Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

hoàn thiện pháp luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.58 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào toàn quốc lần thứ IV đã đề ra
những chủ trương, chính sách mới nhằm khuyến khích và bảo hộ các hoạt
động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi nói riêng để
hướng tới thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có vị trí vai trị quan trọng nhằm phát huy mọi tiềm năng kinh tế,
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước CHDCND Lào khơng chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà
cịn chú trọng đầy đủ đến quyền, lợi chính đáng của các nhà đầu tư, thực hiện
nguyên tắc cùng có lợi. Trên quan điểm đó Nhà nước Lào đã áp dụng biện
pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi. Điều
đó có tác dụng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),tranh thủ thời cơ và
phát huy tối đa nội lực sẵn có của đất nước là phương châm đã được Đảng và
Nhà nước Lào đề ra nhằm thu hẹp khoảng cách về kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt
hậu giữa Lào và các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay,Lào đã cố gắng
tiếp thu những kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, nhất là Trung quốc và
Việt nam trong vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời,
Lào cũng đã cố gắng phát huy nội lực, gỡ bỏ những rào cản đối với nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào Lào. Tuy nhiên, so với những yêu cầu của thực tếđặt
ra, những nỗ lực đó dường như chưa đủ để khuyến khích và thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư lâu dài tại Lào.
Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư ở Lào cịn chưa thật hấp
dẫn và chậm có những đổi mới. Vấn đề khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực
tiếp nước ngoài chưa được làm rõ và chưa được cụ thể hoá một cách tập trung
trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào. Trong thơi gian vừa qua Đảng
nhân dân cách mạng Lào đã quan tâm tới vấn đề này nhưng Lào chưa có


2


những bước đột phá trong việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung và mơi
trường pháp lý nói riêng. Làm gì và thế nào để hồn thiện mơi trường pháp
lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào, làm rõ vấn đề khuyến khích và bảo
hộ đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào là trăn trở của tác giả bản luận
văn này. Đó cũng là lý do tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Hồn thiện
pháp luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Lào” với mong muốn được góp phần nhỏ bé vào
việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như:
- Luận văn “Vấn đề đầu tư trực tiếp trong quan hệ Lào - Việt Nam từ
năm 2001 đến nay” của tác giả CHANTHAVILAY SENGMANY, Học viện
Ngoại giao, 2010.
- Luận văn “Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào lĩnh
vực nông nghiệp tại Lào” của tác giả MANITHONG OUANLASY, Trường
Đại học Ngoại thương, 2008.
- Luận văn “Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại CHDCND Lào”của tác giả SULYNGA PHUONGPHADIT,
Đại học luật Hà Nội, 2009.
- Luận văn “Hoàn thiện pháp luật kinh tế đối ngoại của nước cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào hiện nay” của tác giả VANHSENG KEOBOUNPHANH,
Đại học luật Hà Nội, 2009.
- Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn phát triển pháp luật về kinh tế nhất là kinh tế đối ngoại
trong điều kiện nước CHDCND Lào đang mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước trong khu vực và thế giới” do Cục Chính sách thương mại quốc tế, Bộ
Cơng nghiệp và Thương mại Lào chủ trì, nghiệm thu năm 2007.



3
- Khóa luận tốt nghiệp “Đầu tư trong khn khổ ASEAN và vấn đề
pháp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào” của tác giả
SENGALOUN XAPHAKDY, Đại học quốc gia Lào, 2005.
Đến nay, có một số cơng trình nghiên cứu về luật khuyến khích đầu tư
nước ngồi của CHDCND Lào, nhưng vấn đề liên quan đến hoàn thiện pháp
luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi tại CHDCND Lào
thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống.
Nhìn chung có thể khẳng định được rằng, cho đến thời điểm hiện nay
dưới góc độ luật học, vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về hồn thiện pháp luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về luật đầu tư nước ngồi
tại CHDCND Lào, nhưng vẫn chưa một cơng trình nào đề cập trực tiếp và cụ
thể cả về lý luận lẫn thực tiễn hồn thiện pháp luật về khuyến khích và bảo hộ
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong pháp luật của Lào. Do đó, mục đích nghiên
cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngồi tại Lào.
Từ mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung vào các vấn
đề sau đây:
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của việc hồn thiện pháp luật về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.
- Đánh giá quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về đầu tư nước
ngoài tại CHDCND Lào đã được ban hành trong thời gian vừa qua. Tuy
nhiên, do hoàn thiện pháp luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư khơng chỉ
được thể hiện trong luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngồi tại Lào
mà cịn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác
nhau, vì vậy tác giả luận văn đề cập tới nhiều văn bản pháp luật liên quan đến
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.



