Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Giáo trình Kiểm toán căn bản: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Phú Giang (Chủ biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.02 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

GIÁO TRÌNH 
KIỂM TỐN CĂN BẢN 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 
NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ 
HÀ NỘI, 2015 
1


2


LỜI NÓI ĐẦU 
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, hội nhập quốc tế về
kiểm toán đang là vấn đề được đặt ra ở Việt Nam. Kiểm toán căn bản là
học phần cung cấp các kiến thức cơ bản về các loại hình kiểm tốn, các
khái niệm cơ bản trong kiểm tốn, qui trình kiểm tốn, phương pháp
kiểm tốn và các loại báo cáo kiểm toán.
Các tài liệu học tập liên quan đến kiểm toán tại Trường Đại học
Thương mại hiện nay mới chỉ là các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Để
tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên và giảng viên trong quá trình học
tập và giảng dạy, được sự đồng ý của Ban Giám hiệu và Phịng Khoa
học đối ngoại, Bộ mơn Kiểm tốn đã biên soạn "Giáo trình Kiểm tốn
căn bản".
"Giáo trình Kiểm tốn căn bản" do PGS.TS. Nguyễn Phú Giang,
Phó Trưởng Khoa Kế tốn - Kiểm toán chủ biên, các thành viên tham gia
biên soạn bao gồm:
- TS. Nguyễn Viết Tiến, ThS. Nguyễn Thu Hoài: Biên soạn chương 1
- PGS.TS. Nguyễn Phú Giang: Biên soạn chương 2
- ThS. Lưu Thị Duyên, ThS. Đào Ngọc Hà: Biên soạn chương 3
- TS. Nguyễn Thị Hồng Lam và ThS. Vũ Thị Thu Huyền: Biên soạn
chương 4
- ThS. Trần Nguyễn Bích Hiền và ThS. Lại Thị Thu Thủy: Biên soạn

chương 5
"Giáo trình Kiểm tốn căn bản" được biên soạn dựa trên quan điểm
tiếp cận hệ thống chuẩn mực kiểm tốn quốc tế, chuẩn mực kiểm tốn
Việt Nam. Ngồi ra giáo trình cịn tn thủ nội dung của đề cương học
phần "Kiểm toán căn bản" mẫu số 4 do nhà trường qui định.
Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng, tuy
nhiên giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót. Tập thể tác giả mong
nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các nhà khoa học trong và ngoài
Trường Đại học Thương mại để lần tái bản sau giáo trình được hồn
thiện hơn.
TẬP THỂ TÁC GIẢ
3


CÁC TỪ VIẾT TẮT 

4

BCTC

Báo cáo tài chính

BGĐ

Ban Giám đốc

BCKT

Báo cáo kiểm tốn


DNKT

Doanh nghiệp kiểm toán

ĐTDH

Đầu tư dài hạn

KSNB

Kiểm soát nội bộ

KTNB

Kiểm toán nội bộ

KTV

Kiểm toán viên

NVCSH

Nguồn vốn chủ sở hữu

TSCĐ

Tài sản cố định

TSLĐ


Tài sản lưu động


CHƯƠNG 1 
TỔNG QUAN VỀ KIỂM TỐN 
Trong chương này, giáo trình phân tích, làm rõ khái niệm, chức
năng mục tiêu của kiểm toán. Phân loại kiểm toán theo chủ thể,
kiểm toán chia thành 3 loại: kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập
và kiểm toán Nhà nước; phân loại kiểm tốn theo mục đích,
kiểm tốn chia thành 3 loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán
tuân thủ và kiểm tốn báo cáo tài chính; q trình hình thành và
phát triển của kiểm toán.

1.1. Bản chất của kiểm toán
1.1.1. Khái niệm
Hoạt động kiểm toán ra đời là để kiểm tra và xác nhận về sự trung
thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và BCTC của các doanh
nghiệp, tổ chức; nhằm nâng cao sự tin tưởng của người sử dụng các
thông tin từ BCTC đã được kiểm tốn.
Kiểm tốn có gốc từ latin là "audit", ngun bản là "audire" có nghĩa
là "nghe" do hình ảnh của kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng
cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi
sau đó chấp nhận thơng qua việc chứng thực.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm toán, tuy nhiên
quan niệm về kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện nay là:
Kiểm toán là q trình các chun gia độc lập, có thẩm quyền và đạo
đức nghề nghiệp tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các
thông tin của một đơn vị, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ
phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập.
Các chuyên gia chính là các kiểm toán viên, những người nắm vững

luật pháp và chun mơn về kế tốn, kiểm tốn.
5


Theo VSA 200 "Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh
nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm tốn
Việt Nam":
Tính độc lập đảm bảo cho kiểm tốn viên khơng bị chi phối hoặc
ảnh hưởng bởi bất cứ yếu tố nào trong suốt quá trình kiểm toán từ khi lập
kế hoạch và thực hiện kiểm toán khiến cho kết quả kiểm toán bị sai lệch.
Biểu hiện của tính độc lập bao gồm độc lập về chuyên môn, độc lập
về kinh tế và độc lập về tình cảm.
Độc lập về chun mơn: Trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên
chỉ tn theo chuẩn mực chun mơn và luật pháp, không bị chi phối bởi
những tác động khác.
Độc lập về kinh tế: Kiểm tốn viên khơng được nhận làm kiểm tốn
cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như
góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông
chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia cơng, dịch vụ, đại
lý tiêu thụ hàng hố,...
Độc lập về tình cảm: Kiểm tốn viên khơng được nhận làm kiểm
tốn ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố,
mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột) với những người trong bộ máy
quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các trưởng, phó phịng và
những người tương đương) trong đơn vị được kiểm toán.
Tùy theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm tốn, mà mức độ
độc lập có thể được địi hỏi khác nhau. Tuy nhiên, yêu cầu về độc lập là
đòi hỏi thiết yếu, quan trọng đối với mọi kiểm toán viên và tổ chức kiểm
tốn. Tính độc lập chỉ là một khái niệm tương đối, nhưng nó phải là mục
tiêu hướng tới và phải đạt được ở mức độ nhất định. Nếu tính độc lập bị

