Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Ths luat học thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.99 KB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật là một công cụ sắc bén trong quản lý xã hội, song pháp luật
chỉ có thể phát huy được vai trị và những giá trị của mình trong việc duy trì
trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tơn trọng và thực
hiện trong cuộc sống. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam, yêu cầu về thực thi pháp luật đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa”, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Vì vậy, việc thực hiện pháp luật là yêu cầu tất yếu đối với mọi hoạt động của
các cá nhân, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội, góp phần ổn định đời sống chính trị xã hội của một quốc gia.
Trong hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động Thi hành án dân sự nói
riêng, yêu cầu thực hiện pháp luật lại càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật trong đời sống xã hội, đảm bảo thực thi các
Bản án, quyết định có hiệu lực của Tồ án trên thực tế, góp phần bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Chính
vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định:“Các bản án và quyết định của Toà
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi nhân dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Thực hiện quy định này của Hiến pháp 1992, cho đến nay công tác Thi
hành án dân sự đã thu được nhiều kết quả quan trọng như: về mặt thể chế, đã
ban hành được ba Pháp lệnh chuyên ngành về Thi hành án dân sự là Pháp



2
lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993,
Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 và nhiều văn bản trực tiếp hướng dẫn
hoặc có liên quan đến cơng tác Thi hành án dân sự. Đặc biệt, với việc ban
hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là dấu mốc quan trọng trong việc tiếp
tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác Thi hành án
dân sự, hồn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án, củng cố kiện
toàn cơ quan thi hành án, tạo chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực quan trọng
này. Tuy nhiên, thực tiễn sau hơn 02 năm thi hành Luật Thi hành án dân sự,
công tác thi hành án dân sự cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập cả về thể
chế và thực tiễn thi hành. Do đó, nghiên cứu thực trạng tình hình và tìm ra
phương hướng giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay là u cầu khách quan, góp phần hồn thiện pháp luật Thi
hành án dân sự và nâng cao hiệu quả công tác Thi hành án dân sự.
Ở tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở pháp luật về Thi hành án dân sự của Nhà
nước ban hành, chính quyền các cấp ở tỉnh đã ban hành các văn bản và thực
hiện pháp luật về Thi hành án dân sự. Nhìn chung, trong những năm qua,
công tác Thi hành án dân sự của Bắc Ninh đã đạt được kết quả đáng ghi nhận,
lượng án toàn tỉnh phải thụ lý thi hành ngày càng tăng, lượng tiền phải thi
hành ngày càng lớn. Nhiều vụ việc có tính chất khó khăn, phức tạp, tồn đọng
lâu năm ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an tồn xã hội cũng đã được chính
quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, được tổ chức thi hành dứt điểm. Song bên
cạnh những kết quả đạt được, thực tế hoạt động Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc
Ninh cũng như nhiều tỉnh trên cả nước vẫn còn nhiều bức xúc, bộc lộ nhiều
tồn tại, yếu kém chưa đáp ứng được u cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Vẫn cịn những Bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật, nhưng
không được tổ chức thi hành dứt điểm làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Những khó khăn, tồn tại trong Thi hành án dân sự trong thời gian qua do



3
nhiều nguyên nhân khác nhau như hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật
về Thi hành án dân sự nói riêng cịn thiếu, chưa đồng bộ, Luật thi hành án dân
sự 2008 ra đời bên cạnh những ưu điểm, cũng đã bộc lộ khá nhiều điểm bất
cập, các văn bản hướng dẫn còn chậm ban hành làm ảnh hưởng không nhỏ
đến kết quả thi hành án. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án còn
nhiều bất cập, phụ thuộc quá nhiều vào các cơ quan Nhà nước có liên quan
làm cho cơ quan thi hành án có lúc cịn thụ động, thiếu tính chủ động. Một số
vụ việc phải thi hành liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành, nhiều địa phương
và có những biểu hiện can thiệp, thiếu tôn trọng đối với các quyết định của cơ
quan thi hành án; chế độ đối với công chức làm công tác thi hành án chưa kịp
thời, chưa phù hợp với đặc thù công việc nên số lượng và chất lượng đội ngũ
cán bộ cơng chức cịn hạn chế không an tâm công tác dẫn tới hiệu quả công
tác thi hành án và chất lượng chưa thực sự cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài: “Thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh” làm luận
văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật có ý nghĩa
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói
riêng, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Thi hành
án dân sự nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tháng 7/1993, Thi hành án dân sự do Tòa án các cấp đảm nhiệm,
tuy nhiên, nhiệm vụ chính của Tịa án là xét xử, vì vậy, Thi hành án dân sự là
việc làm “kiêm nhiệm” của Tịa án, nên cơng tác này chưa thực sự được quan
tâm nghiên cứu, ít các cơng trình nghiên cứu hay các bài viết nghiên cứu của
các nhà khoa học đề cập tới Thi hành án dân sự. Từ khi Thi hành án dân sự
được chuyển sang Chính phủ thống nhất quản lý và dưới ánh sáng đường lối,
chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong những năm qua, vấn đề thi
hành án đã được đặt ra và triển khai nghiên cứu ở mức độ nhất định. Cho đến



