Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giáo trình Nguyên lý kế toán: Phần 1 - PGS.TS. Đỗ Minh Thành (Chủ biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Chủ biên: PGS. TS. Đỗ Minh Thành


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Chủ biên: PGS.TS. Đỗ Minh Thành

62

GIÁO TRÌNH

NGUN LÝ KẾ TỐN

NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ - 2017



LỜI NĨI ĐẰU
Kế tốn là một mơn khoa học về quản lý kinh tế, một bộ phận cẩu
thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính có vai
trị tích cực trong việc quản lỷ điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh
tế. Với tư cách là cơng cụ quản lý kinh tế, kế tốn gắn liền với hoạt động
kinh tế, tài chính, thực hiện tổ chức thu thập, xử lý, phân tích và cung
cấp thơng tin hữu ích cho các quyết định kinh tế, vì vậy kế tốn có vai trị
đặc biệt quan trọng không chi với hoạt động quản lý kinh tế, tài chính
tầm vĩ mơ mà rất cần thiết với hoạt động quản lý vỉ mô của các đơn vị,
các tổ chức, doanh nghiệp.
Nguyên lý kế toán là một bộ phận cấu thành của khoa học kế tốn,
là mơn học được giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành kế toán và các
chuyên ngành khác thuộc khổi ngành kinh tế và quàn trị kinh doanh
nhằm trang bị kiến thức lý luận chung về kế tốn. Để đáp ứng u cầu


của cơng tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu môn nguyên lý kế toán,
tập thể giảng.viên Khoa Kế toán - Kiểm toán tổ chức biên soạn và xuất
bản cuốn “Giảo trình Nguyên lý kế toán”.
Giáo trĩnh do PGS. TS. Đỗ Minh Thành làm chủ biên và biên soạn
chương II, III. Tham gia biên soạn gồm:
- TS. Đặng Thị Hòa biên soạn chương I.
- ThS. Nguyễn Thị Hà biên soạn chương IV.
- PGS-TS. Trần Thị Hồng Mai - Trưởng Bộ mơn Kế tốn quản trị

biên soạn chương V.
- PGS-TS. Phạm Thị Thu Thủy biên soạn chương VI.
- TS. Nguyễn Tuấn Duy biên soạn chương VII.
- TS. Nguyễn Viết Tiến biên soạn chương VIII.

3


Giảo trình được sử dụng làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu và học
tập cho giảng viên và sinh viên trong trường, đồng thời đây cũng là tài
liệu tham khảo cho cán bộ quản lý kỉnh tế và cán bộ kế tốn ở các doanh
nghiệp, các đem vị.
Giáo trình là cơng trình khoa học, kết quả lao động khoa học của
tập thế' cán bộ giảng dạy Khoa Kế toán - Kiểm tốn. Trong q trình
biên soạn tập thể tác giả đã kết hợp việc nghiên cứu tham khảo các tài
liệu, những kiến thức thực tế với kinh nghiệm đúc rút qua nhiều năm
giảng dạy của các tác giả để đảm bảo tính khoa học, hiện đại và sát thực
tế của giáo trình. Tuy nhiên, với sự phát triển của các ngành khoa học
nói chung, khoa học kế tốn nói riêng và trình độ cũng như kinh nghiệm
cịn hạn chế, giáo trình khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết.
Chủng tơi mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần


xuất bản sau giáo trình được hồn thiện hom.
TẬP THÊ TÁC GIẢ

4


Chương 1

BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM vụ
CỦA KẾ TOÁN

1.1. VAI TRỊ CỦA KÉ TỐN TRONG QUẢN LÝ KINH TÉ

1.1.1. Khái niệm và phân loại hạch toán
1.1.1.1. Khái niệm về hạch tốn
Lịch sử tiến hố của xã hội lồi người đã khẳng định: sản xuất ra
của cải vật chất là nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội loài người.
Ngay từ thời cổ xưa, con người của xã hội nguyên thuỷ đã nhận thức
được rằng muốn duy trì sự sống và phát triển thì phải lao động sản xuất,
để tạo ra những vật dụng cần thiết, thức ăn và đồ mặc... Q trình hoạt
động sản xuất đó được diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại khơng ngừng và
hình thành nên quá trình tái sản xuất xã hội. Khi thực hiện quá trình tái
sản xuất xã hội, con người ln có ý thức xem xét hao phí lao động đã bỏ
ra là bao nhiêu và kết quả thu được là cái gì, kết quả đó sẽ được phân
phối như thế nào. Tức là họ đã quan tâm đến chi phí đầu vào và kết quả
đầu ra của các quá trình hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất.
Đồng thời con người cũng ln có ý thức và mong muốn quá trình tái sản
xuất được thực hiện nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao. Tất cả những mối
quan tâm đó của con người đối với q trình tái sản xuất đã đặt ra nhu

cầu tất yếu phải theo dõi, quan sát, lượng hóa, ghi chép, lưu trữ dữ liệu
về các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất tức là phải thực hiện
chức năng quản lý quá trình tái sản xuất.

Để quản lý được các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất,
cần phải có những thơng tin hữu ích - được thu thập, xử lý và kiểm tra
thơng qua q trình thực hiện việc quan sát, đo lường, tính tốn và ghi
chép các hoạt động đó.
5


Quan sát các hiện tượng và quá trình kinh tế là hoạt động đầu tiên
của quá trình quản lý nhằm định hướng, phản ánh, giám đốc quá trình tái
sản xuất.
Đo lường là việc biểu hiện các hao phí trong quá trình sản xuất và
của cải vật chất đã sản xuất ra bằng các loại thước đo thích hợp.
Có 3 loại thước đo được sử dụng để đo lường các đối tượng của
q trình sản xuất, đó là: thước đo hiện vật, thước đo lao động và thước
đo giá trị.