vi phạm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng kiểm tốn, chính vì vậy, khi cuộc
kiểm tốn bị giới hạn bởi tính độc lập, kiểm tốn viên phải khắc phục và
nếu khơng loại trừ được, kiểm tốn viên phải giải trình và nêu sự ảnh
hưởng đến kết quả kiểm tốn trong báo cáo kiểm tốn.
Có thẩm quyền: Các kiểm tốn viên được phân cơng thực hiện cuộc
kiểm tốn mới là người có đủ thẩm quyền đối với đối tượng được kiểm
6


toán, để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đồng thời có quyền thể hiện ý
kiến của mình về sự phù hợp giữa các thông tin đã thu thập được với các
chuẩn mực đã được thiết lập. Và thẩm quyền này phải được quy định
trong các văn bản pháp lý liên quan đến cuộc kiểm toán.
Đạo đức nghề nghiệp: Theo VSQC1 - chuẩn mực kiểm soát chất
lượng số 01 "Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp thực hiện kiểm toán,
soát xét báo cáo tài chính, dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên quan
khác" Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quy định các
nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp, bao gồm:
(a) Tính chính trực;
(b) Tính khách quan;
(c) Năng lực chun mơn và tính thận trọng;
(d) Tính bảo mật;
(e) Tư cách nghề nghiệp
Các thơng tin của một đơn vị: Là những thơng tin có nguồn gốc rõ
ràng, tin cậy đã có sẵn nguồn bằng chứng cho kiểm tốn và có căn cứ
làm cơ sở cho việc đánh giá thơng tin. Thơng tin được kiểm tốn có thể
là những thơng tin được lượng hóa hoặc những thơng tin có thể so sánh,
đối chiếu hay kiểm tra lại được; có thể là thơng tin tài chính hoặc thơng
tin phi tài chính.
Các chuẩn mực đã được thiết lập: Các chuẩn mực là cơ sở, là thước

đo để đánh giá thơng tin trong q trình kiểm tốn. Có 2 loại chuẩn mực:
Các văn bản, các quy định có tính pháp lý và pháp quy của mọi
lĩnh vực.
Các quy định có tính chất nội bộ của từng đơn vị, loại này có tính
chủ quan cao nên kiểm tốn viên cần phải thẩm định lại tính hợp pháp
của các quy định nội bộ này.
Đơn vị được kiểm tốn: Đó chính là đối tượng được kiểm tốn, có
thể là một tổ chức pháp nhân (một doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc một đơn vị hành chính sự nghiệp…)
hoặc khơng có tư cách pháp nhân (một phân xưởng, tổ đội sản xuất…).
7


Khái niệm chung về kiểm tốn được tóm tắt bằng sơ đồ sau:
Các thơng tin
được kiểm tốn
Các kiểm tốn
viên độc lập,
có năng lực

Thu thập và
đánh giá các
bằng chứng

Báo cáo
kết quả

Các chuẩn
mực đã được
xây dựng

1.1.2. Chức năng của kiểm toán

Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản như sau:
Thứ nhất, chức năng kiểm tra và xác nhận hay còn gọi là chức
năng xác minh. Chức năng này đã tồn tại và gắn liền trong suốt q
trình lịch sử của kiểm tốn. Ban đầu, khi kiểm toán mới ra đời chức
năng này được thực hiện dưới dạng chứng thực BCTC, sau này chức
năng này được thể hiện cao hơn dưới dạng báo cáo kiểm tốn.
Thứ hai, ngồi chức năng xác minh thì kiểm tốn cịn có chức
năng tư vấn. Chức năng này ra đời sau chức năng kiểm tra, xác nhận
nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà quản lý. Thời kỳ đầu, chức năng
này được biểu hiện dưới dạng thư quản lý. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, chức năng này ngày càng đóng vai trị quan
trọng trong kiểm toán.
1.1.3. Mục tiêu kiểm toán

Tùy thuộc vào mỗi cuộc kiểm tốn có thể có các mục tiêu kiểm
tốn khác nhau, tuy nhiên, nhìn chung các cuộc kiểm tốn bao gồm
các mục tiêu sau:
Đảm bảo cho người sử dụng thông tin về mức độ trung thực, hợp
lý của thông tin tài chính; tính hiệu quả, hiệu suất của hoạt động; tính
tn thủ các văn bản pháp lý có liên quan.
Phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót giúp đơn vị phòng
8


ngừa sai phạm và thiệt hại có thể xảy ra trong hoạt động.
Phục vụ cho việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản khác của Nhà nước.


1.2. Phân loại kiểm toán
1.2.1. Phân loại theo mục đích của kiểm tốn
Căn cứ vào tiêu thức phân loại này, kiểm toán gồm: Kiểm toán hoạt
động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán BCTC.
1.2.1.1. Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm xem xét và đánh giá
tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động được kiểm toán
của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị.
Tính kinh tế: Biểu hiện của tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực
(hay còn được hiểu là nguyên tắc tối thiểu) nghĩa là có thể đạt được mục
tiêu đã xác định với lượng nguồn lực bỏ ra là thấp nhất.
Tính hiệu lực: Biểu hiện của tính hiệu lực là khả năng về mức độ
hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đã đặt ra của đơn vị.
Tính hiệu quả (hay còn gọi là nguyên tắc tối đa): Biểu hiện của tính
hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một đơn vị nguồn lực
có sẵn.
Có rất nhiều hoạt động của nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm
tra và theo dõi về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả nên đối tượng của kiểm
toán hoạt động rất đa dạng, phong phú. Đối tượng của kiểm tốn hoạt
động có thể là việc đánh giá một phương án kinh doanh, một dự án, một
quy trình cơng nghệ, một cơng trình xây dựng cơ bản, một loại tài sản,
thiết bị mới đưa vào hoạt động…
Mặt khác, việc xác định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của quá trình hoạt động rất khó, việc lượng
hóa các mặt trên thành các tiêu chuẩn đánh giá là việc mang nặng tính
chủ quan. Do vậy, việc đánh giá trong kiểm toán hoạt động cũng mang
tính chủ quan cao.
Trong kiểm tốn hoạt động, việc kiểm tra thường vượt khỏi phạm vi
9



