bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm.
3. Ký ức về con người trên con đường hành qn.
- Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+ Từ láy dãi dầu thể hiện sự chịu đựng tất cả những vất vả, nhọc nhằn mà người lính đã
trải qua.
+ Hai câu thơ vẽ nên bức ký họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến:
• Hình ảnh người lính phong trần bng mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng
chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vơ tư, trẻ trung.
• Miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường: người lính kiệt sức, gục ngã, không
thể tiếp bước cùng đồng đội. Tuy nhiên, có thể thấy người lính gục xuống nhưng
súng mũ vẫn bên mình – dù khơng vượt qua được khó khăn, nhưng anh vẫn khơng
thối lui, chùn bước, khơng đầu hàng khó khăn, khơng rời bỏ đội ngũ.
+ Cách diễn đạt chủ động trong cụm từ không bước nữa và bỏ quên đời, Quang Dũng
đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàng của những người lính Tây Tiến.


→ Bằng diễn đạt thật lãng mạn, Quang Dũng đã thể hiện được tinh thần dũng cảm đương
đầu với những khó khăn và sự chịu đựng kiên cường của người lính Tây Tiến. Đó chính là
vẻ đẹp hào hùng của họ.
- Kỷ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình với người dân địa phương:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Cụm từ cảm thán Nhớ ôi…– bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt.
+ Những giờ phút người lính tạm dừng chân ở bản làng nào đó, quây quần bên nồi cơm

bốc khói. Hương thơm lúa nếp ngày mùa lan tỏa cùng dáng hình sơn nữ dịu dàng với đơi
bàn tay khéo léo – làm nên nỗi nhớ xa xôi, ngọt ngào trong lịng người lính.
+ Cách dùng từ sáng tạo, thật đa tình của tác giả mùa em – đã khiến Mai Châu không
chỉ là một địa danh gắn với kỷ niệm thơm thảo của xơi nếp đầu mùa, của tình quân dân sâu
nặng mà Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh các cơ sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ
cười, nồng nàn hương sắc trong tâm hồn của các chàng thanh niên Hà Nội hào hoa, lãng
mạn.
Chương khúc số 2 của nỗi nhớ:
Những kỷ niệm đẹp của
đời lính.
1. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương.
- Được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Hình ảnh ẩn dụ đuốc hoa – ánh lửa bập bùng ở doanh trại – bộc lộ niềm vui náo nức,
rạo rực trong lòng người khiến đêm lửa trại trở thành đêm hội tưng bừng.
+ Cụm từ bừng lên – tạo ấn tượng về ánh sáng: ánh sáng của những bó đuốc bất ngờ rực
lên giữa màn đêm hun hút lạnh giá ở các bản làng giữa núi rừng, làm khơng khí đêm liên
hoan lửa trại sơi nổi hẳn lên.
+ Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ – thể hiện cái nhìn đầy ngỡ ngàng thú vị, sự
ngạc nhiên, thậm chí sững sờ của những chàng lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của những cô gái
nơi xứ lạ phương xa.
+ Các cô sơn nữ xuất hiện với những bộ xiêm áo lộng lẫy; e thẹn, tình tứ trong một vũ
điệu đậm màu sắc xứ lạ.
+ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ – sáu thanh bằng gợi tiếng khèn, điệu nhạc chơi vơi,
huyền diệu, như cuốn hút, đắm say lòng người.
→ Những chàng trai Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ,
những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế

giới mộng mơ, để xây hồn thơ giữa những điệu múa, những vẻ đẹp say người của phương
xa, đất lạ. Đó là kỷ niệm khơng thể phai mờ trong lịng mỗi người lính Tây Tiến.
2. Cảnh sơng nước miền Tây thơ mộng trữ tình.
- Nỗi nhớ miền Tây được gởi vào lời nhắn với người đi, nhưng thực ra nhà thơ đang để
lịng mình da diết hướng về Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên sông nước
mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ


Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đung đưa
+ Đại từ chỉ định ấy mang lại sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng nỗi nhớ nhung, tiếc nuối,
bâng khng trong lịng người.
+ Điệp cấu trúc: Có thấy hồn lau…, Có nhớ dáng người…thể hiện nỗi nhớ nhung, trăn
trở hướng về cảnh vật và con người miền Tây.
+ Nhớ về những hàng lau xám buồn bên bờ sơng hoang dại: hình ảnh ẩn dụ hồn lau –
gợi cái phơ phất xào xạc của ngàn lau trong gió núi, trong chiều sương nhạt nhòa mờ ảo đã
khiến rừng lau như có hồn, như biết chia sẻ nỗi niềm với người lính. Nay người đã đi xa,
ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mơng sơng nước. Hình dung về những hàng lau cô đơn nơi
nẻo bến bờ – một không gian hoang vu, hiu quạnh, man mác u buồn, vắng người qua lại –
khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lịng người lính đã gắn bó và đã chia xa.
+ Con người miền Tây hiện lên trong hoài niệm của tác giả như một bóng dáng mờ xa,
huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên chiếc thuyền độc mộc đè thác lũ
băng băng lướt tới, vừa mềm mại, duyên dáng, uyển chuyển trong hình ảnh ẩn dụ hoa đong
đưa.
Chương khúc số 3 của nỗi nhớ:
Bức phù điêu bằng thơ về
người lính.
1. Vẻ đẹp kiêu hùng.

