Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 87 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRƢƠNG THỊ THANH NHÀN




THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI. 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRƢƠNG THỊ THANH NHÀN




THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Phạm Mạnh Hùng



HÀ NỘI. 2013

1



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong những năm
vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Việt Nam đã trở thành điểm đến
thu hút các nhà đầu tư bởi một nền chính trị ổn định, môi trường đầu tư an
toàn. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có
nhiều cố gắng trong hoạt động tư pháp góp phần quan trọng vào việc giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có được những thành tựu đó là cả một
sự phấn đấu, nỗ lực của toàn xã hội nhằm mục tiêu xây dựng xã hội "công
bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội", trong đó có sự đóng góp của
những nhà hoạch định chính sách, các nhà hoạt động thực tiễn trong các cơ
quan tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn còn tình
trạng để xảy ra oan, sai gây ảnh hưởng đến các quyền tự do, dân chủ của
người dân. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cải cách tư pháp
nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), hạn chế tình
trạng oan, sai đồng thời hiện thực hóa các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã làm tốt
nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống tội phạm và ngăn ngừa các
vi phạm pháp luật. Với việc ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) năm 2002 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, vai
trò, vị trí của VKSND trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) ngày càng
được nhấn mạnh. Để công cuộc cải cách tư pháp đạt kết quả, Đảng đã ban
hành nhiều nghị quyết làm cơ sở và định hướng lớn cho công cuộc cải cách
này. Trong lĩnh vực TTHS, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị đã nêu rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên

2


tòa bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác" [13]. Tiếp đến, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất
cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [14].
Đây là một yêu cầu và đòi hỏi mang tính khách quan và là một biện pháp đảm
bảo cho việc xét xử tại các phiên tòa được dân chủ, khách quan, toàn diện; để
việc phán quyết của Hội đồng xét xử (HĐXX) được đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Có thể nói, quá trình giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình giải
quyết xung đột giữa hai lợi ích: lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Lợi ích xã
hội đòi hỏi mọi tội phạm đều được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, nghiêm
minh. Trong khi đó lợi ích cá nhân trong TTHS đòi hỏi không làm oan sai,
quyền công dân, quyền con người được đảm bảo và tôn trọng. Để đảm bảo
được cả hai lợi ích này, vấn đề tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa là
một trong những thủ tục tố tụng có tính chất mấu chốt.
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là
sự đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác
dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử là đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong
những năm qua, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa luôn được sự quan tâm,
nghiên cứu đã thực sự trở thành vấn đề nóng hổi, không chỉ được tranh luận
tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu
cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa
hình sự mới chỉ được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó,
thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự trên phạm vi cả nước nói
chung và trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng cho thấy còn nhiều tồn

3


tại, dẫn đến chất lượng của hoạt động này chưa đáp ứng được những đòi hỏi
mà Đảng, Nhà nước và xã hội đã đặt ra.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng các quyền
con người trong hoạt động TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội; đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận của vấn đề tranh tụng, học
viên chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải
Phòng" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm hiện thực hóa chủ trương về cải cách tư pháp trong đó có vấn
đề tranh tụng tại phiên tòa, những năm qua đã có một số công trình nghiên
cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Đáng chú ý là các công trình sau:
- Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Mai Thị Nam: Tranh tụng tại phiên tòa -
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2001;
Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà
Nội, 2002; Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ
chức hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đề tài khoa
học cấp bộ; Hà Nội, 2009; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng
kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu
và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ,
Hà Nội, 2004; Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2006; Nguyễn Mạnh Tiến: Bàn về một số quy

4


định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 17/2005; TS. Dương Thanh Biểu: Bàn về việc tranh luận của
kiểm sát viên tại tòa hình sự sơ thẩm, Tạp chí Kiểm sát, số 13, 2007; Nguyễn
Đức Mai: Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sư thẩm, Tạp chí Luật
học, số 7/2008; Lê Thúc Anh: Một số suy nghĩ về tranh tụng tại phiên tòa
trong cải cách tư pháp, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1/2008; ThS. Nguyễn
Thương Tín: Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình
sự với chức năng xét xử của tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 10, 2008; Nguyễn Nông: Bàn về vấn đề tranh tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2003; TS. Nguyễn
Đức Mai: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17,
2007; Nguyễn Mạnh Tiến: Tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02/2006; Từ Văn Nhũ: Đổi mới thủ
tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 11/2003; Nguyễn Thái Phúc: Dự thảo Bộ luật Tố tụng
hình sự (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
9/2003; Mai Thị Nam: Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm và chất lượng
tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Tạp chí Kiểm sát, số 3, 2007
Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
làm rõ một số về vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa hoặc mới chỉ đưa ra
những thực tiễn trong quá trình KSV THQCT tại phiên tòa hình sự chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về tranh tụng của
KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm (HSST). Vì vậy, đây là vấn đề cần được
tiếp tục nghiên cứu nhất là trong bối cảnh chúng ta đang nghiên cứu, thực
hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Làm sáng tỏ vấn đề này cả về
mặt lý luận cũng như thực tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST đáp ứng yêu cầu của cải