cơng tác kế tốn, tài chính, địi hỏi kiểm tốn viên phải am hiểu nhiều
lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học, kỹ thuật…
Kiểm toán hoạt động sử dụng nhiều biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ và
phân tích, đánh giá khác nhau. Báo cáo kết quả kiểm toán thường là bản
giải trình, nhận xét, đánh giá, kết luận và ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
1.2.1.2. Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và đánh giá đơn
vị được kiểm toán trong việc tuân thủ pháp luật và các quy định mà đơn vị
phải thực hiện.
Nội dung của kiểm toán tuân thủ có thể bao gồm:
- Việc tuân thủ các quy định do các cơ quan Nhà nước đề ra:
+ Kiểm toán việc tuân thủ các luật thuế ở đơn vị: thuế GTGT, thuế
thu nhập doanh nghiệp…
+ Kiểm toán việc tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường, bảo vệ
người lao động…
- Việc tuân thủ những quy định do cơ quan quản lý cấp trên đề ra.
- Việc tuân thủ những quy định của cơ quan chuyên môn đề ra như:
+ Tuân thủ quy trình và thủ tục giải ngân của kho bạc Nhà nước
+ Tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng…
Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thơng tin ở loại kiểm tốn
này không phức tạp mà được xác định một cách dễ dàng gắn liền với các
quy tắc được kiểm toán.
Do loại kiểm toán này thường thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của
chính đơn vị, hoặc của cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm
toán tuân thủ nói chung được thơng báo cho người có trách nhiệm trong
đơn vị hoặc cơ quan quản lý cấp trên.
1.2.1.3. Kiểm toán BCTC
Kiểm toán BCTC là việc kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và
hợp lý của BCTC được kiểm toán.

Đối tượng của kiểm toán BCTC thường là các báo cáo tài chính và
10


báo cáo khác của đơn vị như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh BCTC của các đơn vị,
báo cáo quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành chính, sự nghiệp,
của các dự án đầu tư…
Các cơ sở sử dụng cho việc đánh giá thông tin thường là các chuẩn
mực kế toán, các quy định pháp lý về kế tốn và những quy định khác có
liên quan.
Trong nền kinh tế thị trường, BCTC của doanh nghiệp được nhiều
đối tượng quan tâm, vì thế báo cáo kiểm tốn thường được cơng khai
rộng rãi. Kiểm tốn BCTC là hình thức chủ yếu, phổ cập và quan trọng
nhất, thường chiếm 70 - 80% công việc của các doanh nghiệp kiểm toán.
1.2.2. Phân loại theo chủ thể kiểm toán
Căn cứ vào tiêu thức phân loại này, kiểm toán gồm: Kiểm toán độc
lập, kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước
1.2.2.1. Kiểm toán độc lập
Theo Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 đã nêu:
"Kiểm toán độc lập là việc các kiểm toán viên hành nghề và doanh
nghiệp kiểm toán kiểm tra và đưa ra ý kiến độc lập của mình về BCTC
và các cơng việc kiểm tốn khác theo u cầu của khách hàng".
Chức năng của kiểm toán độc lập chủ yếu là kiểm tốn BCTC, ngồi
ra cịn kiểm tốn tn thủ và kiểm toán hoạt động hoặc cung cấp các dịch
vụ tư vấn về thuế, kế tốn, tài chính. Kiểm tốn BCTC được thực hiện ở
mọi đơn vị, mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế.
Kiểm tốn độc lập hình thành như một doanh nghiệp với mục đích
kinh doanh, có thu phí kiểm tốn và hoạt động với mục tiêu lợi nhuận.
Các kiểm tốn viên của cơng ty là các KTV độc lập, hành nghề kiểm tốn

chun nghiệp và phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán.
Kiểm toán độc lập chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của khách hàng
và phải đảm bảo nguyên tắc: độc lập, khách quan, trung thực, bí mật. Kết
quả kiểm tốn khơng gắn với xử lý gian lận nhưng có tính pháp lý cao.
Hoạt động kiểm toán độc lập là nhu cầu cần thiết, trước hết vì lợi ích
11


của bản thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngồi nước, lợi
ích của chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích và yêu cầu của Nhà nước.
Người sử dụng kết quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những thông
tin họ được cung cấp là trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm
căn cứ cho các quyết định kinh tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý,
giám sát của mình.
1.2.2.2. Kiểm tốn Nhà nước
Kiểm tốn Nhà nước là cơng việc kiểm tốn được thực hiện bởi các
KTV làm việc trong cơ quan Kiểm toán Nhà nước, là tổ chức kiểm toán
chuyên nghiệp thuộc bộ máy hành chính nhà nước; là kiểm tốn theo luật
định và kiểm tốn tính tn thủ, chủ yếu phục vụ việc kiểm tra và giám
sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của
Nhà nước.
Kiểm tốn Nhà nước có chức năng cơ bản là kiểm tốn tn thủ,
ngồi ra kiểm tốn hoạt động và kiểm toán BCTC. Kiểm toán Nhà nước
được thực hiện ở các đơn vị sử dụng kinh phí, ngân sách Nhà nước.
Trong chương X, Hiến pháp năm 2013, quy định "Kiểm toán Nhà
nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài
sản cơng". Kiểm tốn viên của kiểm tốn Nhà nước được coi là các công
chức Nhà nước và không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề
kiểm tốn.