Thước đo hiện vât là việc sử dụng đơn vị đo lường vật lý tuỳ thuộc
vào tính tự nhiên của đối tượng được tính tốn như: trọng lượng (kg, tạ,
tấn,...); diện tích (ha, m2,...); độ dài (m, km,...); thể tích (lít, m3,...). Thước
đo hiện vật cho phép hạch tốn có thể đo lường chính xác từng đối tượng
riêng biệt, nhưng khơng thể sử dụng nó để xử lý thơng tin ban đầu thành
thông tin tổng hợp của nhiều hiện tượng.
Thước đo thời gian lao đông là việc sử dụng các đơn vị về thời gian
như ngày công, giờ công để đo lường các đối tượng hạch toán. Thước đo

thời gian lao động thường chỉ được sử dụng để đo lường hao phí lao

động sống, tính tốn các chỉ tiêu về năng suất lao động trong các doanh
nghiệp, các tổ chức. Thước đo thời gian lao động giúp xác định được
năng suất lao động của cơng nhân, làm căn cứ tính lương phải trả cho

công nhân. Thước đo thời gian lao động thường được sử dụng với thước
đo hiện vật để giám sát số lượng sản phẩm công nhân sản xuất ra.
Thước đo giá tri (thước đo tiền tệ) là thước đo được sử dụng rộng
rãi nhất trong công tác quản lý. Thước đo tiền tệ là việc sử dụng đơn vị
tiền tệ để đo lường các chỉ tiêu kinh tế, các loại tài sản, hàng hoá, vật tư

của đơn vị. Thước đo giá trị có ưu điểm là giúp cho hạch tốn có thể tổng

hợp được thơng tin từ các thơng tin ban đầu về các đối tượng riêng biệt.

Mỗi thước đo đều cố ưu, nhược điểm riêng. Để có được thơng tin
đầy đủ, chính xác, kịp thời, phải kết hợp cả 3 loại thước đo, sẽ phản ánh

6


và giám đốc toàn diện các chỉ tiêu về sản lượng, chât lượng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Tính tốn là việc sử dụng các phương pháp tính tốn, tổng họp,
phân tích để tính tốn những chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Qua đó, có thể
đánh giá được mức độ thực hiện và hiệu quà của hoạt động kinh tế.

Ghi chép là quá trình thu nhận, xử lý và ghi lại tình hình và kết quả
các hoạt động kinh tế đã thực hiện theo trình tự và phương pháp nhất
định. Từ đó mà thực hiện chức năng thơng tin và kiểm tra các q trình
kinh tế trong từng thời gian, từng địa điểm phát sinh cũng như suốt một

thời kỳ nào đó.

Hệ thống quan sát, đo lường, tính tốn và ghi chép các hoạt động
kinh tế của con người, nhằm thực hiện chức năng thông tin và kiểm tra
các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội được gọi là

Hạch toán.
Sự cần thiết phải giám đốc và quản lý quá trình hoạt động kinh tế
không phải chỉ là nhu cầu mới được phát sinh gần đây mà thực ra đã phát
sinh rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Xã hội loài người càng phát triển, con người càng quan
tâm đến hoạt động sản xuất tức là càng quan tâm đến thời gian lao động
bỏ ra và kết quả sản xuất đạt được. Các-Mác đã viết: “Trong tất cả các
hình thái kinh tế - xã hội, người ta đều phải quan tâm đến thời gian cần
dùng để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng ở mức độ quan tâm có khác
nhau tuỳ theo trình độ của nền văn minh”1.

Như vậy, hạch toán là nhu cầu tất yểu khách quan cùa mọi hình thái
kinh tể - xã hội và là cơng cụ quan trọng để quán lý kinh tể. Có thể nói,
hạch tốn được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của sản xuất xã hội. Trong các hình thái xã hội khác nhau, đối tượng và
nội dung hạch tốn cũng khác nhau, vì mỗi chế độ xã hội có một phương
thức sản xuất riêng. Phương thức sản xuất thay đổi làm cho toàn bộ cơ
1 Các-Mảc - Tư bản quyến thứ nhất, tập 1, trang 105 - Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội 1959.

7


cấu kinh tế, chính trị, xã hội cũng thay đổi. Cùng với sự thay đổi và phát
triển của sản xuất xã hội, hạch tốn cũng khơng ngừng được hồn thiện
về phương pháp, nội dung cũng như hình thức tổ chức.

1.1.1.2. Các loại hạch toán
Xã hội ngày càng phát triển, quá trình tái sản xuất càng phức tạp.
Để quản lý một cách có hiệu quả và đánh giá tồn diện hoạt động kinh tế
ừong quá trình tái sản xuất xã hội, cần phải có đầy đủ, kịp thời và chính
xác các thông tin về các mặt hoạt động khác nhau của q trình tái sản
xuất đó. Do vậy, hệ thống hạch tốn đã khơng ngừng hồn thiện và phát
triển về nội dung, phương pháp cũng như hình thức tổ chức, và được

phân thành 3 loại hạch toán sau:
* Hạch toán nghiệp vụ

Hạch tốn nghiệp vụ (cịn gọi là Hạch tốn nghiệp vụ kỹ thuật) là
sự quan sát, phản ánh và kiểm tra từng nghiệp vụ kinh tế, từng quá trình
kinh tế kỹ thuật cụ thể, nhằm thu thập và cung cấp thông tin để thực hiện
sự chỉ đạo thường xuyên, kịp thời các nghiệp vụ và các q trình kinh
tế đó.
Hạch tốn nghiệp vụ thu thập và cung cấp thơng tin, số liệu về tình
hình thực hiện từng nghiệp vụ kinh tế (mua, bán,...), từng quá trình kinh
tế kỹ thuật (quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh). Ví dụ:
doanh số bán của từng quầy hàng theo từng ngày, số lượng sản phẩm sản
xuất được tại từng phân xưởng trong từng ca sx...
Đặc điểm của hạch toán nghiệp vụ:

+ Phương pháp thu thập và phản ánh thông tin là quan sát và phản
ánh trục tiếp từng nghiệp vụ, từng quá trình kinh tế kỹ thuật cụ thể để
phục vụ kịp thời việc diều-hành, chi đạo từng nghiệp vụ, từng q ữình
kinh tế cụ thể đó. Phương tiện thu thập và truyền thông tin đơn giản, linh
hoạt: điện thoại, email, thư báo, trun miệng,...