5

cách tư pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của Tòa án, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm, chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội
phạm cũng như bảo vệ pháp chế XHCN. Đây cũng là lý do mà học viên chọn
đề tài "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng"
để làm luận văn thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng vấn đề tranh
tụng của KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng, phân
tích các bất cập, hạn chế. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST bảo đảm một phiên tòa
hình sự công bằng, dân chủ, văn minh.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn đặt ra là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên
tòa như: Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu của tranh tụng tại phiên
tòa; cơ sở pháp lý quy định về tranh tụng của KSV tại phiên tòa; ý nghĩa của
tranh tụng tại phiên tòa (có so sánh với mô hình tranh tụng của một số nước
trên thế giới).
- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng của KSV tại phiên tòa trên
địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt
tích cực; những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ở
địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật TTHS về tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý


6

cho việc thực hiện chức năng THQCT của KSV nói chung, tranh tụng của KSV
nói riêng nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là một vấn đề lớn, bao hàm nhiều nội dung thể hiện ở các
giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng. Với phạm vi nghiên cứu của một
luận văn thạc sĩ tác giả chỉ tập trung làm rõ thực trạng việc tranh tụng của
KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong các năm từ
2006 đến năm 2011 để qua đó đánh giá, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng của KSV.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Về cơ sở lý luận của luận văn:
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp.
- Về phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể để nghiên cứu như:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn.
7. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn có một số đóng góp về mặt khoa học như sau:
- Làm sáng tỏ các cơ sở lý luận về tranh tụng của KSV tại phiên tòa
HSST, góp phần nâng cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động
tranh tụng của KSV.
- Luận văn tập trung vào phân tích các quy định của pháp luật về tranh
tụng của KSV tại phiên tòa HSST, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định

7


về tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST trên địa bàn thành phố Hải Phòng,
chỉ ra các tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của
KSV tại phiên tòa HSST của VKSND thành phố Hải Phòng hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu giảng dạy của các cơ sở nghiên cứu khoa học pháp lý; là tài liệu
tham khảo giúp cho VKSND các cấp để nâng cao chất lượng tranh tụng của
KSV trong phiên tòa hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng của Kiểm sát viên tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Chương 2: Thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên tại tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CỦA VIỆC TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm
Sự ra đời và phát triển của việc tranh tụng trong quá trình giải quyết
các vụ án gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ,

tiến bộ của nhân loại. Tư tưởng về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và ngày
nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi tranh tụng là một trong các
nguyên tắc cơ bản của trong hoạt động tố tụng. Tranh tụng không đơn thuần
chỉ là thành tựu trong lĩnh vực pháp lý mà là thành tựu của sự phát triển tư
tưởng của nền văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, dù ở các nước có tổ
chức hệ thống tư pháp khác nhau, dù là hệ thống luật án lệ (common law), hệ
thống luật lục địa (legal law) hay hệ thống luật XHCN thì ít hay nhiều và
bằng các cách thể hiện khác nhau, trong hệ thống tố tụng đều có yếu tố tranh
tụng. Đây là cơ chế tố tụng góp phần đảm bảo cho tòa án xác định sự thật
khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, bảo đảm sự công bằng và
lợi ích của các bên tham gia tố tụng.
Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án.
Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật của vụ án bằng cách điều tra
công khai, chính thức về vụ việc, nghe các bên tranh luận về giải quyết vụ án
từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán quyết.
Trong quá trình tranh tụng, Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét
xử. Tòa án thực hiện chức năng như một trọng tài có địa vị độc lập với các
bên để phân xử một cách khách quan, theo pháp luật. Trong TTHS, chức năng

9

xét xử của Tòa án độc lập với chức năng buộc tội và chức năng bào chữa;
trong tố tụng dân sự, kinh tế, Tòa án là người đứng ra phân xử giữa bên khởi
kiện và bên bị kiện để ra phán quyết về vụ án.
Với tính chất là sự tranh luận giữa các bên có quyền và lợi ích khác
nhau, tranh tụng luôn luôn tồn tại trong các hệ thống tố tụng khác nhau. Bởi
vì, mục đích của các hệ thống tố tụng dân chủ, tiến bộ trong thế giới hiện đại là
xác định được sự thật và phán quyết về vụ án trên cơ sở quy định của pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Còn
theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ "tranh luận"

và "tố tụng". Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ
cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau là
bên buộc tội và bên gỡ tội. Bên buộc tội có trách nhiệm chứng minh bị cáo là
người có tội, còn bên gỡ tội cố gắng dùng mọi căn cứ để bác bỏ những lời
buộc tội do bên gỡ tội đưa ra.
Trước đây, với quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng
của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý nước ta quan
tâm nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận tranh tụng không được thừa nhận và
thuật ngữ "tranh tụng" không được dùng trong các văn bản pháp luật của nước
ta. Bắt đầu từ Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", vấn đề
tranh tụng lần đầu tiên đã được đề cập đến.
Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với hoạt động TTHS thể hiện đậm nét
trong hai nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị. Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 đưa ra yêu cầu:
Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên
tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở

10

xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,
của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn… để
ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
trong thời hạn do luật định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo
điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi
cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên
tòa [13, tr. 1].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục xác định một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử" [14, tr. 1].
Có thể nói, tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự
nói riêng là một vấn đề mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở nước ta. Về mặt lý
luận, đang còn có những quan điểm nhận thức rất khác nhau giữa các nhà
khoa học cũng như cán bộ làm công tác thực tiễn về khái niệm tranh tụng tại
phiên tòa; thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của tranh tụng tại phiên tòa;
về phạm vi, phương pháp và nội dung tranh tụng mà các chủ thể cần thực
hiện. Có quan điểm đồng nhất tranh tụng tại phiên tòa với tranh luận. Có quan
điểm cho rằng "Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần là việc tranh luận một
cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất của tranh tụng là một
phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án" [51, tr. 592].
Tuy còn có sự khác nhau về quan điểm nghiên cứu, nhưng có sự thống
nhất về mục đích của tranh tụng tại phiên tòa nhằm đảm bảo tính khách quan,
công bằng, dân chủ giữa các chủ thế là KSV THQCT và những người tham gia
tố tụng; phía buộc tội và phía bào chữa có quyền lập luận, đưa ra những
chứng cứ, căn cứ pháp luật để tranh luận, phản bác để bảo vệ tính có căn cứ từ
quan điểm của mình. HĐXX điều hành theo trình tự tố tụng tại phiên tòa và
có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ tranh
tụng, đồng thời lắng nghe, xem xét, cân nhắc và ra phán quyết.

11

Dưới góc độ tranh tụng là một nguyên tắc của TTHS, tác giả đồng tình
với quan điểm cho rằng:
Tranh tụng tại tòa là những hoạt động tố tụng được tiến
hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng (bên buộc tội
và bên bào chữa) nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và
bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển, quyết

định của Tòa án với vai trò trung gian trọng tài [52, tr. 808].
Trong các giai đoạn TTHS, thực hiện nguyên tắc tranh tụng ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn trung tâm.
1.1.2. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Một là, tranh tụng tại phiên tòa có sự bình đẳng giữa KSV thực hành
quyền công tố với bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác.
Sự bình đẳng ở đây là bình đẳng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật tố tụng. Hay nói cách khác, sự bình đẳng giữa các bên
tranh tụng không hẳn là sự bình đẳng thực tế về địa vị pháp lý cũng như
không có nghĩa là các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên buộc tội và
bên gỡ tội thực hiện hai chức năng khác nhau trong TTHS, nhất là tại phiên
tòa. Do đó, quyền bình đẳng ở đây được hiểu là bình đẳng về phương diện tố
tụng khi cả hai đều có tư cách tố tụng, đều được pháp luật quy định cho những
quyền và nghĩa vụ nhất định để thực hiện hiệu quả chức năng của mình.
Trong tố tụng tranh tụng Công tố viên và Luật sư hoàn toàn bình đẳng
với nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có
thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình.
Công tố viên dưới danh nghĩa người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa
ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị
buộc tội là bị cáo và luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được
pháp luật cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp liên tục chất vấn và
trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác

12

với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi trọng các nguyên tắc bằng
miệng, công khai, tất cả các tình tiết, chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản
án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học công nghệ
phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi âm
hoặc ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể được tiến hành qua điện

thoại hội nghị (Conference call) và cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành
xét xử một vụ án ở một nơi có thể nghe lời khai trực tiếp của người làm
chứng ở một nơi khác.
Hai là, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa không bị hạn chế về mặt
thời gian và có sự tranh luận trực tiếp.
Vấn đề cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là phải tạo ra cơ chế để các
bên tranh luận, đưa ra chứng cứ buộc tội hay gỡ tội. Có thể coi tranh luận tại
phiên tòa là đỉnh điểm của việc tranh tụng để nhằm làm rõ sự thật khách quan
của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án. Do đó, tranh luận tại
phiên tòa là phần việc rất quan trọng, bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền
tranh luận dân chủ, công khai và bình đẳng theo quy định của Luật TTHS
hiện hành. HĐXX phải có phương pháp điều hành hợp lý và tạo điều kiện cho
cho việc tranh luận, tránh việc thiên vị với bất cứ bên nào.
Ba là, Thẩm phán giữ vai trò làm trung gian, trọng tài trong quá trình
tranh tụng.
Hội đồng xét xử không có trách nhiệm điều tra phát hiện sự thật. Ở
các quốc gia theo hệ thống tố tụng tranh tụng, hoạt động điều tra chỉ được coi
là một hoạt động hành chính - tư pháp. Vì vậy, pháp luật tố tụng của các nước
này đều quy định các chứng cứ đều do hai bên (bên buộc tội và bên bào chữa)
đưa ra trước tòa trong quá trình tranh tụng. HĐXX ở những quốc gia theo thủ
tục này không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội.
Đây cũng là điểm khác so với tố tụng xét hỏi nơi mà trước khi mở phiên tòa
các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án.