Kiểm tốn Nhà nước được thực hiện mang tính chất cưỡng chế, theo
yêu cầu quản lý của Nhà nước nên không thu phí kiểm tốn, khơng kinh
doanh. Kết quả kiểm tốn gắn liền với giải pháp cải tiến hoạt động và đề
xuất xử lý sai phạm ở đơn vị. Kiểm toán Nhà nước có tính pháp lý cao và
thường được thể hiện trong Hiến pháp.
1.2.2.3. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là cơng việc kiểm tốn do các KTV của đơn vị tiến
hành, thực chất: kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống
kế toán, hệ thống kiểm sốt nội bộ, chất lượng cơng việc.
Kiểm tốn nội bộ chủ yếu kiểm tốn hoạt động, ngồi ra kiểm tốn
12


tuân thủ và kiểm toán BCTC, được thực hiện trong nội bộ từng đơn vị
(có thể là đơn vị chính hoặc phụ thuộc).
Kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp cao nhất của đơn vị và độc lập với
các bộ phận khác; có thể thuộc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các
kiểm tốn viên là những người làm cơng ăn lương, khơng bắt buộc phải
có chứng chỉ hành nghề kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ được thực hiện dựa trên cơ sở yêu cầu quản lý của
chủ doanh nghiệp. Kết quả kiểm toán nội bộ gắn liền với các giải pháp
cải tiến hoạt động và đề xuất xử lý sai phạm, nhưng có tính pháp lý thấp
vì kiểm tốn nội bộ chỉ chịu trách nhiệm trước chủ doanh nghiệp.
1.2.3. Phân loại kiểm toán theo các tiêu thức khác
* Phân loại theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán thì
kiểm tốn gồm:
- Kiểm tốn bắt buộc: Các đơn vị được kiểm toán phải chịu sự kiểm
toán bắt buộc theo luật định. Kiểm toán theo luật định thường do các cơ
quan quản lý Nhà nước yêu cầu để phục vụ cho một mục đích nào đó
như doanh nghiệp có hiện tượng gian lận, trốn thuế, tham nhũng,...

- Kiểm toán tự nguyện: Là loại kiểm tốn khơng bắt buộc đối với
đơn vị được kiểm toán mà chỉ thực hiện khi đơn vị này có nhu cầu và tự
nguyện thực hiện. Cơng việc kiểm tốn do doanh nghiệp tiến hành dưới
các hình thức kiểm toán nội bộ hoặc mời Kiểm toán viên của các cơng ty
kiểm tốn tiến hành.
* Phân loại theo tính chu kỳ của kiểm tốn, thì kiểm tốn gồm:
Kiểm toán định kỳ, kiểm toán bất thường
* Phân loại theo phạm vi tiến hành thì kiểm tốn gồm: Kiểm tốn
tồn diện và kiểm tốn chun đề…

1.3. Q trình phát triển của kiểm toán
13


1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển kiểm tốn trên thế giới
Kiểm tốn đã có lịch sử phát triển lâu đời, với cách thức thực hiện sơ
khai là trong cuộc họp sẽ có một người đọc to các thơng tin mang tính
chất cơng khai.
Đến thời kỳ Trung cổ, hoạt động kiểm toán chủ yếu là kiểm toán
tuân thủ và do các kiểm toán viên Nhà nước thực hiện nhằm đánh giá
mức độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính. Sau này, khi thị trường
chứng khốn, các công ty cổ phần ra đời đã đặt ra một vấn đề mới cho
cơng tác quản lý đó là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và chức năng điều
hành, các doanh nghiệp cần có một bên thứ ba độc lập đứng ra đảm bảo
các thông tin kinh tế tài chính là đáng tin, vì vậy kiểm tốn độc lập ra đời
vào khoảng thế kỷ 18.
Đến đầu thế kỷ 20, hoạt động đầu tư chứng khoán phát triển mạnh
mẽ với hàng triệu nhà đầu tư, họ cần có một bên thứ ba độc lập đưa ra
đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính mà họ định dựa vào để ra
quyết định đầu tư, vì vậy kiểm tốn độc lập chuyển từ mục đích phát hiện

sai phạm sang mục đích mới là nhận xét về mức độ trung thực, hợp lý
của thơng tin trên báo cáo tài chính. Cùng với sự phát triển về quy mô
của các đơn vị được kiểm toán cũng như sự phát triển của khoa học cơng
nghệ, các phương thức kiểm tốn mới cũng ra đời:
- Thay vì kiểm tra tồn bộ các thơng tin như thời kỳ đầu, đến thế kỷ
20, kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán được chấp nhận và đi vào ứng dụng để
tiết kiệm thời gian và công sức của kiểm tốn viên. Cùng với đó, việc
đánh giá kiểm sốt nội bộ của đơn vị cũng được quan tâm hơn, vì đó là
một cơ sở quan trọng để lựa chọn mẫu kiểm tốn.
- Bên cạnh đó, do khoa học kỹ thuật phát triển, các đơn vị ứng dụng
công nghệ thông tin vào quản lý gia tăng địi hỏi kiểm tốn viên phải
nghiên cứu để đưa ra các kỹ thuật kiểm tốn mới phù hợp với mơi trường
tin học này.
Bước sang thế kỷ 21, vai trị của kiểm tốn ngày càng tăng lên do
tiến trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nhất là thị trường tài chính.
Sự phát triển của các nhà đầu tư quốc tế vượt ra khỏi biên giới của các
quốc gia đã làm tăng nhu cầu bảo đảm độ tin cậy của báo cáo tài chính và
14