- Hai câu đầu của khổ thơ tái hiện chân thực cuộc sống của những người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
- Nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực chiến đấu gian khổ, hào hùng trong cuộc
sống của người lính Tây Tiến:
+ Khơng mọc tóc: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở
rừng, hoặc tạo thuận lợi hơn cho đánh cận chiến; cũng có thể đó là hậu quả của những trận
sốt rét rừng liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình
ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng với cách diễn đạt
độc đáo, tác giả đã chuyển hồn tồn tình thế bị động sang tình trạng chủ động, người lính
Tây Tiến hiện lên khơng tiều tụy, nheo nhếch mà kiêu dũng, ngang tàng – tạo nên một nét
vẽ phi thường làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình tượng thơ.
+ Xanh màu lá – dữ oai hùm: màu xanh ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu
xanh của lá ngụy trang. Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu câu thơ miêu tả những gương
mặt xanh xao, gầy ốm vì sốt rét, vì cuộc sống kham khổ ở rừng. Cách diễn đạt tinh tế của
Quang Dũng – xanh màu lá chứ khơng phải xanh xao, người lính Tây Tiến như hịa với
thiên nhiên cây lá – khiến hình ảnh người lính vẫn trẻ trung, đầy sức sống. Sự tương phản
độc đáo giữa xanh màu lá và dữ oai hùm cho thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của
người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội kiêu hùng, vẻ uy nghi lẫm liệt như những vị chúa tể rừng
xanh!
→ Miêu tả người lính Tây Tiến trong gian khổ, bệnh tật nhưng Quang Dũng không chú
trọng vào gian khổ và hậu quả của nó mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường, hào hùng,
đem đến ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường vượt lên khó khăn của
người lính Tây Tiến.
2. Vẻ đẹp lãng mạn.
- Hai câu thơ tiếp tập trung thể hiện chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn người lính:


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

- Mắt trừng là ánh mắt mở to, hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu
và khát vọng chiến thắng – khát vọng ấy gửi trong giấc mộng chiến thắng cao đẹp của
những người trai thời loạn. Câu thơ làm tôn thêm sự oai phong, lẫm liệt trong dáng vẻ, khắc
họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn của những người lính có lý tưởng và khát vọng lớn lao.
- Lắng đọng trong phút bình yên giữa chiến trường, họ gửi mộng về quê nhà, đêm mơ dáng
yêu kiều của các cô gái Hà Nội với tâm hồn rạo rực, khao khát yêu thương. Hình ảnh ẩn dụ
dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, cả sắc hương của những cơ gái Hà thành xinh đẹp,
thanh lịch trong nỗi nhớ nhung của người lính xa nhà.
* Vũ Quần Phương nhận xét: Hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới. Sự tương
đồng trong hai nét nghĩa của mộng và mơ, sự tương phản của hai thế giới nghĩa chung và
tình riêng đã cùng nhau làm nên vẻ đẹp toàn vẹn cho tâm hồn người lính: họ khơng chỉ có
lý tưởng cao đẹp, ý chí kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng
trai lãng mạn, mộng mơ có trái tim chan chứa tình u thương. Cũng như hình ảnh: Người
ra đi đầu khơng ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy trong một sáng mùa thu trước
Cách mạng và sau đó là người lính trong Những đêm dài hành quân nung nấu / Bỗng bồn
chồn nhớ mắt người yêu (Nguyễn Đình Thi), hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong binh
đoàn Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động lực để họ ra đi
chiến đấu, còn lý tưởng Cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao. Đó là
những nét khắc họa chân thực và cảm động về một thế hệ người Việt Nam đau thương
nhưng rất anh hùng.
3. Vẻ đẹp bi tráng.
- Nỗi bi thương thể hiện ở cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
+ Tác giả đã khơng né tránh mà nhìn thẳng vào sự thật đau thương, mất mát: những nấm
mồ hoang nằm rải rác nơi rừng sâu biên giới, trên đường hành quân.
+ Từ láy rải rác diễn tả sự thưa thớt nhưng trên không gian rộng lớn nơi biên ải xa xôi,
lạnh lẽo, hiu quạnh → Sự hi sinh mất mát âm thầm, lặng lẽ nhưng vô cùng lớn lao, cao cả
của những người lính Tây Tiến khiến người đọc càng xót xa hơn cho cái kết thúc cuối cùng
của đời người.
+ Từ Hán Việt biên cương, viễn xứ – họ ra đi chiến đấu nơi xa xơi, hẻo lánh ít người qua

