Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự ở viện kiểm sát nhân dân tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.05 KB, 126 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cải cách tư pháp ngày
càng được chú trọng và đẩy mạnh, phù hợp với xu thế cải cách hành chính,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế và xu thế phát triển thời đại. Thực tế đã chứng minh rằng, muốn
thành cơng trong q trình tăng trưởng, hội nhập và phát triển, nhất thiết cần
phải có sự phát huy đồng bộ của nhà nước trên cả ba lĩnh vực: Lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội. Ở
nước ta, quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất và có sự giám sát chặt chẽ,
bảo đảm q trình thực hiện quyền lực nhà nước - quyền lực nhân dân một
cách đúng đắn. Trong đó, hoạt động của VKS với chức năng là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp đã góp phần không nhỏ
để bảo đảm pháp luật được thực thi, kỷ cương phép nước được giữ gìn, pháp
chế XHCN được thống nhất.
Tuy nhiên, trước u cầu địi hỏi của cơng cuộc đổi mới, hoạt động của
ngành Kiểm sát đã và đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế, lạc hậu so với mục
tiêu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Một trong những biểu hiện của
những hạn chế đó là chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp chưa cao, cịn tình trạng truy tố oan, sai, lọt người, lọt
tội; tỷ lệ án truy tố bị toà án trả lại hoặc án kết thúc điều tra không đủ điều
kiện truy tố phải trả lại để điều tra bổ sung tuy đã giảm nhưng chưa triệt để;
hoạt động giám sát quá trình tác nghiệp đối với những người tiến hành tố tụng
và các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu chặt chẽ, thiếu phương pháp, thiếu
tính thuyết phục và ít phát hiện được sai sót để kiến nghị khắc phục v.v.. Hoạt
động tranh tụng tại phiên toà chưa được chú trọng, vẫn mang nặng hình thức.


2


Phiên toà chủ yếu diễn ra theo hướng các cơ quan tiến hành tố tụng thẩm vấn
kết tội đối với người phạm tội. Người phạm tội thường phải tự mình bào chữa
để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Số vụ án xét xử có luật sư
tham gia bào chữa chiếm tỉ lệ thấp. Điều đó đồng nghĩa với việc ngành Kiểm
sát chưa thực hiện trọn vẹn chức năng nhà nước giao cho, chưa đảm bảo được
tiến độ cải cách tư pháp.
Từ thực tế đó cho thấy, việc bảo đảm chất lượng tranh tụng tại phiên
toà, tạo mọi điều kiện cần thiết để các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện được
quyền tranh luận dân chủ, công khai và công bằng để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên là một yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ phải
"Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác...". Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “nâng cao chất lượng
tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp”.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự ở Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Ninh" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong tố tụng hình sự, hoạt động tranh tụng giữa các chủ thể có liên
quan trong quá trình xử lý tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề khơng
phải mới trong khoa học pháp lý và được ghi nhận thành nguyên tắc của tố
tụng hình sự và áp dụng phổ biến hầu hết ở các nước trên thế giới. Ở nước ta
tranh tụng chưa được quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành, chỉ được thể hiện tại một số điều của Bộ luật.



3
Vì vậy, những vấn đề liên quan đến tranh tụng, bảo đảm tranh tụng dân
chủ, công khai giữa các chủ thể, trong đó có vai trị của Kiểm sát viên khi
thực hành quyền cơng tố tại phiên tồ xét xử án hình sự, đã và đang thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý, đáng chú ý là các cơng
trình khoa học sau:
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng trong
tố tụng hình sự”, năm 1996. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự
cần thiết trong hoạt động tranh tụng, đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ
tố tụng tại phiên toà xét xử án hình sự.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Long về “Thực hiện pháp
luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử án hình sự sơ thẩm ở Việt
Nam hiện nay”, năm 2005. Qua nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các
khái niệm về tranh tụng; vai trò, đặc điểm của tranh tụng và nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử hình sự. Từ đó, đề xuất các giải pháp đảm bảo tranh tụng
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Anh Phương “Năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tồ xét xử sơ thẩm
hình sự ở Việt Nam hiện nay”, năm 2007. Nội dung của luận văn đã phân tích
và đánh giá một cách hệ thống cơ sở lý luận năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên; các tiêu chí đánh giá và thực trạng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố tại phiên tồ xét xử sơ thẩm hình sự ở Việt Nam
hiện nay và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm
sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Võ Thị Hồng Luyến “Hoạt động tranh
tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tồ
xét xử hình sự sơ thẩm”, năm 2010. Nội dung của luận văn đã phân tích và
đánh giá một cách hệ thống cơ sở lý luận về hoạt động tranh tụng của Kiểm