các thông tin khác. Mặt khác, sự kiện Enron và sự sụp đổ của Arthur
Andresen đã dẫn đến những thách thức lớn lao cho nghề nghiệp kiểm
toán nếu muốn giữ được sự tín nhiệm của cơng chúng. Những u cầu
trên đã thúc đẩy việc mở rộng và nâng cao hơn nữa chất lượng của kiểm
tốn. Chính vì thế đã hình thành một số xu hướng nổi bật trong lĩnh vực
kiểm tốn trong những năm gần đây:
- Tăng cường tính độc lập của kiểm tốn viên thơng qua việc hạn chế
khả năng một doanh nghiệp kiểm toán cung cấp đồng thời nhiều dịch vụ
cho một khách hàng.
- Nâng cao trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên trong việc

phát hiện các hành vi gian lận có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo
cáo tài chính.
- Mở rộng các kỹ thuật tiếp cận kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro.
Kiểm tốn viên khơng thể chỉ quan tâm đến rủi ro tài chính mà cịn phải
tìm hiểu cả rủi ro kinh doanh của khách hàng để hoạch định kế hoạch và
chương trình kiểm tốn.
- Mở rộng các dịch vụ kiểm tra ngồi hoạt động kiểm tốn báo cáo
tài chính truyền thống để phục vụ nhu cầu bảo đảm độ tin cậy của các
thông tin khác nhau trong những giao dịch kinh tế.
- Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực cho nghề nghiệp kiểm toán
bao gồm đào tạo trong nhà trường và đào tạo trong quá trình làm việc.
"Học suốt đời" được xem là yếu tố quan trọng của phát triển nghề nghiệp
kiểm tốn.
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển kiểm toán ở Việt Nam
Hoạt động kiểm toán tại Việt Nam tuy đã có một lịch sử lâu dài, thế
nhưng đến trước thập niên 90 của thế kỷ 20, hoạt động này chủ yếu là do
Nhà nước tiến hành thơng qua cơng tác kiểm tra kế tốn. Phải đến cuối
những năm 1980 khi Việt Nam từng bước chuyển sang nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là từ khi có Luật Đầu tư nước ngồi, sự xuất hiện của các
nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nên nhu cầu cần có kiểm tốn độc lập để
kiểm tốn các báo cáo tài chính.
Để phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới vào đầu thập niên
15


90, hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam được tái lập với sự ra đời
của Công ty Kiểm tốn Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau đó,
nhiều cơng ty kiểm toán khác của Việt Nam lần lượt được thành lập cùng
với sự có mặt của các cơng ty kiểm tốn quốc tế và cơng ty kiểm tốn
liên doanh. Khách hàng của các cơng ty kiểm tốn cũng gia tăng nhanh

chóng và mở rộng ra nhiều loại hình doanh nghiệp như các doanh nghiệp
Nhà nước, công ty cổ phần có yết giá ở thị trường chứng khốn, các ngân
hàng thương mại...
Việt Nam cũng đã từng bước thể chế hóa hoạt động kiểm toán. Khởi
đầu là vào tháng 1/1994, quy chế kiểm tốn độc lập được Chính phủ ban
hành theo Nghị định 07/CP ngày 19/1/1994 và được hướng dẫn thực hiện
bởi Thơng tư 22/TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính. Tiếp đến
vào tháng 7/1994, cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ
được thành lập và hoạt động theo Điều lệ Tổ chức và Hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước. Tháng 10/1997, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế
Kiểm toán nội bộ áp dụng tại các doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết
định 832 TC/QĐ/CĐKT.
Năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày
30/3/2004 về Kiểm toán độc lập để thay thế cho Nghị định 07/CP, sau đó
là Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105; Bộ Tài chính cũng đã
ban hành Thơng tư 64/2004/TT-TC ngày 29/6/2004 và thay thế cho
Thơng tư 22/TC/CĐKT.
Ngồi ra từ tháng 1/2006, Luật Kiểm tốn Nhà nước 2005 bắt đầu có
hiệu lực, từ lúc này, cơ quan Kiểm tốn Nhà nước khơng cịn trực thuộc
Chính phủ và trở thành cơ quan chun mơn về lĩnh vực kiểm tra tài
chính Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo luật pháp.
Ngày 29 tháng 3 năm 2011, tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thơng qua Luật Kiểm
toán độc lập (Luật số 67/2011/QH12) quy định nguyên tắc, điều kiện,
phạm vi, hình thức hoạt động kiểm tốn độc lập, quyền, nghĩa vụ của
16



kiểm toán viên hành nghề.
Việc nghiên cứu để xây dựng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
cũng được tiến hành từ năm 1997. Đến tháng 9/1999, Bộ Tài chính đã
ban hành 04 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (Vietnamese Standard on
Auditing - VSA) đầu tiên. Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống chuẩn mực
kiểm tốn tương đối hồn chỉnh.
Ngồi ra, để tạo điều kiện cho sự phát triển của nghề nghiệp, Hội
kiểm toán Việt Nam (nay là Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam - VAA)
đã được thành lập vào năm 1994. Đến tháng 5/1998, VAA được kết nạp
chính thức là thành viên thứ 7 của AFA (Liên đồn kế tốn ASEAN) và
là thành viên thứ 130 của IFAC (Liên đồn kế tốn Quốc tế). Ngồi ra,
kiểm tốn Nhà nước Việt Nam cũng đã là thành viên của INTOSAI
(Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao). Đến tháng 4/2005, Hội
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập với tư
cách một tổ chức nghề nghiệp của kiểm toán viên hành nghề, VACPA là
một thành viên của VAA.
Tóm lại, những năm vừa qua, hệ thống kiểm tốn Việt Nam đã hình
thành và phát triển cả về lượng và chất. Quá trình phát triển đã đặt nền
tảng ban đầu cho những bước phát triển trong tương lai cho ngành nghề
này ở Việt Nam.

CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Kiểm toán viên là những chuyên gia trong lĩnh vực nào?
Câu 2: Anh (chị) hiểu như thế nào về tính độc lập của kiểm tốn?
Câu 3: Anh (chị) cho biết biểu hiện thẩm quyền của kiểm toán viên
đối với đối tượng được kiểm toán?
Câu 4: Cho biết những bằng chứng về các thông tin của đơn vị được
kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập là những thơng tin gì?
Câu 5: Kiểm tốn viên lấy những chuẩn mực gì làm tham chiếu
trong các cuộc kiểm tốn?