+ Thơngtin do hạch tốn nghiệp vụ cung cấp chỉ là những thông tin

riêng biệt về từng nghiệp vụ, từng quá trình.
8


+ Hạch tốn nghiệp vụ khơng chun dùng mệt loại thước đo nào.
Tuỳ thuộc vào tính chất của từng nghiệp vụ kinh tế và yêu cầu quản lý
mà sử dụng các thước đo phù hợp.

Với những đặc điểm trên, hạch tốn nghiệp vụ chưa trở thành một
mơn khoa học, chưa có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng. Tuy
nhiên, hạch toán nghiệp vụ vẫn rất cần thiết để bổ sung cho các loại hạch
toán khác.
* Hạch toán thống kê (gọi tẳt là Thống kê)

Hạch toán thống kê là một môn khoa học nghiên cứu mặt lượng
trong mối liên hệ mậtjhiểt với mặt chất của các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn trong điều kiện thời gian, không gian cụ thể, nhằm rút ra
bản chất và tính quy luật trong sự phát triển của hiện tượng đó.
Đặc điểm của hạch toán thống kê:

+ Đối tượng của hạch toán thống kê là các hiện tượng kinh tế xã hội số lớn.

+ Để thu thập và phản ánh thông tin, hạch tốn thống kê có hệ
thống phương pháp nghiên cứu riêng (phương pháp điều tra chọn mẫu,
phương pháp phân tổ, phương pháp chỉ số,...).
+ Thông tin và số liệu do hạch tốn thống kê cung cấp khơng mang
tính liên tục, thường xuyên nhưng mang tính hệ thống và tính tổng

hợp cao.

+ Hạch tốn thống kê khơng chun dùng một loại thước đo nào.

Tuỳ theo tính chất và yêu cầu cung cấp thơng tin mà hạch tốn thống kê
sử dụng thước đo thích hợp.
* Hạch tốn kế tốn (gọi tắt là Kế tốn)

Có nhiều quan niệm khác nhau về kế tốn. Các quan niệm khác
nhau về kế tốn là do nhìn nhận kế toán ở những thời điểm khác nhau
(quan niệm cổ điển, quan niệm hiện đại) hoặc dưới những góc độ khác
nhau (hoạt động kế toán, chức năng, nhiệm vụ, vai trị, tính nghề nghiệp,
9


tính khoa học và nghệ thuật của kế tốn...). D.ưới góc độ ngun lý chung
về kế-tốn, chúng ta xem xét kế tốn theo 2 góc độ sau:

Xét dưới góc độ khoa hoỗjce toỏn l mụn khoa hc thu nhn, x lý
và cung câp tồn bộ thơng tin về tình hình tài sản và sự vận động của tài
sản trong các đom vị sản xuất kinh doanh, tổ chức sự nghiệp và các cơ
quan nhằm kiểm Ưa, giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế, tài
chính của các đơn vị đó.
Xét dưới góc độ chức năng, nhiệm vụ của kế toán, kế toán là việc
thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thơng tin kinh tế, tài

chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.

Mỗi doanh nghiệp, đơn vị hoặc tổ chức đoàn thể xã hội (gọi chung
là đơn vị kế tốn) muốn hoạt động được đều phải có một lượng tài sản
nhất định (tiền bạc, vật tư, hàng hóa, nhà cửa, máy móc, thiết bị, cơng cụ
dụng cụ quản lý,...). Những tài sản của đơn vị kế toán được hình thành do
sự đóng góp của các chủ sở hữu đơn vị và được huy động từ các nguồn
khác (vay, chiếm dụng...). Hoạt động của đơn vị kế toán thường xuyên

gây ra sự biến động đối với các tài sản và nguồn hình thành tài sản, làm
cho chúng ln thay đổi về số lượng, giá trị cũng như hình thái biểu hiện.
Kế tốn trong mỗi đơn vị có nhiệm vụ thu thập, đo lường, xử lý, kiểm
tra, phân tích thơng tin về tình hình và sự vận động của tài sản của đơn
vị và cung cấp cho các đối tượng cần sử dụng thông tin theo quy định.
Đặc điểm của kế toán:

+ Đối tượng nghiên cứu của kế toán là tài sản và sự vận động của
tài sản trong từng đơn vị kế toán.
+ Để thu thập và phản ánh thơng tin, kế tốn có hệ thống phương
pháp nghiên cứu riêng, gồm phương pháp chứng từ kế toán, phương
pháp tài khoản kế tốn, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp
cân đối kế tốn. Trong đó, phương pháp chứng từ kế toán là thủ tục đầu
tiên, bắt buộc phải có đối với mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

10


Chứng từ kế toán là bằng chứng pháp lý cho mọi nghiệp vụ kinh tế
xảy ra tại đơn vị. Không có chứng từ phản ánh thì thơng tin về các
nghiệp vụ kinh tế do kế tốn cung cấp sẽ khơng có giá trị pháp lý. Vì
vậy, chứng từ kế tốn đảm bảo cho mọi thơng tin do kế tốn cung cấp
đều có tính trung thực, khách quan và có cơ sở pháp lý chắc chắn.
+ Thơng tin do kế tốn thu thập và cung cấp mang tính chất thuờng
xuyên, liên tục, tồn diện và có hệ thống tất cả các loại tài sản và tình
hình vận động của các loại tài sản đó trong q trình hoạt động kinh tế
của đơn vị kế tốn.