4
sát viên; các tiêu chí đánh giá và thực trạng về tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên tồ xét xử sơ thẩm hình sự ở tỉnh Quảng
Ngãi hiện nay và đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực tranh tụng của
Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Phan Thu Hằng “Đảm bảo chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử các vụ án Hình sự ở tỉnh Hà
Nam”, năm 2010.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Anh Cường “Cơ sở lý luận và thực
tiễn về tranh tụng tại phiên tồ trong xét xử án hình sự ở tỉnh Vĩnh Phúc”,
năm 2010.
- Luận văn thạc sỹ luật học của Mai Thị Nam “Chất lượng tranh tụng
tại phiên tồ xét xử sơ thẩm hình sự của KSV Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Thanh Hoá hiện nay”, năm 2008.
- Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát
nhân dân tối cao “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt
động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, năm 1999. Đề tài đã tập hợp
những nghiên cứu so sánh những vấn đề lịch sử và thực tiễn của chế định
quyền công tố trong tư pháp hình sự trên thế giới, cũng như phân tích khoa
học các đặc điểm chủ yếu của từng chức năng thực hiện quyền cơng tố trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra khái niệm khoa học về quyền cơng tố
nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp Bộ Tư pháp về “Tranh tụng tại phiên toà - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, năm 2003. Nội dung của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến
tranh tụng tại phiên toà; đánh giá thực trạng thực hiện tranh tụng và đề ra giải
pháp nhằm tăng cường tranh tụng tại phiên toà, định hướng cho việc xây dựng
và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh tư pháp ở nước ta.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh



5
tụng tại phiên toà”, năm 2004. Nội dung chỉ ra một số vấn đề lý luận cơ bản
về hệ thống tranh tụng qua phương pháp so sánh với hệ thống tố tụng thẩm
vấn và những quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự cần sửa đổi bổ sung để
đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học Kiểm sát Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt
động công tố ở Việt nam từ năm 1945 đến nay" - 1999, đã tập hợp những
nghiên cứu, so sánh những vấn đề lịch sử và thực tiễn của chế định quyền
công tố trong tư pháp hình sự trên thế giới, cũng như việc phân tích khoa học
các đặc điểm chủ yếu trong mỗi chức năng của quyền công tố trong luật Tố
tụng hình sự Việt nam và đưa ra khái niệm khoa học về Quyền cơng tố nhằm
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt nam.
- Hai cuốn “Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm” và “Tranh luận tại
phiên toà phúc thẩm” của Tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp năm
2007, 2009. Đề cấp những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật về các
trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đề việc tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm
và phúc thẩm, có các ví dụ minh hoạ bằng những vụ án thực tế, chỉ rõ những
tồn tại thiếu sót và những việc cần phải làm của Kiểm sát viên trong tranh
luận tại phiên toà.
- “Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm hình sự
liên quan đến phụ nữ”, Nxb Cơng an nhân dân năm 2007 của nhóm nghiên
cứu Viện kiểm sát nhân dân Tối cao với nội dung dẫn chứng từ cơng ước
CEDAW và Luật bình đẳng giới của Việt Nam, tuyển chọn một số bản luận
tội, bản đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm hình sự
liên quan đến phụ nữ đã góp phần khắc phục những khuyết điểm, tồn tại của
hoạt động thực hành quyền cơng tố. Trong đó có hoạt động tranh luận của
Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự nói chung và phiên tồ hình sự sơ thẩm có

liên quan đến phụ nữ nói riêng.


6
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao do tiến sỹ Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm: “Những giải pháp
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà của Kiểm sát viên”, năm 2005.
Đề tài đã làm rõ nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, NQ 49
của Bộ chính trị. Đồng thời xây dựng những luận cứ khoa học góp phần từng
bước tạo ra sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về tranh tụng và vai trò của
Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà.
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt
Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” của Viện khoa học kiểm sát Viện Kiểm
sát nhân dân Tối cao do tiến sỹ Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm, năm 2008. Nội
dung đề tài góp phần làm rõ hơn tinh thần, nội dung tranh tụng được nêu
trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ chính trị. Đồng thời xây dựng những luận cứ
khoa học, đánh giá khái quát một số vấn đề thuộc nội dung hoạt động tranh
tụng cả về phương diện pháp luật, cả về thực tiễn. Từ đó, đề xuất các giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng của hệ
thống tố tụng hình sự Việt Nam.
- Bài đăng tải trong Tạp chí kiểm sát số 08 năm 2006 của tiến sỹ Phạm
Hồng Hải về: “Thực trạng tranh tụng trong phiên tồ hình sự của Kiểm sát
viên dưới góc độ Luật sư”. Bài viết nêu ra những mặt làm được và chưa làm
được qua hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại
phiên tồ và những u cầu khắc phục đó nâng cao chất lượng tranh tụng.
Tuy còn nhiều bài viết khác được đăng tải trên các Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, tạp chí luật học, thơng tin khoa học pháp lý, tạp chí kiểm sát, tạp chí
Tồ án nhân dân… Nhìn chung, nội dung các đề tài phần nhiều xoay quanh
nghiên cứu hoạt động tranh tụng ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm, cịn mảng tranh

tụng tại phiên tồ phúc thẩm hình sự ít được đề cập và đến nay chưa có cơng
trình nào nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện vấn đề về nâng cao chất


7
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự ở
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Các cơng trình, bài viết đã được
nghiên cứu nêu trên là nguồn tư liệu phong phú, là tài liệu tham khảo có giá trị
cho học viên thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên tại các phiên toà xét xử các vụ án hình sự hiện nay,
luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự ở Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại
phiên tồ hình sự;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Quảng Ninh;
- Đề xuất hệ thống giải pháp đảm bảo chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan đến chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
toà xét xử các vụ án hình sự.
- Từ thực tiễn cơng tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm và phúc thẩm ở tỉnh Quảng Ninh, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tồ

hình sự, khơng đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng
dân sự. Đề tài cũng không đề cập đến hoạt động tranh tụng trong các cơ quan
tư pháp quân sự.