4
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại CHDCND Lào.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng: Các chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngồi theo pháp luật của CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
+ Về không gian: trên địa bàn nước CHDCND Lào.
+ Về thời gian: từ năm 1995 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được viết trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà
nước và pháp luật và đường lối của Đảng NDCM Lào về phát triển kinh tế xã
hội ở CHDCND Lào. Những luận điểm chính của luận văn căn cứ vào quan
điểm của Đảng các đạo luật và các điều ước quốc tế mà Lào ký kết hoặc tham
gia. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương cụ thể:
lịch sử, tổng hợp, phân tích, so sánh pháp luật v.v..
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về khuyến
khích, bảo hộ đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại CHDCND Lào.
- Luận văn phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.
- Đề xuất được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện các quy định
của pháp luật của CHDCND Lào về khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.



5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGỒI TẠI CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI

1.1.1. Khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận
quan trọng trong tồn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta.
Trong những năm vừa qua, kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ra đời và
thực hiện, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được thừa nhận như là một
giải pháp quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh
tế đất nước.
Về mặt kinh tế, FDI là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng
bởi quá trình di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác. Mặc dù còn nhiều
khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung ở các nước thì FDI được hiểu như
là một hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mơ về mặt chủ
thể nhưng lại có sự kết hợp ở tầm vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối
tượng đầu tư. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài
được định nghĩa là: Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó, một
tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) muốn kinh doanh với một
tổ chức trong một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác đó. Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngồi (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác



6
nhau). Nhân tố nước ngồi ở đây khơng chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ
đầu tư trực tiếp nước ngồi mà cịn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu
tư trực tiếp nước ngồi vượt ra ngồi tầm kiểm sốt của một quốc gia. Việc di
chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước tiếp nhận
đầu tư mà việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện
hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện. Từ đó, có
thể rút ra hai đặc điểm cơ bản của FDI là:
- Có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế;
- Chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử
dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Hiện nay quá trình đầu tư trực tiếp nước ngồi diễn ra tại hầu hết các
nước trên thế giới. Về mặt pháp lý, khái niệm về FDI đã trở thành một khái niệm
phổ biến được ghi nhận trong các đạo luật, đó là Luật khuyến khích đầu tư (ở
Thái Lan), Luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành (ở Hàn Quốc)
hoặc Luật riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài (ở Indonesia, Việt Nam)...
Theo Luật Đầu tư của Indonesia thì: Đầu tư trực tiếp nước ngồi là
nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Indonesia, với nhận thức rằng
người chủ sở hữu vốn phải trực tiếp gánh chịu rủi ro của đầu tư. Do đó, cần
phải chỉ ra khả năng vốn nước ngoài được sử dụng trong một doanh nghiệp
hoặc được sử dụng trong một doanh nghiệp có hợp tác với vốn trong nước.
Vốn nước ngồi khơng chỉ là ngoại tệ mà bao gồm cả các tài sản cố định cần
thiết cho hoạt động của doanh nghiệp ở Indonesia, phát minh sáng chế thuộc
sở hữu của tổ chức, người nước ngoài được sử dụng vào doanh nghiệp ở
Indonesia, và lợi nhuận lẽ ra được chuyển ra nước ngoài nhưng lại được sử
dụng ở Indonesia.
Trong quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đối với nước xuất khẩu tư

bản, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như việc di chuyển tư bản ra nước