13

Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của
các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là
một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội
dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể trực tiếp chất vấn nếu như lời khai

của bị cáo còn có nhiều mâu thuẫn hay bị cáo chối tội.
Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của chủ tọa phiên
tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia tố tụng
khác đều phải thông qua chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó, tại phiên tòa theo tố
tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như
cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền
ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Bốn là, kết quả tranh tụng là căn cứ để HĐXX ra phán quyết.
Phán quyết của HĐXX căn cứ vào kết luận điều tra qua hồ sơ vụ án,
căn cứ vào cáo trạng truy tố và quan trọng hơn nữa là căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa cho dù kết quả này có thể khác so với toàn bộ hoặc
một số tình tiết cụ thể trong kết luận điều tra, bản cáo trạng.
1.1.3. Nội dung tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, tranh tụng làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án dưới
sự chủ trì của chủ tọa phiên tòa, các bên hỏi và trả lời câu hỏi để làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án.
Tại phiên tòa để làm sáng tỏ sự thật vụ án thì tranh tụng là quá trình
quan trọng, nó bao gồm việc chất vấn liên tục, tranh luận giữa một bên đại
diện cho nhà nước THQCT (bên buộc tội), còn bên kia là bên bào chữa (bị
cáo và Luật sư bào chữa). Công tố viên nhân danh Nhà nước sẽ đưa ra những
chứng cứ, những lập luận để bảo vệ lời buộc tội (cáo trạng), và đến lượt bị
cáo và người bào chữa thể hiện ngay thái độ của họ đối với lời buộc tội đó.

14

Sau khi xem xét chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, HĐXX xem xét đến chứng
cứ do bên bào chữa đưa ra và những lý lẽ để bào chữa.
Tranh tụng là quá trình mà mỗi bên đều dùng những lý lẽ, chứng cứ để
chứng minh cho luận điểm của mình nên có thể coi những lý lẽ đó hoàn toàn

trên cơ sở ý chí chủ quan của mỗi bên, và chứng cứ là để phục vụ cho ý chí
đó. Vì vậy, cần thiết phải có người đứng ra là trọng tài giữa việc tranh tụng đó
và Tòa án (HĐXX) đảm nhiệm công việc đó.
Chủ tọa phiên tòa không chỉ là người điều khiển phiên tòa trong quá
trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa với vai trò chủ trì, điều khiển phiên tòa có
toàn quyền quyết định nội dung việc xét hỏi hướng cho hai bên hỏi và trả lời
câu hỏi đi vào trọng tâm của vấn đề, nhằm giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa
tạo điều kiện cho các bên tranh luận, không hạn chế nhưng cũng tránh cho các
bên đi vào những tình tiết vụn vặt không có giá trị làm sáng tỏ nội dung vụ
án. Chủ tọa phiên tòa, cũng có thể điều khiển việc hỏi đáp giữa hai bên hướng
sang vấn đề khác nếu nội dung đó đã được làm sáng tỏ. Trong quá trình đó
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa luôn thể hiện sự khách quan, tập trung lắng
nghe việc tranh tụng của các bên để thấy được sự thật khách quan của vụ án,
có tội hay không có tội ở những chứng cứ nào thể hiện mức độ tăng nặng,
những tình tiết, chứng cứ nào là giảm nhẹ. Những chứng cứ nào là hợp pháp,
những chứng cứ nào không được công nhận hợp pháp. Nếu có vật chứng thì
xem xét vật chứng để thấy sự phản ánh dấu vết tội phạm trên đó ở mức độ
như thế nào. Từ đó, để thấy những tình tiết chứng cứ nào còn chưa rõ những
vấn đề còn mâu thuẫn, chủ tọa phiên tòa cho hai bên tranh luận rõ hơn, chất
vấn nhau nhiều hơn để thấy bật ra được vấn đề, đồng thời dựa trên sự đánh
giá khách quan toàn diện những chứng cứ tình tiết, quá trình tranh luận trên
mà HĐXX sau đó có phán quyết công bằng.
Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán Chủ tọa
phiên tòa có quyền áp dụng quy định của pháp luật TTHS điều khiển phiên

15

tòa theo đúng tiến trình tranh tụng. Cũng trên cơ sở của Luật TTHS, họ có thể
cho phép mọi người liên quan đến quá trình tranh tụng được vào phiên tòa;
trong trường hợp cần thiết, chủ tọa phiên tòa cách ly bị cáo, nhân chứng để

đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra khách quan, có hiệu quả.
Thứ hai, áp dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Để phục vụ cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, hai bên buộc tội và
bào chữa đều đã chuẩn bị cho mình những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo
vệ lý lẽ của mình. Trong quá trình đó cả hai bên đều phải vận dụng những quy
định của pháp luật không chỉ về luật hình thức mà còn cả luật nội dung. Đó là
quá trình dựa vào chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào các điều khoản được
quy định trong luật và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra những
tình tiết buộc tội và gỡ tội và như thế bên bào chữa thì tận dụng tối đa những
chi tiết dù là nhỏ nhất để phản bác lại sự buộc tội của bên kia, còn bên buộc
tội sẽ cố gắng truy tố với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm không bỏ lọt tội
phạm. Vì vậy, họ cũng không bỏ qua những chi tiết dù là nhỏ nhất. Tới khi ra
phiên tòa, cả hai bên đều trình bày sao cho có sức thuyết phục nhất là trước
HĐXX và những người tham dự phiên tòa. Vì vậy, cả hai bên sẽ cố gắng đề
cập đến mọi tình tiết có lợi nhất của vụ án một cách trực tiếp, liên tục. Các
bên có quyền phản đối, bác bỏ quan điểm của bên đặt câu hỏi, đưa ra những
chứng cứ để chứng minh cho luận điểm của mình phản bác lại bên kia.
Trong quá trình đó các bên toàn quyền tranh luận về những vấn đề để
làm sáng tỏ vụ án, việc tranh luận không bị hạn chế nếu như không đi ra ngoài
nội dung vụ án. Có quyền vận dụng những quy định của pháp luật để đề nghị
chủ tọa phiên tòa có những quyết định tại phiên tòa thuận lợi cho việc tranh
tụng và chứng minh sự thật của vụ án. Đây là cuộc đấu giữa hai bên buộc tội
và bào chữa nên nó có sự đối kháng rõ rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào
có những chứng cứ thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn để HĐXX và người tham
dự phiên tòa chấp nhận.

16

Thứ ba, tranh tụng nhằm đảm bảo việc đưa ra xem xét các chứng cứ,
tài liệu minh chứng cho luận điểm của mỗi bên.

Trong quá trình tranh tụng, chứng cứ là căn cứ quan trọng để làm sáng
tỏ sự thật vụ án. Chủ tọa phiên tòa sẽ đảm bảo cho việc đưa ra chứng cứ của
mỗi bên, thông qua quá trình hỏi đáp, chất vấn liên tục giữa hai bên buộc tội
và bào chữa, Tòa án có thể thấy được những điểm còn mâu thuẫn của lý lẽ
giữa các bên, thấy được sự không thuyết phục của chứng cứ mà bên nào đó
đưa ra. Từ đó xem xét, đánh giá chứng cứ được chính xác.
1.1.4. Tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự ở một số quốc gia
trên thế giới
- Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ)
Người Mỹ cho rằng hệ thống tranh tụng chỉ là một hệ thống được đặt
ra nhằm giải quyết những tranh chấp, xung đột quan điểm về thực tế vụ án, và
những tranh chấp, xung đột được đệ trình lên Tòa án mà ở đó Thẩm phán
đóng vai trò chính và công minh. Chính Thẩm phán sẽ là người quyết định
bên nào thắng trong cuộc tranh chấp tại tòa. Ở hợp chủng quốc Hoa Kỳ, thuật
ngữ "hệ thống tranh tụng" gắn liền với hệ thống tư pháp hình sự, một hệ thống
đã pháp điển hóa bằng Hiến pháp do những người sáng lập ra Hợp chủng
quốc tạo nên và được Tòa án tối cao áp dụng trong suốt hơn 2 thế kỷ. Do đó,
hệ thống tranh tụng tiêu biểu cho một mô hình tố tụng đơn giản nhằm mục
đích giải quyết các tranh chấp, mà điểm cốt lõi là các quyền cơ bản của con
người được công nhận và để bảo vệ những giá trị chân chính của một xã hội
tự do và tôn trọng các quyền tự do cá nhân.
Những quyền được bảo đảm trong hệ thống tranh tụng là quyền tự do
ý chí của cá nhân, quyền được sự trợ giúp có hiệu quả của Luật sư, được bảo
vệ một cách bình đẳng trước pháp luật, được xét xử bởi bồi thẩm đoàn, quyền
được triệu tập và đối chất với các nhân chứng và quyền được yêu cầu chính
quyền phải chứng minh sự có tội. Những quyền này và những quyền khác