8
Do điều kiện thời gian, luận văn chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề
liên quan đến đề tài trong khoảng thời gian 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật
nói chung và các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp nói
riêng. Đồng thời, luận văn có dựa trên cơ sở lý luận khoa học luật tố tụng
hình sự, những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật theo hệ thống
tố tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng thẩm vấn.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phân tích - tổng hợp, so sánh,
thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống và toàn diện về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tồ
hình sự ở tỉnh Quảng Ninh, vì vậy có những đóng góp khoa học sau:
- Luận văn nghiên cứu, phân tích, bàn luận, bổ sung thêm những quan
điểm, tư duy mới về tranh tụng, các yếu tố cấu thành năng lực tranh tụng tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự.
- Luận văn đã chỉ rõ đặc điểm, xác định được các tiêu chí đánh giá và
các điều kiện bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà
xét xử các vụ án hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Quảng Ninh, trên
cơ sở đó chỉ ra những nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng hoạt động trong lĩnh vực này.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn làm phong phú thêm kho tàng lý luận
chung về nhà nước và pháp luật. Đồng thời, luận văn là tài liệu tham khảo để


9
các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu trong quá trình hồn thiện các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, cũng như các văn bản pháp luật khác có
liên quan và đưa ra các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên tại các phiên toà.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương, 8 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM
SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
toà xét xử các vụ án hình sự
Khái niệm về tranh tụng nói chung và khái niệm về chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự nói riêng ở
nước ta hiện nay là một trong những khái niệm còn khá mới mẻ. Để hiểu rõ
khái niệm này, trước hết cần phải làm rõ hai khái niệm có liên quan: tranh tụng và

chất lượng.
Trước hết, về khái niệm tranh tụng:
Hiện nay, trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về tranh tụng. Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng được hiểu là “sự kiện
cáo nhau”[27, tr.1288] giữa hai bên, theo đó bên nguyên và bên bị có lập
trường tương phản u cầu Tồ án phân xử. Xét về ngữ, tranh tụng là một từ
Hán Việt được ghép từ “tranh luận” và “tố tụng”. Do đó, suy diễn theo nghĩa
Hán Việt, tranh tụng được xem là tranh luận trong tố tụng. Như vậy, mặc dù
có nhiều cách hiểu khác nhau song tranh tụng được xem là một loại hoạt động
trong quá trình tố tụng.
Theo Từ điển Luật học “tranh tụng tại phiên toà là những hoạt động tố
tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm
bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia,
dưới sự điều khiển, quyết định của Tồ án với vai trị là trung gian, trọng
tài”[28, tr.808].


11
Tài liệu tập huấn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ghi nhận tranh luận
của KSV tại phiên toà sơ thẩm về hình sự là sự trả lời lại, bàn cãi giữa KSV
với bị cáo, với người bào chữa và những người tham gia tố tụng (TGTT) khác
nhằm làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ
của vụ án, giúp Hội đồng xét xử (HĐXX) ra bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Từ các khái niệm trên rút ra: Tranh tụng trong tố tụng hình sự được
hiểu là tổng hợp các hoạt động và kỹ năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau diễn ra tại phiên toà nhằm mục đích xác định sự thật khách
quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có hành vi phạm
tội, bảo vệ pháp chế, pháp luật, giám sát hoạt động tư pháp, bảo vệ công lý.
Một vấn đề cần chú ý trong khái niệm tranh tụng là phạm vi tranh tụng

tại phiên toà, tức là xác định q trình tranh tụng tại phiên tồ được bắt đầu từ
thời điểm nào và kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi
tranh tụng thì mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động
của Kiểm sát viên khi tham gia tranh tụng tại phiên toà. Về vấn đề này, hiện
nay trong khoa học Tố tụng Hình sự (TTHS) ở nước ta cịn có nhận thức khác
nhau. Nhóm quan điểm thứ nhất [19] cho rằng tranh tụng trong tố tụng hình
sự chỉ nằm gọn trong giai đoạn tranh luận tại phiên tồ theo tinh thần Nghị
quyết 08/ quyết, theo đó nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên toà là nâng
cao chất lượng hoạt động tranh luận tại toà và lấy kết quả tranh luận tại phiên
toà để ra bản án, quyết định. Nhóm quan điểm thứ hai [20] cho rằng cho rằng
tranh luận tại phiên toà gắn liền với phiên tồ và khơng chỉ bao gồm phần
tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ
thực sự kết thúc khi Toà tuyên án. Điều đó có nghĩa là q trình tranh tụng tại
tồ được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên toà và bao gồm cả phần thủ tục
phiên toà, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Nhóm quan điểm thứ
ba [21] lại cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên toà được bắt đầu từ thời