7
ngồi nhằm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhất định để thu lợi
nhuận; còn đối với nước tiếp nhận đầu tư nó lại là việc tiếp nhận vốn của
người nước ngoài để cho phép chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các hoạt động
kinh doanh theo những hình thức mà pháp luật quy định. Điều đó cho thấy,
dù nhìn nhận dưới góc độ nào FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh quốc tế
dựa trên cơ sở của quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do
các pháp nhân và thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định mà qua
đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư.
Ở Việt Nam, văn bản pháp lý đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là
Điều lệ về đầu tư của nước ngồi tại Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này
không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì
khái niệm FDI cũng cơ bản giống như khái niệm được ghi nhận sau này trong
các Luật Đầu tư như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được
Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài (khoản 3, Điều 2, Luật Đầu tư 1987; khoản 1, Điều 2, Luật Đầu tư 1996).
Như vậy, về mặt pháp lý, khái niệm FDI được đề cập trong luật của
các quốc gia chỉ giới hạn phạm vi nhìn nhận về FDI dưới con mắt của nước
tiếp nhận đầu tư. Khái niệm này không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp
nước ngồi, cũng khơng bao gồm các quan hệ thương mại thông thường.
Tuy nhiên, một điều cần chú ý khi nghiên cứu là, khái niệm đầu tư
trực tiếp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với giới hạn như trên khác
với khái niệm đầu tư nước ngoài trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Theo các Hiệp định này, thuật

ngữ "đầu tư nước ngoài" được sử dụng để chỉ các loại tài sản mà các nhà đầu
tư của nước ký kết này dùng để đầu tư vào nước ký kết hữu quan kia. Khái


8
niệm đó cũng được sử dụng để chỉ các giá trị tài sản của các nhà đầu tư của
các nước hữu quan. Danh mục các tài sản và giá trị tài sản được gọi là "đầu
tư" đó rất rộng, từ những cái rất cụ thể như "cổ phần", "bản quyền", các "động
sản", "bất động sản" đến những cái rất trừu tượng như "yêu sách về tiền được
sử dụng để tạo ra các giá trị kinh tế", "yêu sách về dịch vụ có giá trị kinh tế"
hoặc "địa nhượng theo cơng pháp". Nội dung khuyến khích và bảo hộ đầu tư
trong các Hiệp định này bao gồm việc khuyến khích và bảo hộ đầu tư đối với
cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Từ sự phân tích như trên có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngồi là
hoạt động kinh doanh của các pháp nhân và thể nhân nước ngồi theo những
hình thức nhất định, qua đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư.
1.1.1.2. Bản chất, đặc điểm và hình thức của đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI )
- Về bản chất của FDI.
FDI là hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình xuất khẩu
tư bản từ nước này sang nước khác, một hình thức cao hơn của xuất khẩu
hàng hóa. FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh
tế có nhân tố nước ngồi. Nhân tố nước ngồi ở đây khơng chỉ là sự khác biệt
về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào
quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngồi mà cịn thể hiện ở việc tư bản bắt buộc
phải vượt qua khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản
này nhằm mục đích phục vụ kinh doanh tại các nước tiếp nhận đầu tư, đồng
thời lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu và khai thác tài
nguyên của nước chủ nhà.
- Đặc điểm của FDI.

FDI có một số đặc điểm như sau:
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự
quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm


9
về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, khơng
có những ràng buộc về chính trị, khơng để lại gánh nặng nợ nần cho nền
kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu
là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp
liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực,
chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một
số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của
bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ
nhà nắm giữ.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngồi, nước chủ nhà có thể tiếp
nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý… là
những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của
chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong q trình hoạt động nó cịn
bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng
như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
- Các hình thức của FDI.
Nguồn vốn FDI được thể hiện chủ yếu qua ba hình thức:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết
thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước
nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ,
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh theo lợi nhuận, theo doanh thu

hoặc theo sản phẩm cho các bên tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và
được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư phê chuẩn.


10
- Doanh nghiệp liên doanh
Đây là doanh nghiệp do các bên nước ngồi và nước chủ nhà cùng góp
vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức cơng ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên
doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia và với doanh nghiệp liên doanh trong
phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước
ngoài hoặc của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận.
Theo luật xúc tiến đầu tư nước ngồi của nước CHDCND Lào, vốn
góp của bên nước ngồi khơng thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh
nghiệp liên doanh, góp vốn bằng tiền nước ngồi phải tính ra thành tiền Kíp
theo tỷ giá của ngân hàng Nhà nước Lào tại ngày góp vốn.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp này là doanh nghiệp sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
(tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập
tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm với kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo
luật pháp nước chủ nhà.
Ngồi ba hình thức cơ bản trên cịn có các hình thức như:
+ Hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)
đây là hình thức chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng kinh
doanh cơng trình trong một thời gian dài đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi
nhuận hợp lý. Sau khi kết thúc dự án, tồn bộ cơng trình sẽ được chuyển giao

cho nước chủ nhà và không thu bất cứ khoản tiền nào.
+ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) với hình thức
này sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao cơng trình cho nước chủ
nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh cơng
trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi
nhuận hợp lý.