17


Câu 6: Phân biệt chức năng của kiểm toán với chức năng của kế toán?
Câu 7: Phân biệt luật kiểm toán với chuẩn mực kiểm toán?
Câu 8: Sự cần thiết và vai trị của kiểm tốn trong nền kinh tế
thị trường?
Câu 9: Phân biệt kiểm toán hoạt động với kiểm toán tuân thủ?
Câu 10: Phân biệt kiểm toán tuân thủ với kiểm toán Nhà nước?
Câu 11: Phân biệt kiểm toán độc lập với kiểm toán Nhà nước?
Câu 12: Phân biệt kiểm tốn với kiểm tra cơng tác kế tốn?

18


CHƯƠNG 2 
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 
SỬ DỤNG TRONG KIỂM TOÁN 
Chương này giới thiệu cho bạn đọc những khái niệm cơ bản sử
dụng trong kiểm toán như cơ sở dẫn liệu, kiểm soát nội bộ, trọng
yếu, rủi ro, bằng chứng kiểm toán… Các khái niệm này là cơ sở,
nền tảng để nghiên cứu các nội dung khác trong kiểm toán như
phương pháp kiểm tốn, qui trình kiểm tốn, tổ chức cơng tác
kiểm tốn. Qua đó, chương 2 cũng giới thiệu các chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam đã ban hành nhằm cung cấp cho bạn đọc
một cơ sở lý luận vững chắc trong nghiên cứu kiểm toán.

2.1. Cơ sở dẫn liệu
2.1.1. Khái niệm cơ sở dẫn liệu


Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh
rất nhiều các nghiệp vụ kinh tế khác nhau, nhưng chỉ những nghiệp vụ
kinh tế có đủ tính hợp pháp, hợp lý được cơng nhận và chứng minh là
có thật mới được phân loại, tính tốn, đánh giá và ghi chép vào sổ cái.
Số dư trên sổ cái sẽ được phản ánh trên BCTC của doanh nghiệp.
Muốn đưa ra một ý kiến nhận xét về BCTC thì kiểm tốn viên phải
kiểm tra từng khoản mục, nghiệp vụ, số dư tài khoản tức là phải lập lại
đường đi của chứng từ kế toán từ nghiệp vụ kinh tế phát sinh đến phân
tích ảnh hưởng tới hạch toán, phân loại tổng hợp ghi sổ và lập BCTC.
Theo VSA 315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
thơng qua hiểu biết về đơn vị được kiểm tốn và mơi trường của đơn vị:
"Cơ sở dẫn liệu là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm
toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và
thơng tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử
dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra".
19


2.1.2. Các dạng cơ sở dẫn liệu
Khi xét đoán về mức độ trung thực hợp lý của các khoản mục trên
báo cáo tài chính, kiểm tốn viên phải tìm kiếm những căn cứ phù hợp
cho mỗi khoản mục để đưa ra ý kiến nhận xét của mình trên báo cáo
kiểm tốn, đó là các cơ sở dẫn liệu. Thơng thường cơ sở dẫn liệu của báo
cáo tài chính có các dạng sau:
a/ Hiện hữu: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên báo cáo tài
chính thực tế phải tồn tại (có thực) vào thời điểm lập báo cáo;
b/ Quyền và nghĩa vụ: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên
báo cáo tài chính đơn vị phải có quyền sở hữu hoặc có trách nhiệm hồn
trả tại thời điểm lập báo cáo;

c/ Phát sinh: Một nghiệp vụ hay một sự kiện đã ghi chép thì phải đã
xảy ra và có liên quan đến đơn vị trong thời kỳ xem xét;
d/ Đầy đủ: Toàn bộ tài sản, các khoản nợ, nghiệp vụ hay giao dịch
đã xảy ra có liên quan đến báo cáo tài chính phải được ghi chép hết các
sự kiện liên quan;
e/ Đánh giá: Một tài sản hay một khoản nợ được ghi chép theo giá trị
thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế tốn hiện hành (hoặc được
thừa nhận);
f/ Chính xác: Một nghiệp vụ hay một sự kiện được ghi chép theo
đúng giá trị của nó, doanh thu hay chi phí được ghi nhận đúng kỳ, đúng
khoản mục và đúng về toán học.
g/ Trình bày và cơng bố: Các khoản mục được phân loại, diễn đạt và
công bố phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
chấp nhận).
Một cách cụ thể hơn, theo VSA 315, các cơ sở dẫn liệu được kiểm
toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót tiềm tàng có thể xảy ra
được chia thành ba loại và có thể có những dạng sau:
(a) Các cơ sở dẫn liệu đối với các nhóm giao dịch và sự kiện trong
kỳ được kiểm tốn:
Tính hiện hữu: Các giao dịch và các sự kiện được ghi nhận đã xảy ra
và liên quan đến đơn vị;
20


Tính đầy đủ: Tất cả các giao dịch và sự kiện cần ghi nhận đã được
ghi nhận;
Tính chính xác: Số liệu và dữ liệu liên quan đến các giao dịch và sự
kiện đã ghi nhận được phản ánh một cách phù hợp;
Đúng kỳ: Các giao dịch và sự kiện được ghi nhận đúng kỳ kế toán;
Phân loại: Các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào đúng tài khoản.