12
điểm Kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức là bao gồm
phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Chúng tôi cho rằng quan điểm
thứ nhất đã quá thu hẹp phạm vi tranh tụng. Để có căn cứ tranh luận về vụ án,
các chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu
về vụ án để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng
minh làm căn cứ cho các lập luận của mình khi đề xuất với HĐXX về hướng
giải quyết các vấn đề về vụ án. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh tụng
trong phạm vi tranh luận tại phiên tồ thì chưa xác định được q trình tranh
tụng về vụ án giữa các bên sẽ kết thúc ra sao. Vì vậy, theo quan điểm của
chúng tơi thì tranh luận chỉ là một thủ tục - một phần độc lập của phiên tồ,
trong đó thể hiện tập trung và rõ nét nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có

nội hàm hẹp hơn tranh tụng và chỉ là một bộ phận cấu thành của cả quá trình
tranh tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) (từ Điều 217 đến Điều 221) ghi
nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một phần của phiên toà sơ thẩm, được
tiến hành ngay sau phần xét hỏi.
Theo quan điểm thứ hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao
gồm cả phần thủ tục phiên toà, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Chúng tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng này có thể chấp
nhận được, vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên toà chỉ được coi là
giai đoạn chuẩn bị của q trình tranh tụng. Theo chúng tơi, quan điểm thứ ba
cho rằng q trình tranh tụng tại phiên tồ bao gồm phần xét hỏi, tranh luận,
nghị án và tuyên án là chính xác. Bởi vì, chỉ sau khi HĐXX nghị án và tuyên
án, thì kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà về vụ án mới được xác
định và khi đó q trình tranh tụng tại phiên tồ mới kết thúc. Chúng tơi đồng
ý với quan điểm “tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm bắt đầu từ khi khai mạc
phiên toà và kết thúc khi Toà án cơng bố quyết định, trong đó tranh luận là
giai đoạn thể hiện đậm nét nhất” [24, tr.3] của hoạt động tranh tụng.


13
Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể tại
phiên tồ, có thể phân q trình tranh tụng tại phiên tồ (sơ thẩm) hình sự
thành 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng;
- Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án;
- Giai đoạn tranh tụng giữa các bên;
- Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
Nội dung các hoạt động tranh tụng tại phiên toà xét xử các vụ án hình
sự bao gồm: KSV trình bày luận tội; Bị cáo, người bào chữa, người TGTT
trình bày ý kiến về luận tội của KSV; tranh luận, đối đáp giữa KSV và những
người TGTT tại phiên toà. Trong đó, tranh luận, đối đáp giữa KSV và những

người TGTT tại phiên toà “là hoạt động thể hiện đậm nét nhất, là một giai
đoạn trong tố tụng hình sự, được tiến hành sau phần xét hỏi tại phiên toà ” [30,
tr5330], tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng và thể hiện tính dân
chủ trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, có quan
điểm cho rằng “nâng cao tính tranh tụng trong q trình xét xử án hình sự có
nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận” [11, tr.122.] vì “đây là giai
đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên” [17,
tr.54].
Thứ hai, khái niệm về chất lượng:
Theo Từ điển tiếng Việt chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
con người, sự vật, sự việc. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì chất lượng là “cái
làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật”[40]. Từ điển Bách khoa
Việt Nam định nghĩa chất lượng là:
Phạm trù triết học, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự
vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan
của sự vật. Chất lượng biểu hiện qua bên ngồi các thuộc tính. Nó là
cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật


14
như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật.
Sự vật trong khi vẫn cịn là nó thì khơng thể mất chất lượng của nó.
Sự thay đổi về chất lượng dẫn đến sự thay đổi của sự vật về căn bản.
Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính qui định về số
lượng của nó và khơng thể tồn tại ngồi tính qui định ấy. Mỗi sự vật
bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số lượng [29,
tr.419].
Dưới góc độ triết học chất lượng của sự vật, hiện tượng là một phạm trù
quan trọng của triết học biểu thị thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là
cái gì; tính ổn định hướng tới của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác; Chất

lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngồi
các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó
các sự vật, hiện tượng thành một tổng thể, bao quát và không tách rời khỏi sự
vật và hiện tượng. Chất lượng là yếu tố mà những thay đổi về chất lượng sẽ
kéo theo sự thay đổi của sự vật, hiện tượng. Do vậy, chất lượng của sự vật bao
giờ cũng gắn với tính qui định về số lượng của nó và khơng thể tồn tại ngồi
tính qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và
số lượng [29, tr.419].
Trên cơ sở phương pháp luận triết học, khái niệm chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên nói chung và chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tại các phiên tồ xét xử các vụ án hình sự được xem xét ở
các góc độ sau:
Một là, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tại các phiên tồ xét xử các vụ án hình sự được xác định trong mối tương
quan giữa số lượng đội ngũ KSV tham gia hoạt động tranh tụng với nhiệm vụ
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. Đội ngũ
KSV phải có cơ cấu hợp lý so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Tính hợp lý thể
hiện ở sự gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, trong đó mỗi KSV được phát huy