11
+ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) đối với hình thức này, sau
khi xây dựng xong chủ đầu tư chuyển giao cho nước chủ nhà, nước chủ nhà
sẽ tạo điều kiện cho chủ đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ
vốn đầu tư và có lợi hợp lý.
1.1.1.3. Vai trị của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tiễn thế giới cũng như ở Lào và Việt Nam đã phản ánh rằng FDI
có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt những nước
đang phát triển. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và thơng thường,
nó ln được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu về FDI. Vốn, công nghệ
và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác tài nguyên, hợp lý hóa cơ cấu kinh
tế để phát triển đất nước, tạo công ăn việc làm là nhu cầu và nguyện vọng của
bất cứ quốc gia nào. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển nó lại càng là
mơ ước mà khó có thể tự mình thực hiện. Trong thực tế nhiều năm qua, FDI đã
giúp cho các nước nghèo thực hiện dần những nguyện vọng đó của mình. Vì vai
trị quan trọng của FDI nên ngày nay kể cả các nước phát triển và đang phát triển
đều đang ra sức cạnh tranh để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại cho nước chủ nhà nhiều mối lợi.
Thể hiện rõ ràng nhất là việc chuyển giao vốn, công nghệ hiện đại và kỹ năng
quản lý nếu khơng có FDI sẽ khơng có được hoặc có với giá rất đắt... Đầu tư
trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia sản xuất để xuất khẩu giúp
nước chủ nhà có thể tiếp cận được với thị trường nước ngồi.

Có nhiều cơng trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngồi đề cập
đến vai trị của FDI với mức độ khác nhau. Theo chúng tôi, các vai trò sau
đây của FDI là đặc biệt đáng ghi nhận.
- Bổ sung vốn cho nền kinh tế
Trước hết, FDI đóng vai trị là một nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần
giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến
của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Ở Indonesia, sau khi ban hành Luật


12
Đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân
trong 27 năm (1967 - 1994) là 1,15 tỷ USD. Ở Philippines, FDI đã cung cấp
170 triệu USD năm 1987 và tăng gấp 16 lần vào năm 1994 (2,66 tỷ USD).
Trong những năm Philippines đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao họ
vẫn cho rằng nếu sử dụng vốn nước ngồi hợp lý thì có thể khuyến khích
được tính hiệu quả của nền kinh tế và từ năm 1991 Philippines khơng cịn coi
đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nội địa là "chủ nghĩa đế quốc kinh tế" nữa,
mà coi đó là "sự cần thiết và bây giờ phải mở cửa". Ở Trung Quốc, FDI đã
cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD vốn thực hiện trong 15 năm
1979 đến năm 1994 và hàng trăm tỷ USD từ năm 1995 đến năm 2001... Một
nước phát triển cao như Mỹ với tổng GNP là 7.233 tỷ USD (1995) và tổng
vốn đầu tư là 1.029 tỷ USD (1995), FDI cũng làm tăng thêm nguồn sinh khí
mới cho thị trường đầu tư của Mỹ. Đối với các nước đang rất thiếu vốn để
công nghiệp hóa như Việt Nam thì FDI càng có tầm quan trọng hơn. Vốn FDI
được sử dụng sẽ có tác động thúc đẩy các đồng vốn khác trong nước hoạt
động (một số nhà kinh tế đã tính rằng 1 đồng vốn FDI đã làm cho 4 đồng vốn
trong nước hoạt động theo). Lý do là, các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta
phải sử dụng đường sá, cầu cống, bến cảng, đất đai, nhà ở, bệnh viện, trường
học... của ta và họ phải trả phí dịch vụ cho các hoạt động đó, và như vậy đã
làm cho các đồng vốn bỏ vào các lĩnh vực trên hoạt động náo nhiệt hơn. Một

vùng đất hoang khơng có giá trị nay được chủ đầu tư sử dụng, lập tức có giá
trị hàng triệu USD. Một kết quả nghiên cứu khác ở Singapore cũng cho thấy
rằng vốn đầu tư nước ngoài tăng bao nhiêu thì đầu tư trong nước cũng tăng
bấy nhiêu tại nước chủ nhà.
Ở CHDCND Lào, tính đến hết năm 2010, có thể thu hút vốn đầu tư
của tư nhân trong nước và nước ngoài 1.206 dự án, tổng số vốn
được cấp phép là 10,5 tỷ USD (số liệu tính đến tháng 3 năm 2010);
trong đó só vốn đầu tư của tư nhân trong nước đạt 1,93 tỷ USD.