4
nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật nói chung được
thể hiện ở nhiều tên gọi khác nhau như: đề tài, luận văn, đề án, giáo trình…
Trong đó là các giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của các
học viện và các trường đại học ở nước ta; các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
của các cá nhân, tập thể được cơng bố có liên quan đến đề tài, bao gồm:
* Nghiên cứu thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực cụ thể có các
đề tài:
- "Thực hiện pháp luật hồ giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Thuận
hiện nay - thực trạng và giải pháp" của tác giả Lê Trung Quân (Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004);
- "Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện
nay" của tác giả Võ Thành Long (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Tiến Long (Luận
văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố
Thanh Hóa” của tác giả Phạm Thị Việt Nga (Luận văn thạc sĩ luật học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008);...
* Nghiên cứu về Thi hành án dân sự đã có một số đề tài:
- "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
ở Việt Nam trong giai đoạn mới", đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do
Bộ Tư pháp chủ trì;
- "Mơ hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ do Cục Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì
thực hiện;
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các tiêu chuẩn chức

danh tư pháp”, Đề tài khoa học cấp bộ năm 2005 do Tiến sĩ Dương Thanh
Mai làm chủ nhiệm;


5
- "Đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự ở Việt Nam" của
tác giả Nguyễn Quang Thái (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003);
- "Các biện pháp cưỡng chế Thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn
Công Long (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội);
- "Hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001);
- "Một số vấn đề về tổ chức và Thi hành án dân sự Việt Nam" của tác
giả Trần Văn Quảng (Luận văn thạc sỹ luật học, 1997)
- "Xã hội hóa một số nội dung Thi hành án dân sự" của tác giả Lê Xuân
Hồng (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002);
- "Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong Thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa (Luận văn thạc
sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005);
- "Giám sát Thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng
Thế Anh (Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2005);
- “Thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa” của
tác giả Đỗ Thành Nam (Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007).
Nhìn chung, các cơng trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm
sáng tỏ được một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực trạng thực
hiện pháp luật, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện
pháp luật, đề ra các giải pháp thực


hiện pháp luật về Thi hành án dân sự tại

một địa phương cụ thể là tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù vậy, các công trình nghiên
cứu khoa học đã được cơng bố trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị
để tác giả nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Thực hiện pháp luật về Thi hành


6
án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh” nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp bách của thực tiễn
công tác Thi hành án dân sự địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về Thi hành án dân sự, thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự,
đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh,
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác này, trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao việc thực hiện pháp luật Thi hành
án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của Luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về Thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật
Thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng, đặc thù thực hiện pháp luật về Thi
hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay; chỉ rõ những nguyên nhân của
những thành tựu và hạn chế, yếu kém.
- Xác định các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
hiện pháp luật Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thi hành án dân sự là một lĩnh vực tương đối rộng, được nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. Trong khn khổ của luận văn thạc sỹ, tác giả tập
trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc
Ninh, nêu ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn dưới
góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật; nghiên cứu hệ thống các văn


7
bản quy phạm pháp luật và hoạt động Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh từ
2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về thực hiện pháp luật, công tác Thi hành án dân sự và chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, các quan điểm chỉ đạo của cơ quan tư pháp tỉnh Bắc Ninh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương
pháp như: lịch sử, cụ thể, logic, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra
xã hội học và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, tồn diện, có hệ thống về cơ
sở lý luận Thi hành án dân sự, thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự ở
tỉnh Bắc Ninh, vì vậy, có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp
mới về khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Thi hành án dân sự, thực hiện
pháp luật Thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung tỉnh Bắc Ninh nói riêng;

- Phân tích những yếu tố, điều kiện có ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện pháp luật Thi hành án dân sự;
- Xác lập các quan điểm và đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm
đảm bảo thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Ninh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự
ở tỉnh Bắc Ninh, những kết quả đạt được và những khó khăn, hạn chế, bất
cập, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn thực