Khác với thống kê, thơng tin kế tốn được kiểm tra thường xun,
liên tục, có hệ thống về tình hình và sự vận động của từng tài sản, từng

nguồn vốn, từng q trình kinh doanh. Nhờ đó mà kế tốn có thể thơng
tin và kiểm tra một cách toàn diện về toàn bộ tài sản, nguồn vốn và các
hoạt động kinh tế, tài chính trong suốt quá trình hoạt động của đơn vị
kế tốn.
+ Để phản ánh các loại tài sản và sự vận động của tài sản, kế toán
sử dụng cả 3 loại thước đo, trong đó thước đo tiền tệ được coi là thước
đo chủ yếu. Sử dụng thước đo tiền tệ, kế toán sẽ cung cấp được các chỉ
tiêu kinh tế tổng họp, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công tác quản lý.
Với những đặc điểm ữên, kế tốn là một mơn khoa học quan trọng
trong hệ thống các môn khoa học về quản lý kinh tế, là một công cụ quản
lý quan trọng, đắc lực và không thể thiếu trong hệ thống cơng cụ quản lý
kinh tế. Trong xã hội, kế tốn là một nghề nghiệp. Người làm kế tốn địi
hỏi phải qua quá trình đào tạo để trang bị kiến thức, ữình độ nghiệp vụ
chun mơn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Ll.1.3. Mối liên hệ giữa ba loại hạch toán

Ba loại hạch tốn trên tuy có chức năng, nhiệm vụ, nội dung và
phương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau trong cùng một hệ thống hạch toán nhằm thực hiện một chức năng
chung là thơng tin và kiểm tra q trình tái sản xuất xã hội phục vụ cho

11


công tác quản lý nền kinh tế - xã hội. Mối quan hệ này được thể hiện ở
các điểm sau:
- Cả 3 loại hạch toán đều thu nhận, xử lý, kiểm tra và cung cấp
thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế, tài chính. Mỗi loại hạch
tốn sẽ đảm trách một khâu nhất định trong quá trình tổ chức hệ thống
thông tin kinh tế thống nhất.


- Mỗi loại hạch tốn đều phát huy vai trị riêng của mình trong chức
năng thơng tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế, tài chính của q trình
tái sản xuất xã hội, nên cả 3 loại hạch toán đều là công cụ quan trọng để
quản lý kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô.
- Giữa 3 loại hạch tốn cịn có quan hệ cung cấp số liệu lẫn nhau,
bổ sung cho nhau để đáp ứng yêu cầu của cơng tác quản lý và tiết kiệm
chi phí hạch tốn.

Hạch toán nghiệp vụ là loại hạch toán ban đầu, cung cấp số liệu cho
hạch toán thống kê và hạch toán kế toán. Hạch toán thống kê thường sử
dụng số liệu của hạch toán nghiệp vụ và hạch toán kế toán để nghiên cứu
bản chất của sự vật, hiện tượng. Thông tin, số liệu của 3 loại hạch toán
phải đảm bảo quan hệ thống nhất dựa trên cơ sở một hệ thống tổ chức
hạch toán ban đầu.
Xuất phát từ những vấn đề đã phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận
về bản chất của kế toán như sau:

fyLà một phân hệ trong hệ thống hạch toán, kế toán cũng thực hiện
chức năng chung là thông tin và kiểm tra q ưình tái sản xuất nhưng
trên góc độ cụ thể là tài sản với tính hai mặt - giá trị và nguồn hình thành,
và sự vận động của các tài sản (các quá trình hoạt động kinh doanh)
trong các đơn vị, tổ chức và doanh nghiệp cụ thể.

toán là nhu cầu tất yếu khách quan đối với các hình thái
kinh tế - xã hội và là một trong những công cụ quản lý kinh tế quan
trọng, phục vụ đắc lực và hữu hiệu nhất.

12



1.1.2. Phân loại kế tốn
Kế tốn là cơng cụ quan trọng không thể thiếu trong hệ thống công
cụ quản lý kinh tế. Để sử dụng kế toán phục vụ quản lý có hiệu quả cao,
cần phải hiểu rõ nội dung, phạm vi, mục đích... của kế tốn tức là phải

hiểu rõ về các loại kế tốn. Kế tốn có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
* Theo cách thức ghi chép, thu nhận thơng tin, kế tốn được

chia thành:

- Kế toán ghi đom: là loại kế toán thực hiện việc ghi chép thu nhận
thông tin về các nghiệp vụ kinh tế, tài chính một cách độc lập, riêng biệt
theo từng đối tượng kế toán. Kế toán ghi đơn không phản ánh được mối
quan hệ giữa các đối tượng kế toán khác nhau.

Kế toán ghi đơn được thực hiện ngay từ thời kỳ đầu hình thành kế

tốn, để ghi chép các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hố. Ngày nay,
kế tốn ghi đơn vẫn cịn được thực hiện để ghi chép, phản ánh thông tin
về các hoạt động kinh tế, tài chính có liên quan đến tài sản của đơn vị

một cách chi tiết, cụ thể, đáp ứng yêu cầu quản lý.
- Ke toán ghi kép: là loại kế toán thực hiện việc ghi chép, thu nhận

các thơng tin về các nghiệp vụ kinh tế, tài chính theo đúng nội dung, sự

vận động biện chứng giữa các đối tượng kế toán.


Kế toán kép được thực hiện vào thời kỳ mà kế tốn đã có những
bước phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Và
ngày nay, kế toán kép được thực hiện rất phổ biến để ghi chép, thu nhận

thông tin về hoạt động kinh tế, tài chính có liên quan đến tài sản, nguồn
vốn của đơn vị ở mức độ tổng quát, đáp ứng nhu cầu quản lý.

* Theo mức độ, tính chất của thơng tin, kế tốn được chia thành:

- Kế tốn tổng họp: là loại kế tốn mà thơng tin kế toán được ghi
chép, thu nhận theo những chỉ tiêu kmh tế tổng họp, bằng thước đo giá trị.