17

cũng bao gồm trong khái niệm rộng và cơ bản trong Hiến pháp rằng: "Không

ai bị tước đoạt cuộc sống, tự do, tài sản mà không qua một tiến trình xét xử
công bằng" một khái niệm mà bản thân nó về căn bản đã mang hàm ý của hệ
tố tụng tranh tụng.
Để thực thi công lý, các Tòa án ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ phải tuân
thủ những nguyên tắc nhất định được quy định chặt chẽ trong các hiến pháp,
trong truyền thống pháp luật. Các nguyên tắc này bao gồm một số nội dung
như sau:
+ Các Tòa án phải tuân thủ pháp luật và chỉ đưa ra quyết định dựa trên
các yếu tố pháp lý thích hợp.
+ Các Tòa án phải công bằng và đối xử bình đẳng với mọi người.
+ Mặc dù được độc lập khi đưa ra quyết định và điều hành xét xử,
song các Tòa án phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định, hoạt động và
việc sử dụng, huy động các nguồn lực công.
+ Các Tòa án phải dành cho tất cả mọi người quyền tham gia phiên
tòa và tiến hành công việc của mình một cách công khai.
+ Các Tòa án phải hoạt động một cách có hiệu quả và nhanh chóng.
Theo hệ thống tranh tụng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, phiên tòa xét
xử là nơi mang tính xung đột được biểu hiện cao nhất, bởi vì Luật sư không
phải là cơ quan hay nhân viên Nhà nước. Luật sư biện hộ ở Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ có nghĩa vụ theo sát cuộc điều tra vụ án. Tất cả các nguồn thông tin
thích hợp đều phải được khai thác, khám phá, đặc biệt là các thông tin về
khách hàng. Thay vì tiếp nhận những quyết định của chính quyền để lưu giữ
bảo quản hoặc phá hủy chứng cứ, Luật sư biện hộ có nhiệm vụ phát hiện ra
các thông tin mà cảnh sát hoặc công tố viên đang nắm giữ.
Tại Hoa Kỳ, trong tất cả các vụ án hình sự mà bị cáo bị buộc tội có thể
phải chịu mức hình phạt từ 6 tháng tù trở lên thì người đó có quyền yêu cầu

18

được phép xử bằng bồi thẩm đoàn. Do đó, xét xử không có bồi thẩm đoàn chỉ

xảy ra đối với các vụ án nghiêm trọng khi thủ tục đó được tất cả các bên đồng ý.
- Vương quốc Anh.
Về cơ chế truy tố và tranh tụng, theo luật định phần lớn các thủ tục
TTHS là do công tố viên tiến hành. Tuy nhiên, tiến trình TTHS cũng có thể
do cá nhân và các cơ quan truy tố khác tiến hành như: Cơ quan chống các tội
phạm lừa đảo nghiêm trọng, cơ quan Hải quan và Thuế vụ; một số thuộc
Chính phủ, như Bộ Thương mại hoặc Bộ Công nghiệp, trong trường hợp này,
các cơ quan đó sẽ thuê Luật sư làm nhiệm vụ công tố. Quyền truy tố tư nhân
được quy định trong Luật về truy tố tội phạm năm 1985. Tuy nhiên, Công tố
viên Hoàng gia có quyền can thiệp vào quá trình này khi cần thiết, chỉ tiếp
nhận việc truy tố tư nhân vì lợi ích công. Việc từ chối tiếp nhận các vụ tư tố
có thể vì lý do có ít chứng cứ hay chứng cứ không thuyết phục. Quy định như
vậy nhằm tránh việc lạm dụng quyền truy tố tư nhân. Mặt khác, Cơ quan công
tố Hoàng gia cũng có thể từ chối tiếp nhận tư tố trong trường hợp việc truy tố
nặng về lợi ích công theo quy định của Bộ luật ứng xử của Công tố viên
Hoàng gia, và do việc truy tố có thể gây phương hại tới lợi ích tư pháp hoặc
vụ việc là quan trọng, phức tạp cần có quyết định công tố.
Khi tiến hành TTHS tại phiên tòa, Công tố viên Hoàng gia phải thực
hiện quyền tự quyết của mình theo quy định của Bộ luật về Công tố viên. Bộ
luật này là một văn bản pháp lý ban hành theo Luật truy tố tội phạm năm
1985, trong đó quy định: Trong TTHS, Công tố viên Hoàng gia có quyền tự
quyết định những vấn đề sau:
+ Có khởi tố bị can hay không.
+ Nếu đã khởi tố thì có thể tiếp tục tiến hành tố tụng không.
+ Việc buộc tội đã đúng pháp luật chưa.
+ Đưa ra xử lý và cách thức xét xử.

19

Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với việc thẩm tra

chứng cứ cũng như việc tiến hành tranh tụng tại phiên tòa, truy tố tội phạm.
Đối trọng với công tố viên là Luật sư biện hộ. Các Luật sư Anh có xu hướng
tiếp cận phiên tòa tranh tụng như nơi để quyết định các sự việc trên cơ sở đấu
tranh chứng cứ. Bồi thẩm đoàn sẽ buộc bị cáo phải chịu hình phạt nếu họ tin
rằng cáo trạng của công tố viên là đúng đắn.
- Cộng hòa Pháp
Trong hệ thống TTHS của Cộng hòa Pháp có một số nét khác biệt cơ
bản so với Vương quốc Anh. Vào thời kỳ đầu, hình thức tố tụng dựa trên cơ
sở tranh tụng của Anh - Mỹ đã được áp dụng với cơ chế xét xử có bồi thẩm
đoàn. Chế định này đã được sửa đổi vào năm 1808 bằng Luật hướng dẫn xét
xử hình sự dưới triều đại Napoleon, theo đó giữ lại một số yếu tố tranh tụng
trong giai đoạn xét xử nhưng lại đặt giai đoạn thẩm tra trong giai đoạn điều
tra trước khi xét xử. Sự sửa đổi luật năm 1808 đã duy trì những căn cứ đối
với mô hình tố tụng được xem là pha trộn và được coi là kiểu TTHS lai tạp
đại diện cho những cơ sở tiến bộ nhất của mô hình tranh tụng với mô hình
thẩm vấn.
Ngày nay, cơ chế "giả định vô tội" được coi là trung tâm của TTHS
Cộng hòa Pháp đối với tất cả các vụ án nghiêm trọng. Tuy nhiên, nguyên tắc
chứng minh "vượt ra ngoài những lý do nghi ngờ hợp lý" và sử dụng nguyên
tắc loại trừ chứng cứ rất điển hình cho mô hình tranh tụng vẫn chưa được coi
trọng. Cộng hòa Pháp đã đưa vào hệ thống tố tụng của mình một số nội dung
tranh tụng sau đây:
Một là, Luật sư có quyền tham gia ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá
trình tranh tụng, tức là ngay khi bắt đầu điều tra vụ án và khi bắt giam người
bị tình nghi. Hơn nữa, khác với truyền thống luật lục địa, nơi mà người ta
thường trông chờ vào sự hợp tác của người bị tình nghi thì hiện nay, luật tố
tụng của Cộng hòa Pháp thừa nhận quyền được giữ im lặng của họ.