8
hiện pháp luật Thi hành án dân sự, từ đó nâng cao nhận thức của xã hội đối
với công tác Thi hành án dân sự.
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và ý nghĩa thực hiện pháp luật về
thi hành án, trong đó, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực
hiện pháp luật Thi hành án dân sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật và ý thức
chấp hành pháp luật của của các tổ chức, công dân đối với công tác Thi hành
án dân sự.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy, chính quyền địa
phương của tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo tham gia, phối hợp trong công tác thi hành án dân sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật thi hành án dân sự
* Khái niệm Thi hành án dân sự
Nhằm bảo đảm hiệu lực Bản án, quyết định của Tòa án được thực thi
trên thực tế là yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động Nhà nước, là
nguyên tắc Hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động THADS ở nước
ta. Quá trình hoạt động THADS ở nước ta đã trải qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau, cho nên quan niệm về THADS cũng có những quan điểm khác nhau.
Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có quan điểm thống nhất về THADS. Có ý
kiến cho rằng, THADS là một giai đoạn của quá trình tố tụng (Điều tra - Truy
tố - Xét xử - Thi hành án) nhưng cũng lại có ý kiến cho rằng THADS là một
hoạt động Hành chính - Tư pháp.
Về quan điểm coi THADS là một giai đoạn tố tụng thì lập luận: Thi
hành án nói chung (THADS, THA hình sự) là một khâu kế tiếp của quá trình
tố tụng dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, lao động hoặc là khâu kế tiếp của
việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài hoặc quyết định của trong tài nước ngồi. Bởi vì, giai đoạn
tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn giai đoạn
THA là giai đoạn sau khi kết thúc xét xử hay còn gọi là giai đoạn hậu của giai
đoạn xét xử (công việc THADS là thực thi các phán quyết của Tồ án trên
thực tế). Chính vì vậy, THA được hiểu là giai đoạn kết thúc của quá trình tố
tụng, là khâu cuối cùng kết thúc giải quyết một vụ án đã được xét xử.
Về quan điểm coi THADS là hoạt động hành chính - Tư pháp thì cho
rằng hoạt THADS là dạng hoạt động Hành chính - tư pháp, vừa mang tính


10
chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố của hoạt động tư pháp,

được thể hiện bởi những trưng sau:
Thứ nhất, THADS là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối
quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Giai đoạn
THADS có thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc như việc
thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130 Luật
THADS) hoặc những Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi
hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: như Bản án, quyết định
về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức
lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh
thần, nhận người lao động trở lại làm việc (khoản 2, Điều 2, Luật THADS).
Ngay cả khi việc xét xử chấm dứt, Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS vẫn tồn tại. Như
việc cơ quan THADS u cầu Tịa án giải thích những điểm chưa rõ hoặc kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại Bản án, quyết định khi phát hiện có
sai lầm hoặc án tun khơng khả thi, khơng thể thi hành được (khoản 2, 3,
Điều 179 Luật THADS). Chánh án Tịa án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân có thẩm quyền yêu cầu cơ quan THADS hoãn THA (điểm d, khoản 1,
Điều 48 Luật THADS); tạm đình chỉ THADS để xem xét lại bản án theo trình
tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hoặc Tịa án thơng báo về việc thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải THA (khoản 1, 2 Điều 49 Luật
THADS). Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả
các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Các cơ
quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ
chấp hành và phối hợp thực hiện. Tính chấp hành trong THADS phản ánh một
đặc trưng chứng tỏ nó khơng đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý.
Về mặt hình thức, bên cạnh các chủ thể là Tịa án, Viện kiểm sát, chúng ta
có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn THADS đông đảo và đa dạng hơn


11

so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ: tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân cấp xã
(nơi người phải THA cư trú), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; cơ quan, tổ
chức nơi người phải THA làm việc; ngân hàng, tổ chức tín dụng nơi người phải
THA mở tài khoản, giao dịch... Các chủ thể này có đặc điểm khác với các chủ
thể trong giai đoạn tố tụng trước đó về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn trong
quá trình phối hợp tác nghiệp với cơ quan thi hành án.
Thứ hai, bản chất của THADS là dạng hoạt động chấp hành nhưng là
chấp hành các phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp
khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong Bản án, quyết
định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối
cùng của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong
Bản án, quyết định được thực thi trên thực tế, không phải là ra văn bản áp
dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt
động hành chính.
Thứ ba, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân sẽ không thực hiện chức năng
kiểm sát chung như trước đây, nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát
đối với hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Bởi
vậy, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật THADS có nhiều điều,
khoản qui định về kiểm sát THA; trong thực tế Viện kiểm sát nhân dân các
cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về THADS, tuy
nhiên tính chất của kháng nghị trong giai đoạn THADS có nhiều điểm khơng
giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này cho thấy rõ mối quan
hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan THADS,
giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về THADS, giữa quan hệ pháp
luật tố tụng với quan hệ pháp luật về THADS.
Thứ tư các trình tự, thủ tục THADS cũng được quy định chặt chẽ bởi
pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến



12
quyền con người, quyền công dân. Yêu cầu của pháp luật đặt ra đối với CHV
trong việc thực hiện các trình tự, thủ tục THADS cũng khơng thấp hơn u
cầu của những người tham gia tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và
tuân theo pháp luật để bảo đảm hiệu lực Bản án, quyết định của Tòa án phải
được thực thi nghiêm minh; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì
giá trị sự thật mà Bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ khơng cịn
ngun nghĩa của nó.
Thứ năm, giữa THADS và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan
hệ nhân quả với nhau. Trong lĩnh vực hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ
quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện
pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn
THADS, cơ quan THADS sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu,
tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng vụ việc tồn đọng không thể thi hành được.
Trong giai đoạn xét xử, nếu một Bản án, quyết định được Tòa án tun
một cách cơng bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ,
đồng tình thì việc THADS sẽ nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu BA, QĐ
của Tịa án được tun khơng khách quan, tồn diện và cơng bằng, thiếu tính
khả thi sẽ gây cản trở khó khăn cho việc THADS. Việc tổ chức THADS
nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử,
củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.
Với hai quan niệm trên, mỗi quan điểm đều đưa ra những luận điểm
riêng của mình và ở chừng mực nhất định đều có tính hợp lý lơ gíc của nó.
Tuy nhiên, mỗi quan điểm đều có những vấn đề chưa thể lý giải một cách thuyết
phục cặn kẽ. Bởi lẽ, những người theo quan điểm cho rằng THADS là hoạt động
tư pháp lại khơng lý giải được: Cơ quan THADS có phải là cơ quan tiến hành tố
tụng hay Chấp hành viên có phải là người tiến hành tố tụng hay không? Thực tế,
chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cơ quan THADS là cơ quan
tiến hành tố tụng và CHV là những người tiến hành tố tụng và cũng chưa lột tả



13
được bản chất của vấn đề đó là THADS thuộc lập pháp, hành pháp hay tư pháp.
Ngay từ điển Luật học cũng chỉ giải thích: Tố tụng dân sự là trình tự hoạt động
do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và THADS.
Trong khi đó, xác định rõ tính chất của hoạt động THADS là Hành chính - Tư
pháp hay Tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối với xác định cơ chế quản lý, mơ
hình tổ chức cơ quan THADS và trình tự thủ tục THADS...
Ngược lại, những người có quan niệm THADS là hoạt động Hành
chính - tư pháp thì hoạt động THADS có cả hai dấu hiệu hành chính và tư
pháp, điều này dễ dẫn đến sự nhìn nhận không đầy đủ bản chất, đặc trưng của
hoạt động hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Bởi vì, đặc trưng chủ yếu của
hoạt động hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết sách đưa
ra dựa trên cơ sở mệnh lệnh, phục tùng, cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ
thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Hoạt động của
các cơ quan hành chính phần lớn xoay quanh người đứng đầu là thủ trưởng cơ
quan. Các hoạt động của công chức hành chính chỉ mang tính chất tư vấn,
phục vụ cho việc đưa ra các quyết định của thủ trưởng cơ quan. Trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan hành chính cấp trên có thể u
cầu cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp tạm dừng, thậm chí khơng được
ban hành hay thực hiện quyết định hành chính nào đó. Đặc điểm cơ bản của
quản lý hành chính Nhà nước là “ manh tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức
rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước”. Vì vậy, nếu coi hoạt
động THADS mang tính chất hành chính hoặc hành chính - tư pháp, dễ dẫn
đến hoạt động THADS bị hành chính hố. Trong khi đó, nguyên tắc cơ bản là
các BA, quyết định của Tồ án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Như vậy, quy định trên có thể phá vỡ sự chi phối, can thiệp
bởi các nguyên tắc mệnh lệnh, phục tùng trong hành chính.



14
Từ những phân tích trên đây, cho thấy cần phải xem xét THADS như là
một hiện tượng phức tạp, có tính đặc thù, khơng nên xem như một dạng hoạt
động hành chính hoặc hoạt động tư pháp đơn thuần. Vì thế, chúng tơi đồng
tình với quan điểm thứ hai cho rằng THADS là dạng hoạt động hành chính tư pháp, vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố
của hoạt động tư pháp.
Như vậy, có thể quan niệm: Thi hành án dân sự là hoạt động hành
chính - tư pháp, qua đó bản án, quyết định về dân sự, hơn nhân gia đình, lao
động, kinh tế và các quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự
và các quyết định khác được thi hành theo quy định của Pháp luật.
* Đặc điểm về pháp luật thi hành án dân sự
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với mục đích xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân, pháp luật thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động, dưới sự lãnh của
Đảng, do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi người tôn trọng thực hiện.
Trong hoạt động THADS, pháp luật THADS có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo thi hành các Bản án, quyết định của Tòa án. Đánh
giá lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật THADS cho thấy pháp luật
THADS đã có những bước hồn thiện trong từng giai đoạn nhất định. Hệ
thống văn bản pháp luật về THADS hiện hành đã tạo cơ sở cho việc xây dựng
cơ chế quản lý thống nhất về THADS, hệ thống cơ quan quản lý THADS. Cơ
quan THADS độc lập với cơ quan xét xử để có điều kiện tập trung cho việc
thi hành các Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự, thủ tục
THADS; các quyết định của Trọng tài thương mại; các quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ
ngày có hiệu lực pháp luật đương sự khơng tự nguyện thi hành, khơng khởi
kiện tại Tồ án…