15
hết năng lực, sở trường của mình, có thể đảm đương hết nhiệm vụ được giao,
bảo đảm cho bộ máy vận hành thơng suốt và hiệu quả. Tính hợp lý về số
lượng biểu hiện ở sự cân đối và phù hợp so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, phù
hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Sự hợp lý
trong cơ cấu KSV sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ, tạo ra sự
năng động, phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động thực tiễn quyết định chất
lượng tranh tụng của KSV tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự.
Hai là, chất lượng tranh tụng của KSV Viện kiểm sát nhân dân tại các
phiên toà xét xử các vụ án hình sự xác định trong mối tương quan giữa số

lượng hồ sơ Viện kiểm sát truy tố và chuyển sang toà án tiến hành xét xử với
số lượng vụ án toà đã thụ lý và tiến hành xét xử. Trong mối tương quan này
chúng ta phải xét dưới góc độ số vụ án đã được xét xử. Cụ thể phải nghiên
cứu, tổng hợp xem số vụ án Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố là bao
nhiêu, số vụ án KSV tham gia tranh tụng là bao nhiêu, số vụ án toà đã tuyên
khác với quan điểm của Viện kiểm sát trong Cáo trạng là bao nhiêu, số vụ án
được kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, số vụ
được chấp nhận là bao nhiêu. Như vậy, khi đánh giá chất lượng tranh tụng của
KSV Viện kiểm sát nhân dân tại các phiên toà xét xử các vụ án hình sự thì
phải xem số vụ án mà KSV tham gia tranh tụng và được giải quyết so với số vụ
án đã thụ lý là bao nhiêu phần trăm so với kế hoạch từng năm của từng đơn vị,
từng ngành. Nếu khơng có sự so sánh, đánh giá, tổng kết sẽ dẫn đến tình trạng
khơng tổng kết đánh giá được mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị,
từng ngành, dẫn đến tình trạng án tồn đọng, vi phạm pháp luật tố tụng, không
đáp ứng được u cầu của cơng tác đấu tranh, phịng chống tội phạm.
Ba là, cùng với yếu tố số lượng thì yếu tố chất lượng khơng thể bỏ qua.
Bởi vì, khi KSV tham gia các hoạt động tranh tụng tại phiên tồ xét xử vụ án
hình sự có chất lượng thì sẽ phản ánh tính đúng đắn, tính chính xác, bảo đảm
tính nghiêm minh, kịp thời, khách quan, dân chủ...qua đó nâng cao vị trí, vai


16
trị của KSV tại phiên tồ. Hơn nữa, nếu KSV tham gia các hoạt động tranh
tụng có chất lượng sẽ có tác dụng tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả không
chỉ đối với bị cáo, những người tham gia phiên tồ mà cịn có tác dụng đối với
tồn xã hội. Đồng thời, sự tham gia các hoạt động tranh tụng có chất lượng
của KSV tại các phiên tồ xét xử các vụ án hình sự bảo đảm được đường lối,
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta: mọi tội phạm đều được phát
hiện và xử lý kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và khơng làm oan người vơ tội. Qua đó thể hiện ý thức trách nhiệm, đạo

đức, lương tâm nghề nghiệp của KSV.
Bốn là, chất lượng tranh tụng của KSV khơng chỉ liên quan đến các cá
nhân mà cịn liên quan tới việc tổng hợp năng lực của các cá nhân mà cụ thể ở
đây là các chủ thể tham gia tranh tụng để biến thành năng lực tập thể của tổ
chức, có như vậy mới phát huy hết hiệu quả cũng như hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Các đối tượng tham gia tranh tụng (KSV, Luật sư, những người
tham gia tố tụng khác) muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có sự phối
hợp tốt giữa các cá nhân, giữa các nhóm cũng như giữa các hoạt động trong
việc tranh tụng và các điều kiện khách quan, chủ quan khác.
Từ phân tích trên có thể hiểu khái niệm chất lượng tranh tụng tại phiên toà
xét các vụ án hình sự của KSV Viện kiểm sát nhân dân như sau: Chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tại phiên toà xét xử các vụ
án hình là sự tổng hợp các kỹ năng và chỉ số, được thể hiện trên các mặt hoạt
động của Kiểm sát viên tham gia tranh tụng, bao gồm chuẩn bị tham gia phiên
toà, xét hỏi, luận tội, tranh luận và các kỹ năng nghiệp vụ khác nhằm đưa người
phạm tội ra Toà án và buộc tội người phạm tội tại phiên toà.
1.1.2. Đặc điểm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tồ xét xử các vụ án hình sự