13
Trong tổng số vốn được cấp phép được đầu tư vào Ngành điện lực
3,33 tỷ USD chiếm 31,71%, mỏ 2,7 tỷ USD, chiếm 30,19% của vốn
được cấp phép. Riêng năm 2008 - 2009 đã cấp phép với tổng vốn
đầu tư 4,3 tỷ USD và các nước đầu tư nhiều nhất là Trung Quốc,
Việt Nam và Thái Lan [24, tr.10].
Bảng 1.1: Vốn đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài
từ năm 2006 - 2010
Đơn vị: Tỷ USD
Năm đầu tư

Tổng số vốn đầu tư

Vốn đầu tư trong nước

2005 - 2006

2.7

1.93


2006 - 2007

1.1

0.4

2007 - 2008

1.2

0.2

2008 - 2009

4.3

0.3

2009 - 2010

1.2

0.9

10,5

0.28

Tổng số vốn


Nguồn: Vụ Khuyến khích đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010).
Đầu tư trực tiếp của nước ngồi đã góp phần tích cực vào sản xuất hàng
hóa, góp phần thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho hàng hóa
ngày càng đa dạng và phong phú, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.
Kết quả nói trên là do Nhà nước Lào có nhiều biện pháp và chính sách
khuyến khíc, bảo hộ và thu hút đầu tư nước ngồi, như: hồn thiện chính sách
khuyến khích đầu tư, củng cố cơ chế cho phép đầu tư, thực hiện cơ chế một
cửa, phân cấp cho địa phương có thể cho phép và quản lý các dự án có vốn
đầu tư dựa vào mức độ đầu tư, tổ chức gặp gỡ Nhà đầu tư trong và ngoài nước
một năm một lần để có thể nắm được những khó khăn và tìm cách giải quyết.
- Cung cấp cơng nghệ mới cho sự phát triển
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu
tư những kỹ thuật cơng nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực lượng sản xuất,


14
cơ cấu lại nền kinh tế... Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và cơng nghệ nước
ngồi đã giúp cho Malaysia thực hiện thành cơng chiến lược "cơng nghiệp
hóa thay thế hàng nhập khẩu" và chiến lược "hướng về xuất khẩu". Từ chỗ cơ
cấu kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán, lực lượng sản xuất kém phát
triển, đến giữa những năm 1980, Malayxia đã là nước xuất khẩu lớn nhất thế
giới về găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích
phân và thứ ba thế giới về máy điều hịa nhiệt độ. Rõ ràng là, chỉ có đầu tư
nước ngồi với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả
năng thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo
được thành cơng nói trên.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong FDI là trong nhiều trường
hợp, các nước phát triển còn mang vào các nước chậm phát triển những công
nghệ tiến tiến hơn ngay cả so với nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng n

tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty của Nhật Bản mang những cơng
nghệ tiến tiến nhất ra nước ngồi để sản xuất hàng hóa rồi nhập khẩu trở lại
Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao. Đã có thời kỳ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư của Nhật Bản ở Malaixia và Philippines chiếm giữ gần 60% kim ngạch
xuất khẩu vào Nhật Bản của những nước này (năm 1987).
Ở Lào, qua FDI chúng tôi đã tiếp nhận được một số thiết bị kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng như: thông
tin viễn thông, thăm dị dầu khí, cơng nghiệp điện tử, sản xuất và lắp ráp ơ tơ,
xe máy, hóa chất, cơng nghệ sinh học... phần lớn các thiết bị đưa vào nước
Lào thuộc loại trung bình của thế giới và tiên tiến hơn những thiết bị đã có.
- Đào tạo nguồn nhân lực
Đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trị như là một hình thức đào tạo
giúp nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng
dần trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hịa nhập vào phân cơng lao