(b) Các cơ sở dẫn liệu đối với số dư tài khoản vào cuối kỳ:
Tính hiện hữu: Tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu thực sự
tồn tại;
Quyền và nghĩa vụ: Đơn vị nắm giữ các quyền liên quan đến tài sản
thuộc sở hữu của đơn vị và đơn vị có nghĩa vụ với các khoản nợ phải trả;
Tính đầy đủ: Tất cả các tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu
cần ghi nhận đã được ghi nhận đầy đủ;
Đánh giá và phân bổ: Tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu
được thể hiện trên báo cáo tài chính theo giá trị phù hợp và những điều
chỉnh liên quan đến đánh giá hoặc phân bổ đã được ghi nhận phù hợp.
(c) Các cơ sở dẫn liệu đối với các trình bày và thuyết minh:
Tính hiện hữu, quyền và nghĩa vụ: Các sự kiện, giao dịch và các vấn
đề khác được thuyết minh thực sự đã xảy ra và có liên quan đến đơn vị;
Tính đầy đủ: Tất cả các thuyết minh cần trình bày trên báo cáo tài
chính đã được trình bày;
Phân loại và tính dễ hiểu: Các thơng tin tài chính được trình bày,
diễn giải và thuyết minh hợp lý, rõ ràng, dễ hiểu;
Tính chính xác và đánh giá: Thơng tin tài chính và thơng tin khác
được trình bày hợp lý và theo giá trị phù hợp.
2.1.3. Ý nghĩa của cơ sở dẫn liệu đối với cơng tác kiểm tốn

Các cơ sở dẫn liệu có tác dụng quan trọng đối với cả ba giai đoạn
của q trình kiểm tốn là giai đoạn lập kế hoạch, giai đoạn thực hiện
và giai đoạn kết thúc kiểm toán.
21


- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, việc hiểu biết rõ về cơ sở
dẫn liệu sẽ giúp kiểm toán viên xác định được khả năng các rủi ro và sai
phạm có thể xảy ra trong BCTC của đơn vị nói chung cũng như ở các chỉ

tiêu và bộ phận cấu thành trên báo cáo nói riêng.
- Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, cơ sở dẫn liệu sẽ giúp kiểm
toán viên xác định được mục tiêu các thử nghiệm KTV đang thực hiện,
trên cơ sở đó có thể đưa ra các quyết định có hiệu quả nhất cho cuộc
kiểm toán.
- Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, cơ sở dẫn liệu là căn cứ để
kiểm toán viên xác định và đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của các
bằng chứng thu thập được với các mục tiêu kiểm tốn đã được thiết lập,
từ đó đánh giá được mức độ thỏa mãn về kiểm toán.

2.2. Kiểm soát nội bộ
2.2.1. Khái niệm và mục tiêu của kiểm soát nội bộ
Kiểm sốt nội bộ là q trình được thiết kế để ban quản lý, ban giám
đốc, các nhân viên trong doanh nghiệp thực hiện nhằm đạt được tính hiệu
lực và hiệu quả của hoạt động; đảm bảo tính trung thực, hợp lý và tin cậy
của thông tin; đảm bảo tuân thủ những luật định.
Các nhà quản lý có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các đối
tượng sử dụng khác nhau ra được quyết định phù hợp. Để thực hiện được
trách nhiệm đó, bộ phận quản lý phải thiết lập một hệ thống kiểm soát
nội bộ.
Theo VSA 315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
thơng qua hiểu biết về đơn vị được kiểm tốn và mơi trường của đơn vị:
"Kiểm sốt nội bộ: Là quy trình do Ban quản trị, Ban Giám đốc và các cá
nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực hiện và duy trì để tạo ra sự đảm bảo
hợp lý về khả năng đạt được mục tiêu của đơn vị trong việc đảm bảo độ
tin cậy của báo cáo tài chính, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt động, tuân
thủ pháp luật và các quy định có liên quan". Thuật ngữ "kiểm sốt" được
hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần của kiểm
soát nội bộ;
22



Theo COSO (Committee of Sponsoring Organization - Ủy ban thuộc
hội đồng quốc gia Hoa Kỳ về việc chống gian lận về BCTC. COSO được
thành lập nhằm nghiên cứu về kiểm sốt nội bộ): "Kiểm sốt nội bộ là
một q trình được thực hiện bởi các nhà quản lý, các nhân viên của một
tổ chức, được thiết kế để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực
hiện các mục tiêu sau: Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả; Thông tin đáng
tin cậy; Tuân thủ các luật lệ và các qui định"
Kiểm soát nội bộ được thiết kế, thực hiện và duy trì nhằm giải quyết
các rủi ro kinh doanh đã được xác định, gây ra nguy cơ đơn vị không đạt
được một trong các mục tiêu liên quan đến:
(1) Độ tin cậy của quy trình lập và trình bày báo cáo tài chính;
(2) Hiệu quả và hiệu suất hoạt động;
(3) Việc tuân thủ pháp luật và các quy định hiện hành.
Việc thiết kế, thực hiện và duy trì kiểm sốt nội bộ có thể thay đổi
theo quy mơ và mức độ phức tạp của đơn vị.
2.2.2. Các thành phần của kiểm sốt nội bộ
2.2.2.1. Mơi trường kiểm sốt
Mơi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị và
được thể hiện qua nhận thức quan điểm, thái độ của người quản lý về vấn
đề kiểm soát trong doanh nghiệp. Mơi trường kiểm sốt bao gồm các yếu
tố sau:
(1) Truyền đạt thông tin và yêu cầu thực thi tính chính trực và các
giá trị đạo đức: Tính hữu hiệu của các kiểm sốt khơng thể cao hơn các
giá trị đạo đức và tính chính trực của những người tạo ra, quản lý và
giám sát các kiểm sốt đó. Tính chính trực và hành vi đạo đức là sản
phẩm của chuẩn mực về hành vi và đạo đức của đơn vị cũng như việc
truyền đạt và thực thi các chuẩn mực này trong thực tế. Việc thực thi tính
chính trực và các giá trị đạo đức bao gồm các nội dung như: biện pháp