17
Từ khái niệm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tồ
xét xử các vụ án hình sự như trình bày ở phần trên, có thể thấy, chất lượng
tranh tụng có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án
hình sự là một khái niệm mang tính lịch sử, cụ thể. Tính lịch sử, cụ thể của
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tồ xét xử các vụ án
hình sự thể hiện các khía cạnh:
- Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên toà xét xử các vụ
án hình sự là một hoạt động mang tính chính trị - pháp lý - xã hội. Hoạt động

này tuân theo pháp luật và các chuẩn mực xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy
khơng có tiêu chuẩn chung cho chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên các
phiên toà xét xử các vụ án hình sự chung cho các quốc gia, vì mỗi quốc gia có
một hệ thống pháp luật khác nhau. Trên thế giới có các hệ thống tố tụng khác
nhau với những phương thức xác định sự thật khách quan khác nhau nên tính
chất, phạm vi, mức độ tranh tụng cũng khác nhau” [25, tr.8]. Hoạt động
tranh tụng của Kiểm sát viên các phiên toà xét xử các vụ án hình sự trong mỗi
giai đoạn ấy phải tuân theo những qui định của pháp luật và cả những chuẩn
mực xã hội hiện hành. Thậm chí, cùng một quốc gia, qua các thời kỳ, giai
đoạn lịch sử khác nhau có những quan điểm, yêu cầu khác nhau về năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự phải qn triệt quan điểm
lịch sử, cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia.
Thứ hai, chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án
hình sự là một khái niệm mang tính tổng hợp.
Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tồ xét xử các vụ án hình sự
tn theo các qui định của pháp luật bao gồm các hoạt động như tham gia xét
hỏi, tranh luận, luận tội, đối đáp…nên chất lượng tranh tụng của KSV tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự là sự tổng hợp chất lượng của các hoạt


18
động riêng lẻ của KSV đã kể trên. Như vậy, khái niệm chất lượng tranh tụng
của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự phản ánh phương pháp, kỹ
năng tranh tụng. Để có kỹ năng tranh tụng thì KSV phải có “kiến thức pháp
luật, hiểu biết xã hội, kinh nghiệm thực tiễn, trạng thái tâm lý, bản lĩnh nghề
nghiệp, phương pháp tiến hành trước, trong và sau phiên tồ ” [39]. Hơn
nữa, tính tổng hợp của chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các
vụ án hình sự ở mỗi cấp tỉnh, huyện…cịn được xác định bằng tính tổng hợp
của chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự ở

những đơn vị hợp thành. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV
tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự phải đánh giá một cách tồn diện, đầy
đủ, tránh tình trạng chỉ đánh giá từng hoạt động hoặc từng bộ phận riêng lẻ.
Thứ ba, chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án
hình sự được thể hiện bằng những chỉ số, tiêu chuẩn cụ thể.
Hoạt động tranh tụng của KSV tại các phiên toà tại phiên toà xét xử các
vụ án hình sự là một hoạt động mang tính chính trị - pháp lý - xã hội, vì vậy,
rất khó để đánh giá chất lượng của hoạt động này. Tuy nhiên, điều đó khơng
có nghĩa là khơng có những chỉ số, tiêu chuẩn, cơ sở để đánh giá chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự. Có thể
thấy, chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự
được thể hiện qua các chỉ số:
- Tỉ lệ số bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố nhưng Tồ án tun khơng
phạm tội.
- Tỉ lệ số vụ hoặc số bị cáo mà Toà án xét xử theo tội danh hoặc khung
hình phạt khác với tội danh hoặc khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố.
- Mức độ (chi tiết, đầy đủ, cụ thể, đúng qui định…) chuẩn bị đề cương
xét hỏi của Kiểm sát viên.
- Kỹ năng tham gia xét hỏi, tranh luận, luận tội, đối đáp của KSV tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự


19
- Mức độ chấp nhận của HĐXX đối với kết luận của KSV (về tội danh,
điều khoản áp dụng, loại hình phạt và khung hình phạt, mức độ trách nhiệm
dân sự…)
Ngoài ra đánh giá (dư luận) của những người dự phiên tồ, của quần
chúng nhân dân qua sự đồng tình hay phản đối, mức độ đồng tình hay phản
đối về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tồ xét xử các vụ án
hình sự được coi là một trong những kênh tham khảo để đánh giá chất lượng

tranh tụng của KSV tạo tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự.
Thơng qua các chỉ số và chỉ tiêu trên, có một số chỉ tiêu mang tính
khách quan: như tỉ lệ Tồ án tun khơng phạm tội, tuyên khác với tội danh,
hình phạt do Viện kiểm sát truy tố…Tuy nhiên, trên thực tế không hẳn bao
giờ các chỉ số trên phản ánh chính xác chất lượng tranh tụng của KSV tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự. Do vậy mới có các thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm để khắc phục những thiếu sót trong hoạt động của
các cơ quan tố tụng. Dư luận quần chúng lại càng phụ thuộc vào ý thức pháp
luật và ý chí chủ quan của người đó. Bên cạnh đó, các chỉ số về mức độ chuẩn
bị đề cương xét hỏi, dự thảo luận tội, mức độ tham gia xét hỏi, kỹ năng tranh
luận, đối đáp phụ thuộc nhiều vào khả năng chuyên môn, sự vô tư, khách quan
của người đánh giá. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự phải thận trọng, cân nhắc đến các yếu tố có
thể tác động đến những chỉ số trên để có sự đánh giá khách quan, chính xác.
1.2. YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI CÁC PHIÊN TOÀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.2.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên
tại các phiên toàn xét xử các vụ án hình sự
1.2.1.1. Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp
Từ Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng (1986), cùng với công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước, cải cách tư pháp ngày càng được chú trọng và đẩy