15
động quốc tế. Trong một thời gian dài của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các
giám đốc sản xuất kinh doanh của Lào thường chỉ làm theo kế hoạch và sự
bao cấp của Nhà nước, tính năng động sáng tạo bị hạn chế. Khi bước sang cơ
chế thị trường, khơng ít người tỏ ra lúng túng, bất cập với cơng tác quản lý
mới và rất cần nâng cao trình độ v.v... Việc cùng làm, cùng chịu trách nhiệm
với các nhà quản lý nước ngoài trong các dự án đầu tư để học hỏi kinh
nghiệm của họ là một con đường đào tạo ngắn và có hiệu quả. Qua hơn 25
năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của Lào
tuy đã có nhiều tiến bộ song nói chung vẫn cịn nhiều hạn chế. Các nhà đầu tư
nước ngoài vào làm ăn ở Lào sẽ đưa các chuyên gia quản lý vào áp dụng chế
độ quản lý doanh nghiệp hiện đại, có hiệu quả vào nước Lào. Các nhà doanh
nghiệp Lào sẽ có cơ hội học tập và phát triển.

Hơn thế nữa, FDI cũng góp phần đào tạo một đội ngũ cơng nhân có
trình độ kỹ thuật cao cho đất nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao
mức thu nhập cho người lao động. Trung Quốc và các nước ASEAN đều có
chính sách khuyến khích các dự án đầu tư nước ngồi có sử dụng nhiều lao
động. Ngồi ra, FDI cịn gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn
lao động làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ liên
quan. Một kết quả nghiên cứu của các chuyên gia quốc tế đã chỉ ra rằng, cứ
mỗi việc làm do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tạo ra thì ít nhất
có 1,6 việc làm được tạo ra trong các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Tiền
lương của người lao động, về cơ bản được giải quyết phù hợp với quy định,
cao hơn mức lương của người lao động cùng loại trong nhiều doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác.
- Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều
có nhu cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngồi. Thị trường nội
địa của nước ta tuy khơng lớn nhưng phần lớn số hàng nhập khẩu là hàng


16
trong nước chưa sản xuất được. Đó là cơ sở chủ yếu thúc đẩy các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Lào. Như vậy, thị phần họ nhằm là thị phần
hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu của Lào, trước hết là những mặt hàng nhập
khẩu mà Lào chưa thể sản xuất được.
- Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra những sản phẩm, những
ngành kinh tế cá biệt mới có kỹ thuật công nghệ cao như: Khai thác mỏ, may
mặc, dịch vụ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào một số lĩnh vực của ngành trồng
trọt, chế biến mía đường, cao su... và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong nền
kinh tế Lào. Những ngành kinh tế có tỷ trọng đầu tư trực tiếp của nước ngồi
cao như: Cơng nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, thông tin liên lạc,

khách sạn nhà hàng, may mặc.... là những ngành có tốc độ phát triển cao nhất
và vốn đầu tư nước ngồi có tác dụng quyết định.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngồi đem lại những tác động tích cực
và lâu dài cho nền kinh tế. Xuất phát từ việc FDI có vai trị quan trọng và có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước mà người Malaixia đã
nhận xét rằng: trong một chừng mực nhất định FDI từ chỗ là "nhân tố bên
ngoài" chuyển thành "nhân tố bên trong" quyết định phần lớn tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu, tốc độ và phương hướng
phát triển của ngành công nghiệp Malaysia. Cịn theo Tạp chí Kinh tế Viễn
Đơng thì sau khi có chính sách mở cửa và Luật Đầu tư nước ngoài, nền kinh
tế của Indonesia được coi như "người khổng lồ của Đông Nam Á đang ngủ đã
tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh".
Ở Việt Nam FDI trong những năm qua đã góp phần đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ có hàm lượng
kỹ thuật cao, đẩy mạnh xuất khẩu, đưa nước ta vào phân cơng lao động quốc
tế, tạo hình ảnh mới và vị thế mới với uy tín ngày càng tăng của Việt Nam


17
trên trường quốc tế. Một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy
rằng: "Ở Việt Nam, sự tăng trưởng thu nhập quốc dân mạnh, luồng FDI đổ
vào nhiều và xuất khẩu mạnh là những cái liên quan chặt chẽ với nhau". Báo
cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá, trong giai đoạn 1996-2000: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng đóng góp tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội... tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu
hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% vào năm 2000..., góp phần
quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ cơng nghệ, trình
độ quản lý và mở rộng thị trường.