15
Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về THADS
có thể phân chia theo các nhóm quan hệ sau:
Thứ nhất, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung. Nhóm này phản ánh
những quan hệ về nội dung việc thi hành và chấp hành các Bản án, quyết định
của Tòa án ngay sau khi Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các phán
quyết của Tòa án về dân sự là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ THA của
các cơ quan THADS cũng như quyền, nghĩa vụ dân sự mà người được THA,
người phải THA, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc THADS có
trách nhiệm chấp hành.
Từ những quan hệ chủ yếu này, sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ khác
trong quá trình THA nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm chỉnh quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thực thi các Bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án. Mặt khác, trong quá trình THADS, có thể xảy ra những sự
kiện Bản án, quyết định làm xuất hiện những mối quan hệ mới như Bản án,
quyết định dân sự có hiệu lực bị kháng nghị, bị huỷ bỏ hay thay đổi nội dung
sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, thậm chí theo hướng ngược
lại... Trong nhóm quan hệ mang tính nội dung, cịn có thể xuất hiện mối quan
hệ giữa cơ quan THADS với các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc THADS. Tóm lại, các mối quan hệ này phản ánh nội dung
THADS, xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành và
chấp hành Bản án, quyết định của Tòa án về dân sự.
Thứ hai, nhóm quan hệ mang tính tổ chức - quản lý. Các quan hệ này
liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy
chế hoạt động của cơ quan THADS. Những mối quan hệ này được thể hiện
cụ thể như: Mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về THADS với cơ
quan THADS; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan
THADS; giữa cơ quan THADS cấp trên và cơ quan THADS cấp dưới về

mặt tổ chức... Trong thực tiễn, việc xử lý các mối quan hệ này thường rất


16
phức tạp, có nhiều vướng mắc, bất cập. Do đó, nếu quy định đúng đắn các
mối quan hệ trong quá trình tổ chức và quản lý THADS, xác định cơ chế quản
lý, mơ hình tổ chức và hoạt động THADS phù hợp sẽ góp phần tăng cường và
nâng cao hiệu quả hoạt động của THADS.
Thứ ba, nhóm quan hệ mang tính chất trình tự, thủ tục THADS. Một
trong những đặc trưng cơ bản của THADS là được tiến hành theo một trình
tự, thủ tục chặt chẽ mang tính hành chính - tư pháp, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật về THADS và một số các quy định của pháp luật tố tụng. Chính vì
vậy, trình tự, thủ tục THADS làm xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ giữa
các chủ thể trong quá trình THADS, cụ thể:
- Những quan hệ phát sinh từ thủ tục tố tụng (giai đoạn xét xử) sang thủ
tục THADS, chủ yếu là việc chuyển giao BA, QĐ đã có hiệu lực của Tịa án;
tiếp đó là trình tự, thủ tục THADS như: thụ lý THA, ra quyết định THA, tự
nguyện thỏa thuận THA, thông báo THA và các biện pháp bảo đảm... Đặc
biệt, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế như: khấu trừ tiền trong tài khoản;
thu hồi xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải THA; trừ vào thu nhập của
người phải THA; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài
sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án;
buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải
thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định .
- Các mối quan hệ khác phát sinh làm gián đoạn việc THADS như việc
hỗn, tạm đình chỉ và trả lại đơn yêu cầu THA.
- Các mối quan hệ phát sinh liên quan đến thủ tục khiếu nại, tố cáo của
các chủ thể trong q trình THA.
Để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội trên, Nhà nước phải ban hành
các quy định pháp luật. Những quy phạm pháp luật này gọi là quy phạm pháp

luật về THADS. Tổng hợp các quy phạm pháp luật nói trên tạo thành pháp
luật về THADS.