20


Hai là, trong giai đoạn điều tra, các bên tham gia tố tụng có quyền yêu
cầu Thẩm phán điều tra thực hiện một số hoạt điều tra mà họ cho là cần thiết.
Thẩm phán điều tra không còn có quyền ra lệnh tạm giam, tức là không còn
chức năng tài phán này như trước đây nữa do thủ tục này hiện nay bị chỉ trích
nhiều. Việc quyết định tạm giam người bị tình nghi được chuyển cho một
Thẩm phán khác mới được pháp luật định ra để đảm nhiệm chức năng này.
Đó là Thẩm phán phụ trách việc tạm giam, tạm giữ và trả lại quyền tự do cho
người bị tình nghi.
Ba là, trong quá trình tiến hành xét xử, công tố viên hoặc Luật sư của
các bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho các nhân chứng và các bên tham
gia tố tụng mà không cần sự cho phép của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa.
Bốn là, các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu Chủ tọa phiên tòa
triệu tập những người làm chứng mới đến khai báo trước tòa một cách không
hạn chế.
Về hình thức, xét xử tại Tòa đại hình cũng tương đối giống với Tòa án
của hệ tranh tụng. Tuy nhiên, thay vì 3 Thẩm phán ngồi xét xử như ở phiên
tòa tiểu hình, Tòa đại hình có một bồi thẩm đoàn gồm 9 thành viên được lựa
chọn một cách ngẫu nhiên từ danh sách cử tri, các thủ tục và hình thức nhiều
hơn so với Tòa tiểu hình và không khí phiên tòa cũng gần giống với tòa
Hoàng gia ở Vương quốc Anh. Phiên tòa bắt đầu bằng việc chánh tòa tiến
hành thủ tục nhận dạng bị cáo và giải thích tóm tắt các trình tự tố tụng và thủ
tục tại tòa; tiếp theo đến thủ tục lựa chọn thành viên bồi thẩm đoàn. Bị cáo có
quyền chọn 5 vị, bên công tố chọn 4. Sau khi thư ký tòa đọc bản luận tội thì từ
thời điểm đó bắt đầu thẩm vấn bị cáo, các bồi thẩm viên có quyền lựa chọn và
đặt ra các câu hỏi và thông thường quá trình đặt câu hỏi sẽ tăng dần lên theo
diễn biến của phiên tòa do các bên tham gia tố tụng được đặt câu hỏi trực tiếp
không cần phải thông qua sự cho phép của chánh tòa.
Điều đáng lưu ý là hiện nay, trong quá trình tranh tụng tại Tòa án ở
Cộng hòa Pháp, Tòa án không còn đưa ra bất kỳ tài liệu nào ngoại trừ một bản


21

lưu ý theo quy định của luật. Chánh tòa có thể bày tỏ quan điểm của mình về
mọi câu hỏi trừ vấn đề có tội hay không có tội (một biểu hiện rõ nét yếu tố
tranh tụng). Các bồi thẩm thì không bị ràng buộc bởi những quy định nghiêm
ngặt như vậy, và chánh tòa có toàn quyền tự quyết để tiến hành tất cả những
bước cần thiết nhằm khám phá sự thật, bao gồm cả việc cho gọi những nhân
chứng không có trong danh sách nhân chứng mà các bên tham gia tố tụng đưa
ra đến trước tòa để thẩm vấn.
1.1.5. Một số nhận xét
Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính chất dân chủ, công khai, minh
bạch trong quá trình tố tụng, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử sơ thẩm. Tranh
tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các phương
pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Vai trò của nguyên tắc
tranh tụng được thể hiện thông qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ
tục thực hiện tranh tụng. Đó là quy tắc về thủ tục (Rule of procedure), giai
đoạn xét xử (tại Tòa án) là quy tắc về chứng cứ (Rule of Evidence) và cuối
cùng là quy tắc điều chỉnh đạo đức luật sư (Rule of ethics). Từ việc nghiên
cứu một số mô hình tố tụng của một số quốc gia trên thế giới có thể thấy rằng,
dù ở mô hình tố tụng nào cũng ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc của
TTHS, nhưng ở mức độ khác nhau về nội dung và phạm vi áp dụng. Mô hình
tố tụng tranh tụng có nhiều hạn chế, bất cập như xa rời thực tế, "việc con
người bị phán xét như thế nào dường như quan trọng hơn việc xem họ đã làm
gì trên thực tế", bên nào có nhiều tiền để thuê luật sư thì sẽ có nhiều khả năng
giành thắng lợi hơn; thủ tục tố tụng rất phức tạp, mọi vấn đề lẽ ra phải được
thực hiện trong cả một quá trình điều tra lại chỉ được trình bày trong phiên xét
xử và khi phiên tòa xét xử diễn ra thì chưa có gì thực sự được khẳng định
chắc chắn cả; chi phí mở phiên tòa cao, thời gian xét xử thường kéo dài, thành
viên bồi thẩm đoàn có thể bị ảnh hưởng quá mức bởi thông tin đại chúng liên
quan đến vụ việc và khó có thể ước định ngay thiệt hại cũng như phân tích