của Ban Giám đốc để loại bỏ hoặc giảm thiểu các động cơ xúi giục nhân
viên tham gia vào các hành động thiếu trung thực, bất hợp pháp, hoặc phi
đạo đức. Việc truyền đạt các chính sách của đơn vị về tính chính trực và
các giá trị đạo đức có thể bao gồm truyền đạt tới nhân viên các chuẩn
23


mực hành vi thơng qua các chính sách của đơn vị, các quy tắc đạo đức và
bằng tấm gương điển hình.
(2) Cam kết về năng lực: Năng lực là kiến thức và các kỹ năng cần
thiết để hoàn thành nhiệm vụ thuộc phạm vi công việc của từng cá nhân.
(3) Sự tham gia của Ban quản trị: Ban quản trị có ảnh hưởng đáng
kể đến nhận thức về kiểm sốt của đơn vị. Ban quản trị có trách nhiệm
quan trọng và trách nhiệm đó được đề cập trong các chuẩn mực nghề
nghiệp, pháp luật và quy định khác, hoặc trong các hướng dẫn do Ban
quản trị ban hành. Ngoài ra, Ban quản trị cịn có trách nhiệm giám sát
việc thiết kế và hiệu quả hoạt động của các thủ tục báo cáo sai phạm và
các thủ tục sốt xét tính hiệu quả của kiểm soát nội bộ của đơn vị.
(4) Triết lý và phong cách điều hành của Ban Giám đốc: Triết lý và
phong cách điều hành của Ban Giám đốc có nhiều đặc điểm, như quan
điểm, thái độ và hành động của Ban Giám đốc đối với việc lập và trình
bày báo cáo tài chính có thể được thể hiện qua việc lựa chọn các nguyên
tắc kế toán một cách thận trọng hoặc ít thận trọng khi có nhiều lựa chọn
khác nhau về nguyên tắc kế toán, hoặc sự kín kẽ và thận trọng khi xây
dựng các ước tính kế toán.
(5) Cơ cấu tổ chức: Việc thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp gồm
việc xem xét, cân nhắc các vấn đề chính về quyền hạn, trách nhiệm và
các kênh báo cáo phù hợp. Sự phù hợp của cơ cấu tổ chức phụ thuộc một
phần vào quy mô và đặc điểm hoạt động của đơn vị.
(6) Phân công quyền hạn và trách nhiệm: Việc phân công quyền hạn

và trách nhiệm có thể bao gồm các chính sách liên quan đến thông lệ phổ
biến, hiểu biết và kinh nghiệm của các nhân sự chủ chốt và các nguồn lực
được cung cấp để thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, việc phân cơng có thể
bao gồm các chính sách và trao đổi thông tin để đảm bảo rằng tất cả nhân
viên đều hiểu được mục tiêu của đơn vị, hiểu được hành động của mỗi cá
nhân có liên quan với nhau như thế nào và đóng góp như thế nào vào các
mục tiêu đó và nhận thức được mỗi cá nhân sẽ chịu trách nhiệm như thế
nào và chịu trách nhiệm về cái gì.
(7) Các chính sách và thơng lệ về nhân sự: Các chính sách và thơng
lệ về nhân sự thường cho thấy các vấn đề quan trọng liên quan tới nhận
24


thức về kiểm sốt của đơn vị. Ví dụ, tiêu chuẩn về tuyển dụng các ứng
viên có trình độ cao nhất (chú trọng về nền tảng giáo dục, kinh nghiệm
làm việc trước đó, các thành tích trong q khứ và các bằng chứng về
tính chính trực và hành vi đạo đức) thể hiện cam kết của đơn vị đối với
những người có năng lực và đáng tin cậy. Các chính sách đào tạo trong
đó truyền đạt vai trị và nhiệm vụ tương lai, gồm các hoạt động như tổ
chức đào tạo và hội thảo, thể hiện yêu cầu về kết quả công việc và hành
vi mong đợi. Việc đề bạt dựa trên đánh giá định kỳ về hiệu quả công việc
thể hiện cam kết của đơn vị trong việc bổ nhiệm những nhân sự có khả
năng vào những trọng trách cao hơn.
2.2.2.2. Quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị
Rủi ro là khả năng doanh nghiệp không đạt được mục tiêu đề ra do
các yếu tố cản trở quá trình thực hiện mục tiêu. Các rủi ro có thể phát
sinh từ rất nhiều nguồn, có thể từ bên trong hoặc từ bên ngồi tổ chức, có
thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Để giới hạn rủi
ro ở mức chấp nhận được, người quản lý phải xác định được mục tiêu
của đơn vị, nhận dạng và phân tích rủi ro từ đó mới có thể kiểm soát

được rủi ro.
- Xác định mục tiêu của đơn vị. Mục tiêu tuy không phải là một bộ
phận của kiểm sốt nội bộ nhưng việc xác định nó là điều kiện tiên quyết
để đánh giá rủi ro. Bởi lẽ một sự kiện có trở thành một rủi ro quan trọng
với một tổ chức hay không sẽ phụ thuộc vào mức độ tác động tiêu cực
của nó đến mục tiêu của đơn vị. Xác định mục tiêu bao gồm việc đưa ra
sứ mệnh, hoạch định của các mục tiêu chiến lược cũng như chỉ tiêu phải
đạt được trong ngắn hạn, trung hay dài hạn. Việc xác định mục tiêu có
thể được thực hiện qua việc ban hành các văn bản hoặc đơn giản hơn,
qua nhận thức và phát biểu hàng ngày của nhà quản lý.
- Nhận dạng rủi ro. Rủi ro có thể tác động đến tổ chức ở mức độ
tồn đơn vị hay chỉ ảnh hưởng đến từng hoạt động cụ thể. Ở mức độ toàn
đơn vị, các nhân tố có thể làm phát sinh rủi ro đó là sự đổi mới kỹ thuật,
nhu cầu của khách hàng thay đổi, sự cải tiến sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh, sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước, trình độ nhân
viên không đáp ứng yêu cầu hoặc thay đổi cán bộ quản lý... Trong phạm
25


×