17
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
- Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự:
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân; pháp luật ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
nghĩa là bằng pháp luật để duy trì các trật tự, củng cố và phát triển các quan
hệ xã hội theo những định hướng của Nhà nước. Điều này được biểu hiện
thông qua những mệnh lệnh, pháp luật được thực hiện trong đời sống xã hội,
thể hiện bằng hành vi thực tế, hợp pháp của các tổ chức, các cơ quan, cá nhân
và những người có chức vụ, quyền hạn.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự
và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tơn trọng và thực hiện trong
cuộc sống. Nhà nước pháp quyền Việt Nam, yêu cầu về thực thi pháp luật đã
được ghi nhận trong Hiến pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động vi
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công
dân đều bị xử lý theo pháp luật [36]. Chính vì vậy, thực hiện pháp luật là một
yêu cầu đòi hỏi tất yếu khách quan của cơ quan quản lý Nhà nước, tăng cường
pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ởViệt Nam.
Quan điểm về thực hiện pháp luật, hiện nay có nhiều nhiều cách định
nghĩa khác nhau. Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật (nay là Viện Nhà

nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh) thực hiện pháp luật được hiểu là “quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ


18
sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [27]. Theo giáo
trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc
gia “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của
pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [28]. Theo
giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội
“Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích nhằm hiện thực
hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật ” [53, tr.468].
Tất cả các định nghĩa trên có quan niệm tương đối đồng nhất về những
nội dung cơ bản, đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm
thực hiện những yêu cầu của pháp luật; thực hiện pháp luật là hoạt động thực
tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật
trở thành hiện thực trong cuộc sống. Về cơ bản, chúng tơi đồng tình với các
khái niệm về thực hiện pháp luật nêu trên và cho rằng: Thực hiện pháp luật là
q trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật được
thực hiện trong thực tế cuộc sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp
pháp của các chủ thể pháp luật.
Trên cơ sở khái niệm chung về thực hiện pháp luật, thì thực hiện pháp
luật THADS là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội mà cụ thể, đó
là THADS. Q trình tổ chức THADS là q trình nhằm bảo đảm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, các trật tự xã hội được
duy trì. Thơng qua THADS, Bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực trên
thực tế, cơng lý mới được thực hiện. Thực tế cho thấy, khi xét xử, dù Bản án,
quyết định của Tịa án có nghiêm đến mấy đi chăng nữa, mới chỉ là trên giấy.

Trong khi đó thơng qua hoạt động thi hành án, các Bản án, quyết định của Tòa
án mới được thực thi trên thực tế. Trong quá trình thực thi, THADS còn kiểm
nghiệm thực tiễn đối với những phán quyết của Tòa án, phản ánh trung thực
chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Từ việc thực hiện pháp luật


19
THADS, là những kiểm nghiệm để cán bộ ngành Tòa án có thể rút ra cho
mình những bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.
THADS là một lĩnh vực cụ thể, vì vậy, thực hiện pháp luật về THADS cũng
có đầy đủ các nội dung cơ bản của khái niệm thực hiện pháp luật nói chung,
đồng thời cũng có những mục tiêu, yêu cầu, nội dung cụ thể.
Do đó, có thể nêu khái niệm thực hiện pháp luật về THADS như sau:
Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là quá trình hoạt động có mục đích
để làm cho các quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự được thực hiện
trong thực tế cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, những hoạt động thực
tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật về thi hành án, nhằm phát huy hiệu lực
của các Bản án, quyết định của Tồ án, đảm bảo các Bản án, quyết định được
tơn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
- Đặc điểm thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự.
* Thực hiện pháp luật về THADS là hoạt động đặc thù vừa mang tính
hành chính, vừa mang tính tố tụng.
Tính chất hành chính trong thực hiện pháp luật về THADS thể hiện qua
các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà
nước về THADS và Cơ quan THADS; mối quan hệ phối hợp của các cơ quan,
tổ chức có liên quan với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức THADS;
nhiệm vụ, quyền hạn của CHV... Tính chất tố tụng thể hiện trong việc thực
hiện các quy định về trình tự, thủ tục THADS như các quy định về u cầu
THA, hỗn THA, tạm đình chỉ THA, đình chỉ THA, cưỡng chế THA, kháng
nghị về THA...

Xuất phát từ đặc thù này, hoạt động THADS là nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp Nhà nước, lợi ích tập thể và của cơng dân, giữ gìn nghiêm kỷ
cương pháp luật của Nhà nước, hoạt động THADS không chỉ là hoạt động
chuyên môn thuần tuý của cơ quan THADS, CHV mà còn là trách nhiệm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền và tồn xã hội. Đó cịn là sự kết hợp chặt chẽ