lại, khơng ai hương khói nơi đất khách q người. Song, với cách sử dụng từ Hán việt
mang sắc thái cổ kính thì những nấm mồ hoang đã trở thành những mộ chí tơn nghiêm, gợi
cho người đọc cảm giác bùi ngùi, thương xót.
- Nhưng cái bi thương bị mờ đi trước lý tưởng quên mình vì Tổ Quốc, tạo nên vẻ đẹp hùng
tráng cho sự hy sinh anh dũng của những người lính Tây Tiến.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
+ Hàng loạt các từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành – khiến sự hy
sinh của người chiến sĩ Tây Tiến được đặt vào một khơng khí thiêng liêng, trang trọng và
sự cảm phục của tác giả.
+ Ở đây, mục đích của Quang Dũng là làm tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần
thời đại của những người lính Tây Tiến: người lính đã hồn tồn lường trước được những
khó khăn khơng thể tránh khỏi của cuộc chiến, nhưng họ vẫn chấp nhận nó vì quyết tâm


cao đẹp: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Câu thơ mang tính chất khẩu ngữ, mang
dáng dấp một lời thề, một lời tuyên bố mạnh mẽ, rắn rỏi, một quyết tâm sắc đá: tự nguyện
hiến dâng khoảng đời đẹp nhất cho Tổ quốc. Đó cũng là tâm nguyện, là ý chí cao đẹp của
những thanh niên Việt Nam thời chống Mỹ được nhà thơ Thanh Thảo thể hiện rất chân
thành, thấm thía và xúc động:
Chúng tơi ra đi khơng tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc.
Bởi họ ý thức được trách nhiệm của mình:
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…
+ Chính lý tưởng xả thân ấy đã làm đời xanh của họ càng thêm ý nghĩa, nâng đỡ tâm
hồn những người lính trẻ để họ đối diện cái chết trong tư thế thật bình thản, thật hào hùng:
anh về đất. Biện pháp nói giảm, nói tránh đã làm vơi hẳn đi nỗi bi thương khi nói về cái

chết của người lính – sự hy sinh của họ chỉ là sự trở về với đất mẹ thiêng liêng. Người lính
chết mà khơng mất bởi linh hồn anh đã hóa thân vào sơng núi quê hương, bất tử cùng đất
nước và viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đây là cái chết có ý nghĩa gieo mầm
cho sự sống như Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi:
Nước chúng ta nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Hay:
Sống trong cát chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời
(Hoàng Trung Thơng)
+ Hình ảnh áo bào thay chiếu bắt nguồn từ sự ra đi trong thiếu thốn – sự thật của chiến
tranh vệ quốc như nhà thơ Hoàng Lộc từng viết: Ở đây không gỗ ván / Vùi anh trong tấm
chăn. Chiếc áo lính đơn sơ, giản dị đã được tác giả hình dung như một tấm áo bào uy nghi,
lẫm liệt của những chiến tướng ngày xưa để tô đậm sự sang trọng của nghi thức tiễn đưa
đồng đội.
- Người lính hy sinh trong âm vang trầm hùng của dịng sông Mã: Sông Mã gầm lên khúc
độc hành.
+ Động từ gầm: gợi cảm nhận về một âm thanh dữ dội – vừa chất chứa nỗi đau vô cùng,
vừa ẩn chứa sức mạnh vô biên.
+ Khúc độc hành: là khúc tráng ca tiễn đưa người lính trở về lịng đất mẹ.
→ Nghi thức cuối cùng này vừa thể hiện tình cảm đau thương vơ hạn vừa thể hiện sự trang
trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội.
* Tinh thần xả thân, lý tưởng sống cao đẹp chính là vẻ đẹp lãng mạn, nhất là đã làm
nên hình tượng người lính bình thường mà phi thường, hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa.
Chương khúc số 4 của nỗi nhớ: Tinh thần Tây Tiến.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm vị chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi



- Bốn dòng cuối là lời thề chiến đấu thiêng liêng của người lính Tây Tiến: ra đi theo tiếng
gọi của non sông nên họ không nghĩ tới ngày trở lại – khơng hẹn ước. Bước chân người
lính mạnh mẽ, quả quyết trên con đường chiến đấu như không vấn vương chút tình riêng.
Người ra đi đầu khơng nghoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
(Đất nước- Nguyễn Đình Thi)
- Đoàn quân Tây Tiến quyết tâm hoàn thành sứ mệnh mà Tổ quốc giao phó. Tâm hồn các
anh đang sống và cả những người đã hi sinh đều thuộc về dải biên cương này của đất nước.
Họ sẽ không rời đội ngũ, khơng về lại q hương, gia đình chừng nào đất nước chưa sạch
bóng quân thù.
IV. TỔNG KẾT
- Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Bài thơ mang cảm hứng hiện thực và lãng mạn, khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của một thế hệ
thanh niên Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử vinh quang của dân tộc.



×