13


- Kế toán chi tiết', là loại kế toán mà thông tin được thu nhận, xử lý
và cung cấp ở dạng chi tiết, cụ thể về 1 chỉ tiêu tổng hợp do kế toán tổng
họp thực hiện. Các chỉ tiêu chi tiết có thể được biểu hiện bằng thước đo
tiền tệ, hiện vật hoặc thước đo lao động.
{*\heo phạm vi thơng tín kể tốn cung cấp, kế tốn được chia thành:
- Ke tốn tài chính: là loại kế tốn thu thập, xử lý, kiểm tra, phân
tích và cung cấp thơng tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho
các đối tượng có nhu cầu sử dụng thơng tin của đơn vị kế toán.

Sản phẩm của kế toán tài chính là hệ thống báo cáo tài chính của
đơn vị. Vì vậy, đối tượng chủ yếu sử dụng thơng tin do kế tốn tài chính
cung cấp là nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng, chủ nợ, cổ đông... ở
bên ngồi đơn vị kế tốn. Kế tốn tài chính thường sử dụng một loại

thước đo là thước đo giá trị.


- Kế toán quản trị: là loại kế toán thu thập, xử lý, phân tích và cung
cấp thong tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh
tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế tốn.
Sản phẩm của kế toán quản trị là các báo cáo về từng mặt, từng bộ

phận của quá trình hoạt động kinh doanh, phục vụ chức năng quản lý nội
bộ đơn vị: lập kế hoạch, điều hành thực hiện, kiểm tra đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch, giúp đơn vị kinh doanh đúng hướng, khai thác và sử
dụng có hiệu quả toàn bộ nguồn lực của đơn vị. Như vậy, đối tượng sử
dụng thơng tin của kế tốn quản trị là các nhà quản trị các cấp trong nội
bộ đơn vị kế toán. Các chỉ tiêu chi tiết của kế tốn quản trị có thể được
biểu hiện bằng cả 3 loại thước đo.
(^Theo tính chẩt và nội dung nghiệp vụ chun mơn, kế tốn
được chia thành:
- Kế tốn cơng: là loại kế toán được tiến hành ở những đơn vị hoạt
động khơng có tính chất kinh doanh, khơng vì mục đích lợi nhuận.

Kế tốn cơng được sử dụng ở các đơn vị hành chính, sự nghiệp của
các Bộ, Sở, Ban, ngành, các tổ chức Nhà nước, đoàn thể xã hội,...

14


- Kế toán doanh nghiệp: là loại kế toán được tiến hành ở các đơn vị
hoạt động có tính chất kinh doanh, vì mục đích lợi nhuận. Đó chính là
các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực, các thành phần kinh tế.

1.1.3. Vai trị của kế tốn


Kế tốn là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp tồn bộ thơng tin
về hình tình tài sản và sự vận động của tài sản (các hoạt động kinh tế, tài
chính) trong các đơn vị. Kế tốn hình thành và phát triển gắn liền với sự
phát triển của sản xuất xã hội. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, kế
toán càng cần thiết và trở thành công cụ quản lý kinh tế hiệu quả, khống
thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý kinh tế, tài chính. Có thể
phân tích vai trị của kế tốn qua các khía cạnh sau:

- Nhờ có kế tốn mà các đơn vị kế tốn có thể qn lý chặt chẽ tình
hình hiện có cũng như việc sử dụng các tài sản của đơn vị một cách
hiệu quả.

Kế toán thực hiện việc ghi chép, theo dõi, giám sát thường xun,
liên tục tình hình hiện có, tình hình biến động (tăng, giảm; nhập, xuất;
thu, chi; vay, trả...) của tất cả mọi tài sản và nguồn hình thành các tài sản
của đơn vị kế tốn. Nhờ đó mà kế toán giúp cho các nhà quản lý đơn vị

quản lý chặt chẽ tài sản của đơn vị, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp
thời những hành vi tham ơ, lãng phí, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến

tài sản của đơn vị.
- Thơng tin do kế tốn cung cấp là nguồn thông tin quan trọng,
trung thực, khách quan, chiếm tỷ trọng lớn ữong dịng thơng tin đầu vào
của quá trình quản lý giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt chức năng
quản lý của mình.
Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế,
nhiều loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động do đó ln có sự cạnh
tranh gay gắt. Trong điều kiện đó, để tồn tại và phát triển được, các đơn

vị phải xác định mục tiêu hoạt động phù hợp với năng lực, trình độ của

mình, chủ động trong hoạt động kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và có hiệu

15


quả tài sản, nguồn vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Muốn vậy,
đòi hỏi các đơn vị phải tổ chức thu nhận thơng tin đầy đủ, nhanh chóng,
kịp thời về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, từ đó giúp nhà
quản lý đưa ra những quyết định kinh tế phù hợp và hữu hiệu. Ngoài ra,
từ những thơng tin do kế tốn cung cấp, các cơ quan quản lý Nhà nước,
các cá nhân, tổ chức quan tâm đến hoạt động của đơn vị nắm được tình
hình về tài sản, chi phí, kết quả và hiệu quả hoạt động của đơn vị để thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước và đề ra các quyết định quản lý, kinh
doanh đúng đắn, có hiệu quả.
- Kế tốn cịn tiến hành phân tích và xử lý thơng tin, giúp cho nhà
quản lý đánh giá chính xác, đúng đắn mức độ hoàn thành của các chỉ tiêu
kinh tế (về sản lượng tiêu thụ, về doanh thu, về lợi nhuận,...), phát hiện
những yếu kém ưong hoạt động kinh tế của đơn vị để có những biện
pháp khắc phục kịp thời, phát hiện những thế mạnh, tiềm năng chưa được
khai thác hết làm cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cho đơn vị.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, nền
kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, được quản lý theo cơ chế thị
trường, có sự điều tiết của Nhà nước, hoạt động kế toán ưong các đơn vị
thực hiện việc thu nhận, kiểm tra, xử lý, cung cấp thông tin về các hoạt
động của đơn vị và toàn xã hội là hết sức quan trọng. Với vaỉ trị này,
người ta coi kế tốn là quy tắc đầu tiên của quản lý, khơng có kế tốn thì
khơng thể quản lý kinh tế được. Đến nay, kế toán đã trở thành một hoạt
động quản lý khoa học không thể thiếu trong quản lý kinh tế ở mỗi doanh
nghiệp, mỗi ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.