20
giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của cơ quan THADS, CHV và sự
chỉ đạo sát sao, kịp thời của UBND các cấp, sự phối hợp của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức có liên quan, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách
nhiệm của cộng đồng trong THADS.
* Thực hiện pháp luật về THADS nhằm đảm bảo tính độc lập và đề cao
tính chủ động của cơ quan THADS và Chấp hành viên.
Hoạt động THADS, tính độc lập của cơ quan THADS và CHV được
hiểu là người được Nhà nước giao trọng trách, nhiệm vụ thi hành các Bản án,
quyết định của Tòa án, khi thực thi nhiệm vụ, CHV chỉ tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 11 Luật
THADS quy định cụ thể như sau:
“Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ
chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự
trong việc thi hành án; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách
nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan THADS, CHV theo quy định của Luật
này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ
quan THADS, CHV đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”.
Tính chủ động của CHV được đề cao trong quá trình tổ chức thi hành vụ
việc THA. CHV căn cứ vào các quy định của pháp luật về THADS, nội dung vụ
việc cần giải quyết để lựa chọn áp dụng các quy định biện pháp thi hành phù
hợp. Đó là các biện pháp như bảo đảm (phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản,
giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản) và các

biện pháp cưỡng chế (khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ
có giá của người phải THA; trừ vào thu nhập của người phải THA; kê biên, xử
lý tài sản của người phải THA, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác
tài sản của người phải THA; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản,
giấy tờ; buộc người phải THA thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định).


21
Nhiệm vụ, quyền hạn của CHV được quy định cụ thể tại Điều 20 Luật
THADS được khái quát như sau: Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân
công; ra các quyết định về THA theo thẩm quyền; Thi hành đúng nội dung bản
án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
THA, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp CHV; Xác minh tài sản, điều kiện THA của người phải THA;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa
chỉ, tài sản của người phải THA hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý
vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến THA; quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm THA, biện pháp cưỡng chế THA; lập kế hoạch cưỡng chế
THA; thu giữ tài sản THA; yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối
việc THA theo quy định của pháp luật; Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp
luật về THA; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
Các nhiệm vụ, quyền hạn trên là cơ sở pháp lý để CHV độc lập, tự chủ,
chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc THA và được
pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín trong khi
thi hành cơng vụ.
* Thực hiện pháp luật về THADS là đảm bảo tôn trọng quyền tự định

đoạt của các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Quá trình THADS chủ yếu là việc thi hành các quyết định của Tòa án
mang tính chất tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt
của đương sự ln được tơn trọng trong suốt q trình THA. Điều này thể hiện
trong Luật THADS; “Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu
thoả thuận đó khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội. Kết quả thi hành án thoả thuận được công nhận” (khoản 1 Điều 6 Luật


22
THADS). Người được THA ln giữ vai trị chủ động, họ có quyền quyết định
việc có đưa ra yêu cầu THA hay không? Đưa ra vào thời điểm nào (miễn là đề
nghị THA còn trong thời hiệu quy định THA), có u cầu THA một phần hay
tồn bộ quyết định của BA, quyết định của Tòa án.
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự,
CHV có thể lựa chọn biện pháp thích hợp để việc THA được nhanh chóng, đạt
hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự. Hịa giải khuyến khích các
đương sự tự nguyện THADS. Trong những trường hợp này, việc THA không
nhất thiết phải theo đúng như nội dung quyết định của Bản án mà Tòa án đã
tuyên, miễn là thoả thuận đó khơng vi phạm điều cấm và khơng được trái đạo
đức xã hội. Do đó, sự kết hợp giữa việc tôn trọng quyền tự định đoạt của
đương sự và sự chủ động của cơ quan THADS, CHV tạo nên cơ chế đặc thù
của THADS, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức trong
hoạt động THADS.
* Thực hiện pháp luật về THADS trên cơ sở các trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định.
Cơ quan THADS, thì CHV được Nhà nước giao trực tiếp thi hành các
BA, QĐ của Tòa án theo quy định tại Điều 35 Luật THADS. Tuy nhiên, cơ
quan THADS, CHV khơng được lạm dụng quyền lực trong q trình tổ chức
THA mà phải tuân thủ những nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp luật quy

định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Đồng thời, do cơ quan THADS là một bộ phận trong bộ máy nhà
nước nên quá trình tổ chức THA đều phải tuân theo nguyên tắc, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và điều đó chứng tỏ sự diễn biến
và phát triển của hoạt động THADS luôn chịu sự tác động, điều chỉnh trực
tiếp của pháp luật về THADS và rộng hơn là của cả hệ thống pháp luật. Chỉ
trên cơ sở đó mới có thể có được cơ chế hữu hiệu, bảo đảm thực thi các Bản
án, quyết định của Tòa án.