20
mạnh. Thời gian qua Đảng ta đã ban hành và triển khai, tổ chức thực hiện
nhiều Nghị quyết liên quan đến cải cách hệ thống tư pháp, trong đó nêu ra
phương hướng đổi mới về tổ chức bộ máy, thẩm quyền của các cơ quan tư
pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, các cơ quan tư

pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng
trong cơng tác và đạt được nhiều kết quả khả quan trong quá trình thực hiện
chức năng của mình. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư
pháp cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các cơ quan
tư pháp nói chung và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng trong đó
hoạt động tranh tụng của KSV tại các phiên toà xét xử các vụ án hình sự cịn
tồn tại nhiều hạn chế. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian
tới đã chỉ rõ: “Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu
cầu và địi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm; làm oan
người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của cơng dân, làm giảm sút
lịng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp”[9, tr.2].
Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức về hoạt động tranh
tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tồ, vị trí, vai trị của KSV trong thực
hành quyền cơng tố cho đến thực tiễn hoạt động của các cơ quan Điều tra, Tồ
án cũng như cơng tác cán bộ, trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị của các
cán bộ bộ cơ quan tư pháp, cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện làm việc, chế độ
đãi ngộ đối với cán bộ của các cơ quan tư pháp…
Nhận thức được tầm quan trọng của cải cách tư pháp, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra nhiều chủ trương lớn, thể hiện trong nhiều chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ
Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về Chiến lược cải


21
cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 về
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 định hướng đến
năm 2020. Việc ban hành những văn bản quan trọng này thể hiện quyết tâm
của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp nói chung, tạo

bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, góp phần bảo vệ cơng lý, thúc đẩy sự phát triển ổn định của
nền kinh tế - xã hội.
Trong những nội dung cải cách tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân,
vấn đề chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
KSV nói chung và hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tồ xét xử các vụ
án hình sự nói riêng được quan tâm và đề cập đến nhiều trong các văn kiện
nói trên ở các khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh đến việc nâng cao chất lượng công
tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tranh tụng khác. Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên
toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những
vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.
Đặc biệt từ khi Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì
vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự nóng hổi, khơng chỉ
được tranh luận tại các Hội nghị khoa học và các Hội nghị về tư pháp mà còn
trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như
trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, từ những yêu cầu trên, việc nâng cao chất


22
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tồ xét
xử các vụ án hình sự là nhiệm vụ cấp thiết.
Nhìn từ mọi khía cạnh, vấn đề tranh tụng đã được đặt ra từ nhiều năm,
đặc biệt sau khi có Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49 vấn đề tranh tụng tại
phiên toà được khẳng định là khâu đột phá trong tiến trình cải cách tư pháp, là
xu hướng vận động tất yếu của q trình dân chủ hố. Tuy nhiên, vấn đề này

lại chưa được cụ thể hoá thành một nguyên tắc của Bộ luật TTHS do đó tính
pháp lý chưa cao. Vấn đề về khái niệm, chủ thể, nội dung, phạm vi của tranh
tụng tại phiên tồ chưa được giải thích rõ. Trong thực tế, do nhiều lý do khách
quan và chủ quan, có lúc, có nơi, vấn đề tranh tụng chưa được thực hiện hoặc
bảo đảm thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc. Do vậy, tiếp tục nâng cao
chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV Viện kiểm sát nhân dân tại phiên
tồ xét xử các vụ án hình sự là một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.
1.2.1.2. Xuất phát từ yêu cầu khắc phục những hạn chế, yếu kém của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tranh tụng
Qua thực tiễn thấy nhiều KSV đã thực hiện rất tốt vai trò trước và trong
khi tham gia phiên toà. Tuy nhiên trong hoạt động tranh tụng tại phiên toà xét
xử các vụ án hình sự, một số KSV khi tranh luận với luật sư và bị cáo chưa có
sức thuyết phục, thậm chí còn né tránh, ngại tranh luận, chỉ nêu: “giữ nguyên
quan điểm như bản cáo trạng”. Một số KSV khi tranh luận với luật sư không
phản bác được quan điểm phản biện của luật sư, bị cáo, khơng có sức thuyết
phục HĐXX. Có KSV cịn lúng túng trong sử dụng từ ngữ và cách lập luận
dẫn tới hiệu quả tranh luận không cao. Phong cách, thái độ của một số KSV
khi tranh luận cịn tỏ ra thiếu bình tĩnh, dẫn đến hạn chế khả năng tranh luận,
làm giảm hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại phiên toà.
Một số KSV chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong việc chứng minh tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Trước
khi tham gia phiên tồ, KSV khơng nghiên cứu kỹ hồ sơ để nắm vững chứng


23
cứ, không dự kiến được những vấn đề cần tranh luận, những tình huống có thể
phát sinh tại phiên tồ liên quan đến vụ án để có phương án giải quyết. Tại
phiên toà, KSV chưa chú ý theo dõi, ghi chép để bổ sung kịp thời những
chứng cứ, tài liệu còn thiếu vào bản dự thảo luận tội và đề cương xét hỏi;
khơng tích cực, chủ động tham gia xét hỏi, khơng bám sát diễn biến phiên tồ