1.2. CÁC KHÁI NEỆM VÀ NGUYÊN TẮC KÉ TOÁN cơ BẢN
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản của kế toán
* Khái niệm đơn vị kế toán

Đơn vị kế toán là đơn vị mà ở đó có sự kiểm sốt các nguồn lực, tài
sản và tiến hành các hoạt động kinh doanh cùng quá trình ghi chép, tổng

họp và báo cáo.
16


Đơn vị kế toán là một khái niệm căn bản nhất trong kế toán, quy

định phạm vi giới hạn của đơn vị được kế toán. Khái niệm đơn vị kế toán

quy định các nghiệp vụ của mỗi đơn vị phải được tổ chức kế toán riêng

biệt với các nghiệp vụ của những tổ chức, đơn vị và cá nhân khác. Có thể
nói, khái niệm đơn vị kế tốn chỉ rõ, các tài khoản kế toán được đơn vị

lập ra để ghi chép cho chính đơn vị đó, chứ khơng phải cho các chủ nhân
hoặc những người có liên quan đến nó. Như vậy, những nghiệp vụ khơng

ảnh hưởng đến đơn vị kế tốn thì các kế tốn viên khơng phải ghi chép.
Trong cơ cấu nền kinh tế - xã hội, các đơn vị kế toán gồm:

- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí
ngân sách Nhà nước;


- Đơn vị sự nghiệp, tổ chức khơng sử dụng kinh phí ngân sách
Nhà nước;

- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và
hoạt động theo pháp luật; chi nhánh văn phòng đại diện của doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;

- Hợp tác xã;
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ họp tác.
* Khái niệm kỳ kế toán

Hoạt động của các đơn vị kế toán diễn ra liên tục, năm này qua năm
khác. Nếu chờ đến khi tất cả các hoạt động này ngừng lại, khi đó kế tốn

mới lập các báo cáo tài chính thì thơng tin trên báo cáo tài chính do các
đơn vị kế tốn cung cấp sẽ khơng có tác dụng cho sự quản lý điều hành

của các nhà quản lý. Do đó, để cung cấp kịp thời các thơng tin cần thiết,
kế tốn phải phân chia hoạt động liên tục của đơn vị kế tốn thành các

kỳ, có độ dài thời gian bằng nhau để dễ dàng so sánh, đánh giá, kiểm tra
tình hình hoạt động trong từng kỳ của đơn vị kế toán.

17


Kỳ kế toán là khoảng thời gian xác định từ thời điểm đơn vị kế toán
bắt đầu ghi sẻ kế toán đến thời điểm kết thúc việc ghi sổ kế tốn, khóa sổ
kế tốn để lập báo cáo tài chính.
Khái niệm này dựa trên giả thiết là hoạt động của đơn vị kế toán sẽ

ngừng lại vào một thời điểm nào đó để kế tốn có thể lập các báo cáo tài
chính, tổng kết tình hình và kết quả hoạt động mà đơn vị kế tốn đã đạt
được tính đến thời điểm đó. Kỳ kế tốn được xác định dựa vào sự phân
chia thời gian của năm dương lịch. Theo quy định chung, kỳ kế tốn
chính thức là 1 năm (12 tháng) - gọi là niên độ kế tốn. Ngồi ra, tùy
theo yêu cầu quản lý, các quốc gia, đơn vị có thể quy định các kỳ kế tốn
tạm thời như tháng, quý, nửa năm. Cụ thể quy định hiện hành về kỳ kế

toán tại Việt Nam:

+ Kỳ kế toán năm là mười hai tháng, tính từ đầu ngày 01 tháng 01
đến hết ngày 31 tháng 12 năm dương lịch. Đơn vị kế tốn có đặc thù
riêng về tổ chức, hoạt động kinh doanh được chọn kỳ kế toán năm là
mười hai tháng trịn, nhưng khơng bắt buộc phải đúng theo nãm dương
lịch, có thể bắt đầu từ đầu ngày 01 tháng đầu tiên của quý đến hết ngày
cuối cùng của tháng cuối quý trước của năm sau và thông báo cho cơ
quan tài chính biết.
+ Kỳ kế tốn q là ba tháng, tính từ đầu ngày 01 tháng đầu quý
đến hết ngày cuối cùng của tháng cuối quý.

+ Kỳ kế tốn tháng là một tháng, tính từ đầu ngày 01 đến hết ngày
cuối cùng của tháng.
Đối với mỗi kỳ kế toán tháng, quý, năm, đơn vị kế toán sẽ lập Báo

cáo tài chính (BCTC) tương ứng là BCTC tháng, BCTC quý và BCTC
năm, tùy theo yêu cầu quản lý của đơn vị.
* Khái niệm thước đo tiền tệ

Thước đo tiền tệ là sử dụng đơn vị tiền tệ để đo lường các loại tài


sản, hàng hoá, vật tư và các hoạt động của đơn vị. Sử dụng khái niệm
này, kế toán giả thiết rằng sự thay đổi của sức mua tiền tệ là không đủ
18


lớn để ảnh hưởng đến việc đo lường của kế tốn. Điều này cũng có
nghĩa, kế tốn chỉ phản ánh những đối tượng có thể biểu hiện được
bằng tiền.