những chứng cứ phức tạp tại phiên toà; bồi thẩm đoàn không có trách nhiệm

22

đưa ra lý do đối với các quyết định của họ. Còn mô hình tố tụng thẩm vấn có
ưu điểm là kiểm soát được tình hình tội phạm, quá trình giải quyết vụ án theo
một thời gian nhất định. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn có những hạn
chế nhất định như là không tôn trọng đầy đủ quyền của các bên đương sự bởi
vì họ không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ. Chứng cứ là do thẩm phán
điều tra tập hợp nên người ta cho rằng tố tụng thẩm vấn đi ngược lại nguyên
tắc vô tư, khách quan và cho rằng, đôi khi thẩm phán đã có sẵn trong đầu
quyết định xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử. Xét dưới góc độ đó, việc
tranh luận tại phiên tòa trở nên vô nghĩa; thủ tục tố tụng thẩm vấn thường kéo
dài, làm mất nhiều thời gian vì có thêm giai đoạn điều tra. Do vậy, nghiên cứu
mô hình tố tụng tranh tụng để vận dụng vào Việt Nam chỉ nên tiếp thu những
hạt nhân hợp lý, cần nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa của mô
hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi). Theo quan
điểm của tác giả thì nước ta nên vẫn giữ mô hình tố tụng thẩm vấn có kết hợp
yếu tố tranh tụng nhằm đảm bảo yêu cầu đấu tranh, trấn áp tội phạm và đảm
bảo các quyền con người, quyền công dân.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRANH
TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.2.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên
Trong khoa học pháp lý về TTHS cho đến nay, chưa có khái niệm
chính thống về "hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử
hình sự sơ thẩm". Để làm rõ khái niệm "hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm" là gì, trước hết phải xem xét mục
đích, phạm vi, vai trò của hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử
HSST. Chức năng của KSV khi tham gia phiên tòa là THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của HĐXX. Do vậy, hoạt động tranh tụng của KSV

trước hết phải có các mục đích là đại diện Nhà nước nhằm buộc tội bị cáo,
bảo vệ quan điểm truy tố của VKS. Thông qua hoạt động tranh tụng nhằm

23

thuyết phục HĐXX ra các quyết định theo ý kiến đề nghị của mình mà không
theo ý kiến đề nghị có tính chất đối lập của Luật sư bào chữa đồng thời KSV
phải có trách nhiệm bảo vệ công lý, cùng HĐXX làm mọi tình tiết của vụ án,
áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng,
nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm không làm oan người vô tội.
Về phạm vi tranh tụng của KSV tại phiên tòa có nhiều quan điểm khác
nhau về thời điểm mở đầu và thời điểm kết thúc. Theo tác giả, phạm vi tranh
tụng của KSV phiên tòa xét xử HSST bắt đầu từ khi khai mạc phiên tòa và kết
thúc khi HĐXX tuyên án.
Như vậy, từ mục đích, phạm vi hoạt động tranh tụng của KSV có thể
đưa ra khái niệm hoạt động tranh tụng của KSV phiên tòa xét xử HSST là:
Toàn bộ hoạt động của KSV từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến khi HĐXX
tuyên án nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan, làm rõ tất cả các tình tiết của
vụ án, bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát (VKS), thuyết phục HĐXX ra các
quyết định theo ý kiến đề nghị của mình để ra một bản án công bằng, đúng
pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tòa xét xử hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, KSV là một chủ thể đặc biệt trong quá trình tranh tụng.
Kiểm sát viên tranh luận với tư cách nhân danh công quyền, đưa ra sự
cáo buộc công khai đối với bị cáo về hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm. Trong khi đó, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện
hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tranh
luận với tư cách là cá nhân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân họ hoặc người họ đại diện mà thôi. Theo Điều 189 BLTTHS thì sự có
mặt của KSV là bắt buộc, nếu KSV vắng mặt thì trong mọi trường hợp phải

×