để kịp thời bổ sung những tình tiết mới hoặc chưa biết tận dụng mâu thuẫn
trong lời bào chữa của luật sư, chưa sử dụng có hiệu quả các chứng cứ của vụ
án đối chiếu với luật pháp để lập luận chứng minh bác bỏ quan điểm không
đúng của luật sư, bị cáo. Một số KSV chưa có phương pháp tranh luận, chưa
biết tập trung vào trọng tâm hoặc những điểm nút để chứng minh tội trạng của
bị cáo. Có lúc, có nơi lãnh đạo đơn vị chưa thực sự sâu sát nên chưa phát hiện
những thiếu sót của KSV trong q trình nghiên cứu hồ sơ vụ án để chấn
chỉnh kịp thời. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Kiểm sát nói chung và
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ninh là là tiếp tục nâng cao chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên toà mà chủ yếu là tại phiên
toà xét xử các vụ án hình sự, nhằm khơng ngừng khẳng định vị trí và trai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp, góp phần
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên tại các phiên tồ xét xử các vụ án hình sự
Từ khái niệm chất lượng như đã trình bày ở phần trên, muốn đánh giá
chất lượng tranh tụng của KSV Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tồ xét xử
các vụ án hình sự chúng ta phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Trên cơ sở
đó đối chiếu với từng nội dung cụ thể trong hoạt động tranh tụng của KSV tại
phiên tồ xét xử các vụ án hình sự xem nội dung nào đáp ứng được yêu cầu
của công việc, nội dung nào cịn yếu kém, hạn chế. Để từ đó tìm ra nguyên
nhân và đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém đó.


24
Trong các phiên tồ xét xử các vụ án hình sự, KSV phải đấu tranh trực
diện với tội phạm để bảo vệ quyết định truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ
và đúng pháp luật. Đồng thời cịn xem xét các tình tiết liên quan đến các vụ
án như nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, động cơ và mục đích phạm tội…để từ đó đề xuất các

mức hình phạt theo đúng qui định của pháp luật, khách quan, tránh oan, sai
và tránh lọt tội phạm, thể hiện tính nghiêm minh và nhân đạo của chế độ ta.
Đồng thời qua đó có tác dụng giáo dục người phạm tội có ý thức tn theo
pháp luật, khơng phạm tội mới, đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm
trong tồn xã hội. Do đó, để nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại
phiên toà xét xử các vụ án hình sự thì mỗi KSV phải nắm vững những tiêu
chí đánh giá.
Có nhiều tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà
xét xử các vụ án hình sự, nhưng trong phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả tập
trung đánh giá ở một số mặt cơ bản như sau:
Thứ nhất, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự:
Tranh tụng tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự là giai đoạn tập trung nhất
của quá trình tranh tụng từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can đến khi kết thúc
việc xét xử, Toà án tuyên một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì
vậy, ngay từ khi được phân cơng THQCT và kiểm sát điều tra vụ án, KSV
phải thực hiện nhiệm vụ của mình ngay khi khởi tố vụ án. Trong quá trình
này, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để có cơ sở cho việc THQCT và
thực hiện việc tranh tụng tại phiên toà. Theo Quy chế về công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo
Quyết định số 960 QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao), kỹ năng này được thể hiện:
- KSV tham gia phiên toà phải trực tiếp nghiên cứu toàn bộ hồ sơ của
vụ án để nắm vững: Nội dung vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo; các


25
chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự; phân tích đánh giá tổng hợp vụ án; áp dụng các điều, khoản của Bộ luật
hình sự để chuẩn bị thực hành quyền cơng tố và và tham gia các hoạt động
tranh tụng tại phiên toà.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV phải trích cứu đầy đủ lời khai của
bị can, của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ liên
quan đến vụ án.
- Đối với những vụ án trọng điểm phức tạp Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Và Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh phải thông báo cho Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra án hình sự, Vụ Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm khu vực, biết để cử KSV theo dõi, nghiên cứu nắm vững hồ sơ vụ án
nhằm phục vụ cho công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.
KSV cần thực hiện tốt việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu trước khi
mở phiên toà. Trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV phải nghiên cứu kỹ để
tìm ra những vấn đề còn mâu thuẫn, những điểm chứng cứ yếu, đặc biệt phải
xem xét các chứng cứ buộc tội bị can, bị cáo. Nếu bị can, bị cáo ra tồ phản
cung chối tội thì các chứng cứ đó có đủ để buộc tội không? Chuẩn bị các tài
liệu khác có liên quan tới việc kết tội bị cáo và giải quyết vụ án (như tài liệu
của các ngành chuyên mơn về quản lý kinh tế, xã hội, hành chính...) là một
việc làm hết sức quan trọng giúp KSV có thể tranh tụng tại phiên tồ xét xử
sơ thẩm hình sự.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án KSV cần trích cứu các chứng cứ của vụ án
như lời khai của bị cáo, người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ liên
quan khác. Sau khi việc nghiên cứu vụ án xong, KSV dự thảo đề cương xét hỏi
và xây dựng bản dự thảo luận tội, bài phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.
Hồ sơ kiểm sát phải được lập theo đúng quy định của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 07/QĐ-VKSNDTC-V3


×