Thước đo tiền tệ là thước đo được sử dụng chủ yếu trong ghi chép
kế tốn và lập báo cáo tài chính. Các đơn vị kế toán phải sử dụng đơn vị
tiền tệ thống nhất là đọng tiền do Nhàrụrởc sở tại quy định, Trong trường
hợp nghiệp vụ kinh_tế_phát sinh liên quan đến các đồng, tiền khác, cần
phải quy đổi về đơn vi tiền tê đã quy ,định để. ghi chép theo các nguyên
tẳc nhất định.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của kế tốn

Kế tốn là một mơn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp các
thông tin về tài sản, sự vận động của tài sàn trong các đơn vị nhằm kiểm
tra, giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế, tài chính của các
đơn vị đó. Thơng tin kế tốn cịn cần cho rất nhiều đối tượng khác nhau,
mặt khác một đối tượng nào đó có thể cần thơng tin kế tốn của nhiều
đơn vị khác nhau - thơng tin kế tốn phải đảm bảo vai trị là “ngơn ngữ
kinh doanh”. Do đó, để các đối tượng sử dụng thơng tin kế tốn có chung
một cách đánh giá về thơng tin trên báo cáo tài chính của các đơn vị kế
tốn thì cần phải đặt ra những nguyên tắc hướng dẫn thực hành việc ghi

chép, xử lý và trình bày thơng tin trên các báo cáo tài chính.
Các ngun tắc kế tốn được đúc rút từ những kinh nghiệm thực
tiễn tổ chức quản lý công tác kế tốn, cũng như hoạt động của người thực

hiện cơng tác kế toán và kết hợp với sự nghiên cứu của các cơ quan chức
năng, các chuyên gia kế toán. Do đó, các ngun tắc kế tốn được thừa
nhận là những tuyên bổ chung như những chuẩn mực, mực thước và
những hướng dẫn để phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính đạt được
các mục tiêu đầy đủ, dễ hiểu, đáng tin cậy và dễ so sánh.

I.2.2.I. Nguyên tẳc cơ sờ dồn tích (Accrual basicprincỉpíe)
Nguyên tắc cơ sở dồn tích quy định mọi nghiệp vụ kinh tế, tài
chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ

19


sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi nhận vào thời điểm phát sinh,
không căn cứ vào thời điểm thực tế thu, chi tiền hoặc các khoản tương
đương tiền (vàng, bạc, đá quý, chứng khoán ngắn hạn,...).

Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở dồn tích, phản ánh tình hình

tài chính của doanh nghiệp trong q khứ, hiện tại và tương lai.

Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong q trình kế tốn của doanh
nghiệp. Ngun tắc cơ sở dồn tích đối lập với nguyên tắc cơ sở tiền mặt.
Theo cơ sở tiền mặt thì mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp chỉ được ghi nhận khi thực tế thu, chi tiền. Báo cáo tài chính lập
theo cơ sở tiền mặt sẽ không phản ánh đúng thực tế kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, hệ thống kế toán doanh nghiệp

Việt Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới quy định các doanh
nghiệp phải ghi chép kế toán và lập Báo cáo tài chính theo cơ sở dồn

tích.

L2.2.2. Nguyên tắc hoạt động liên tục (Going concern)

Một doanh nghiệp khi thành lập đi vào hoạt động, sẽ chỉ có thể xảy

ra 2 khả năng:

• Sẽ tiếp tục hoạt động liên tục, hay ít nhất sẽ không bị giải thể
hoặc ngừng hoạt động trong tương lai gần.

• Ngừng hoạt động.
Kế tốn thừa nhận khả năng doanh nghiệp hoạt động liên tục.
Theo nguyên tắc này, Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở giả

định doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động bình
thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp khơng có ý định, cũng
như khơng buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt

động của mình.

Giả thiết doanh nghiệp_-hoạt động4iên-tục^liên- quan dển-việc phản
ánh tài sản, thu nhập, chi phí cùa doanh nghiệp theo giá gốc, không phản

20


ánh theo giá trị thị trường. Mặc dù, giá trị thị trường của những tài sản
mà doanh nghiệp mua vê để tồn trữ hoặc đang sử dụng cho muc đích
kinh doanh có thể thay đổi theo thời gian. Giả thiết này được đặt ra với


lập luận doanh nghiệp hoạt động liên tục nên tài sản được sử dụng để
hoạt động sản xuất kinh doanh và không được bán, nên giá thị trường của

tài sản là khơng thích hợp và khơng cần thiết để phản ánh. Mặt khác, nếu
phản ánh tài sản theo giá thực tế, báo cáo tài chính của đơn vị chỉ phàn
ánh được tình hình tài chính của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại mà

thôi. Mặt khác, nguyên tắc này còn làm cơ sở cho các phương pháp tính
hao mịn để phân chia giá trị tài sản cố định vào các chi phí hoạt động

của doanh nghiệp theo thời gian'hoạt động của nó.

Tuy nhiên, khi một doanh nghiệp chuẩn bị bán, sát nhập, giải thể...
thì nguyên tắc hoạt động liên tục sẽ không-được vận dụng vào việc lập

các báo cáo tài chính. Trong hường hợp này3 các tài sản của doanh
nghiêp_sẽ-phải-phảnánh theo_gịá trị thị trưcrng^

1.2.2.3. Nguyên tắc giả gổc (Cost prìnciple)
Theo nguyên tắc này, tài sản được ghi nhận theo giá gốc. GiíLgổÊ

tài sản -được tính thẹo SQ_tiền- hoặc khoản tương đương tiền đã hà, phải
trả hoặc tínhtheo giátrị hợp lý của tài sản dó vào thời điểm tàísân_dươc
ghi nhận. Như vậy, khi vận dụng nguyên tăc giá gốc, chi dược đánh giả
giá trị tài sán dựa trên căn cử tiền mặt hoặc tương đương tiền măt. Nếu
vật đền bù cho một tài sản hoặc dịch vụ là tiền mặt thì chi phí được đánh
giá theo số tiền mặt chi ra để có được tài sản hoặc dịch vụ đó. Nếu vật
đền bù cho một tài sản hoặc dịch vụ không phải là'tiền mặt (tài sản khác,


tài trợ...) thì chi phí được đánh giá theo giá trị tiền mặt tương đương giá
thị trường của vật trao đổi hoặc vật nhận được.

Nguyên tắc giá gốc được quy định ứên nền tảng của nguyên tắc
hoạt động liên tục. Với giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục, nên
trên Báo cáo tài chính, giá trị các chỉ tiêu về tài sản, cồng nợ, chi phí...