23
1.2. CÁC HÌNH THỨC, NỘI DUNG VÀ VAI TRỊ THỰC HIỆN VỀ PHÁP
LUẬT THỰC HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.2.1. Các hình thức thực hiện pháp luật thực hành án dân sự
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Do các quy phạm pháp luật THADS có số lượng tương đối lớn với nhiều nội
dung phong phú, vì thế, hình thức thực hiện pháp luật về THADS cũng rất đa
dạng. Căn cứ vào tính chất hoạt động, có thể xác định hoạt động thực hiện
pháp luật về THADS bao gồm bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục
đích chuyển tải các quy phạm pháp luật vào cuộc sống thực tiễn, đó là:
- Tuân thủ pháp luật về THADS
Tuân thủ pháp luật về THADS là một hình thức thực hiện pháp luật, theo
đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp
luật cấm. Trong lĩnh vực THADS, yêu cầu về tuân thủ pháp luật được coi là vấn
đề có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động THA, đòi hỏi các chủ thể liên quan
phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Ví dụ như: Thủ trưởng Cơ
quan THADS phải ra quyết định thi hành án theo các căn cứ pháp luật quy định
(ra quyết định thi hành án khi đơn yêu cầu, chủ động ra quyết định thi hành án );

CHV phải tuân thủ các thủ tục, quy định về trình tự áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án, cưỡng chế kê biên tài sản, tổ chức bán đấu giá tài sản; thứ tự thanh
toán tiền THA....
- Thi hành pháp luật về THADS
Thi hành (chấp hành) pháp luật về THADS là một hình thức thực hiện
pháp luật về THADS, theo đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm
pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: khoản 2 Điều 20 Luật
THADS qui định CHV phải thi hành đúng nội dung Bản án, quyết định của
Tòa án; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục THA;
thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp CHV.


24
Thi hành pháp luật THADS được thể hiện ở chỗ các chủ thể thi hành
pháp luật THADS thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích
cực, đó là sự chủ động tổ chức THA của cơ quan THADS. Sau khi Bản án,
quyết định có hiệu lực, cơ quan THADS sẽ căn cứ vào nội dung của Bản án,
quyết định (trường hợp cơ quan THADS chủ động THA), căn cứ vào đơn yêu
cầu THA và Bản án, quyết định (trường hợp THA theo đơn yêu cầu của người
được THA, người phải THA) để tổ chức THA. Cơ quan THADS có trách
nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của Bản án, quyết định; người được
THA, người phải THA, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc THA
phải nghiêm chỉnh chấp hành, các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng thực hiện. Ở đây tính chấp hành pháp luật là
yêu cầu nổi bật trong hoạt động THADS. Đồng thời, CHV là người chịu trách
nhiệm chính trong q trình tổ chức THA và phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật về THADS; phối hợp với các cơ quan liên quan để phối kết hợp giải
quyết việc THA, đặc biệt là trong nhiều trường hợp CHV còn chịu trách nhiệm
và điều hành cả các thành viên thuộc các cơ quan, tổ chức khác khi tham gia vào

quá trình THA (Ví dụ: CHV làm Chủ tịch Hội đồng tiêu hủy vật chứng...).
Thi hành pháp luật về THADS còn là việc chấp hành pháp luật về
THADS của người được THA, người phải THA, người có quyền, nghĩa vụ và
lợi ích liên quan thể hiện thơng qua như người được THA có quyền yêu cầu
THA đối với người phải THA thi hành nghĩa vụ trả tiền, tài sản, buộc thực
hiện công việc hay chấm rứt hành vi trái pháp luật... Người phải THA có
quyền được tự nguyện thi hành, được quyền khiếu nại các hành vi của CHV
hoặc các hành vi của các cá nhân cơ quan khác mà họ có căn cứ cho rằng các
hành vi đó là trái quy định pháp luật... Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc THA cũng có quyền đề nghị, chấp hành hay khiếu nại, tố cáo những
hành vi mà họ cho rằng nó xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ trong quá
trình cơ quan THA tổ chức THA.


25
Bên cạnh đó, tính chất của hoạt động THADS đều hướng đến việc thực
hiện các nghĩa vụ về tài sản, trực tiếp tác động đến tài sản của các đương sự,
vì vậy, pháp luật cịn quy định phạm vi các Bản án, quyết định mà CHV chịu
trách nhiệm tổ chức thi hành theo pháp luật. Cụ thể là theo quy định tại Điều
1, Điều 2 Luật THADS, cơ quan THADS, CHV chịu trách nhiệm thi hành
Bản án, quyết định dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; Bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Bản
án, quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi
bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong Bản án,
quyết định hình sự, phần tài sản trong Bản án, quyết định hành chính của Tịa
án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải
THA của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại; các Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…
- Sử dụng pháp luật về THADS

Sử dụng pháp luật về pháp luật THADS là một hình thức thực hiện
pháp luật về THADS, trong đó các chủ thể thực hiện các quyền về THADS để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức
tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể thực hiện hoặc không
thực hiện quyền được pháp luật THADS cho phép theo ý chí của mình, chứ
khơng bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: tại khoản 1 Điều 140 Luật THADS
quy định về quyền khiếu nại THA: "Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ
quan THADS, CHV nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Như vậy, pháp luật
cho phép các chủ thể pháp luật có quyền khiếu nại với các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật về THADS của thủ trưởng cơ
quan THADS, CHV nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó xâm phạm


×