21


được phản ánh theo giá ở thời điểm mua tài sản đó, khơng phải giá trị tại

thời điểm xác định giá tài sản tính theo giá thị trường.

1.2.2.4. Nguyên tắc phù hợp (Matching principle)
. Nguyên tắc phù hợp quy định, việc ghi nhận doanh thu và chi phí

phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận 1 khoản doanh thu, phải ghi nhận 1
khoản chi phí tương ứng liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó.
Chi phí tương ứng với doanh thu bao gồm:

• Chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, đó là các chi phí đã phát sinh
thực tế trong kỳ và liên quan đến việc tạo ra doanh thu của kỳ đó.

• Chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan
đến doanh thu của kỳ đó.
Như vậy, chi phí được ghi nhận trong kỳ là tồn bộ các khoản chi
phí liên quan đến việc tạo ra doanh thu và thu nhập của kỳ đó, khơng phụ

thuộc khoản chi phí đó được chi ra trong kỳ nào.


Quy định hạch toán phù hợp giữa doanh thu và chi phí nhằm xác
định và đánh giá đúng kết quả hoạt động kinh doanh của từng kỳ kế tốn,
giúp cho các nhà quản trị có những quyết định kinh doanh đúng đắn và
có hiệu quả.

1.2.2.5. Nguyên tắc nhất quán (Consistency principle)
Theo nguyên tắc nhất quán, các chính sách, phương pháp kế toán
doanh nghiệp đã chọn phải được áp dụng nhất quán từ kỳ này sang kỳ
khác. Chỉ nên thay đổi chính sách và phương pháp kế tốn khi có lý do
đặc biệt và ít nhất phải sang kỳ kế tốn sau. Trường hợp có sự thay đổi
chính sách và phương pháp kế toán đã chọn, phải giải trình lý do và cơng
bố đầy đủ ảnh hưởng của sự thay đổi đó về giá trị trong các báo cáo

tài chính.

Thơng tin về đơn vị kế tốn trên Báo cáo tài chính là cơ sở quan
trọng để các đối tượng sử dụng thơng tin nhận thức đúng về tình hình tài

22


chính làm cơ sở đề ra các quyết định kinh doanh. Do đó, những thơng tin
này phải mang tính ổn định và có thể so sánh được giữa các kỳ với nhau,
giữa kế hoạch, dự toán với thực hiện... Nguyên tắc nhất qn sẽ đảm bảo
cho thơng tin kế tốn có được tính chất trên.
1.2.2.6. Ngun tắc thận trọng (Conservatismprincìple)

Thận trọng là việc phải xem xét, cân nhắc, có những phán đốn cần
thiết để lập các ước tính kế tốn trong các điều kiện không chắc chắn.

Nguyên tắc thận trọng yêu cầu việc ghi tăng vốn chủ sở hữu chỉ được
thực hiện khi có bằng chứng chắc chắn, cịn việc ghi giảm vốn chủ sở
hữu phải được ghi nhận ngay từ khi có chứng cứ về khả năng có thể xảy
ra. Cụ thể:

+ Phải lập các khoản dự phòng đúng nguyên tắc quy định.
+ Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản
thu nhập.
+ Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và
chi phí.

+ Doanh thu và thu nhập chỉ ghi nhận khi có các bằng chứng
chắc chắn.
+ Chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát
sinh chi phí.

Tuân thủ nguyên tắc thận trọng sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo toàn
nguồn vốn, hạn chế rủi ro và tăng khả năng hoạt động liên tục.

1.2.2.7. Nguyên tắc trọng yếu (Materialism principle)

Nguyên tắc trọng yếu chỉ rõ kế toán phải thu thập, xử lý và cung
cấp đầy đủ những thơng tin có tính chất trọng yếu, cịn những thơng tin
khơng trọng yếu, ít có tác dụng hoặc có ảnh hưởng khơng đáng kể tới
quyết định của người sử dụng thơng tin thì cỏ thể bỏ qua.

Thơng tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thơng
tin hoặc thiếu độ chính xác của thơng tin đó có thể làm sai lệch đáng kể
23



báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử
dụng thơng tin. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của
thơng tin hoặc các sai sót kế tốn được đánh giá trong hồn cảnh cụ thể.
Tính trọng yếu của thơng tin phải được xem xét trên cả phương diện định
lượng và định tính. Vận dụng ngun tắc này, những khoản mục có cùng
nội dung, bản chất kinh tế, không phụ thuộc vào quy mơ có thể được gộp

lại thành một khoản mục trình bày ưên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, vẫn
có những khoản mục, có thể quy mơ rất nhỏ nhưng lại có nội dung, bản
chất kinh tế riêng biệt mang tính trọng yếu phải trình bày riêng biệt trên
báo cáo tài chính.

1.3. YÊU CẢU, CHỨC NĂNG, NHIỆM vụ CỦA KÉ TỐN
1.3.1. u cầu cơ bản của kế tốn
Để phát huy và thực hiện được vai trị là cơng cụ quản lý quan
trọng, hiệu quả, quá trình thu thập, xử lý và cung cấp thơng tin của kể
tốn phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Đầy đủ: Phải phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát
sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính.

Nếu thơng tin kế tốn cung cấp khơng đầy đủ có thể dẫn đến sự
nhận thức sai lệch, phân tích đánh giá khơng đúng đắn hoạt động của đơn
vị, từ đó đưa ra những quyết định khơng phù hợp, không đem lại hiệu
quả cho đơn vị và xã hội.
- Kịp thời: Phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định thơng tin, số
liệu kế tốn.

Thơng tin về hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế tốn phải
được báo cáo trung thực, đầy đủ và kịp thời mới đáp ứng yêu cầu và giúp

cho công tác quản lý phát hiện tồn tại, yếu kém để tìm biện pháp khắc
phục, phát huy thế mạnh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Rõ ràng, dễ hiểu và chính xác: Thơng tin, số liệu kế tốn phải
được phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác.

24


×