Trong thực tiễn hoạt động đầu tư Quốc tế cũng như ở Lào cho theo
nguồn vốn FDI có vai trị hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh
tế của các Quốc gia tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các Quốc gia đang trên đà
phát triển như Lào. Với tư cách là nước tiếp nhận đầu tư FDI có những tác
dụng sau:
- FDI là nguồn vốn quan trọng để thực hiện CNH - HĐH đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới. FDI đã
giải quyết các tình trạng thiếu vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội do tích
luỹ nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học
kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới
cho thấy trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước
ngồi cùng với chính sách kinh tế năng động hiệu quả đã trở thành những con
rồng Châu Á.
Cùng với việc cung cấp vốn thông qua FDI của các cơng ty nước
ngồi đã chuyển giao cơng nghệ trong hoặc nước khác cho nước tiếp nhận
đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư, có thể nhận được những cơng nghệ
kỹ thuật tiên tiến hiện đại (thực tế có những công nghệ không thể mua được
bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực


18
maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ
thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động, tạo thêm việc làm cho người
lao động…).
- FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy
tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có
hiệu quả các tiềm năng của đất nước. FDI một hình thức đầu tư có hiệu quả
kinh tế rất cao, bởi trước khi đưa các qui định đầu tư thì hàng loạt các yếu tố
liên quan đến tính khả thi hay khả năng sinh lợi đã được tính tốn khơng. Một
khi dự án đi vào hoạt động nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp có

vốn FDI với doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát
triển các nguồn lực trong nước. Điều đó có tác dụng mạnh mẽ đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
- Với việc tiếp nhận FDI, khơng đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không
chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân
sách nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các cơng ty nước ngồi. Thơng
qua hợp tác với nước ngồi, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập
vào thị trường thế giới. Như vậy, các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy
động tài chính cho các dự án phát triển.
- Ngồi ra, FDI cịn góp phần tăng thu ngoại tệ cho ngân sách nhà
nước thông qua các khoản cho thuê đất, cho thuê mặt nước, tất cả các loại
thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài …
Một yếu tố quan trọng khác đó là thơng qua hoạt động trực tiếp nước
ngồi, CHDCND Lào cịn có thể tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến,
hiện đại. Điều này là rất quan trọng đối với sự phát triển CNH - HĐH đất
nước là điều mà hình thức đầu tư khác khó có thể làm được.
Thêm vào đó FDI cịn góp phần phát triển nhân lực và tạo thêm nhiều
việc làm mới cho người lao động với thu nhập cao, nâng cao mức sống cho


19
người dân, các dự án FDI đòi hỏi rất cao về về chất lượng người lao động, do
đó sự phát triển của FDI ở các nước sở tại nói chung và ở CHDCND Lào nói
riêng đã đặt ra yêu cầu khách quan là phải nâng cao trình độ cho người lao
động, mặt khác chính hoạt động của FDI đã góp phần tích cực vào bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ lao động ở nước sở tại, đó chính là đội ngũ nịng cốt trong
việc học tập tiếp thu kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại, năng lực quản lý tiên tiến
của nước ngồi. Các dự án FDI đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
nhiều người lao động. Hơn nữa, hình thức đầu tư này cịn giúp cho các doanh

nghiệp địa phương tiếp cận được vào thị trường thế giới thông qua liên doanh
và mạng lưới thị trường rộng lớn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trị hết sức quan trọng đối
với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung và đối với CHDCND Lào nói riêng,
nó đã góp phần giải quyết được những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự
tăng trưởng kinh tế như khan hiếm vốn, lạc hậu về cơng nghệ, thiếu việc làm,
góp phần đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Ưu điểm: Từ năm 1988 đến nay, hàng năm vốn đầu tư nước ngoài đã
cung cấp cho các ngành kinh tế một lượng vốn nhất định và cùng với nó là
các thiết bị cơng nghệ đáng kể, góp phần rất lớn vào việc cải thiện nguồn
cung ứng tài chính quốc gia, ở một số ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc
dân, nếu khơng có nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi thì sẽ khơng có
bước phát triển rõ rệt như hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo thêm
một số cơ sở sản xuất và kinh doanh trong những ngành nghề mới, ở một số
lĩnh vực kỹ thuật và vốn đầu tư nước ngoài trở thành nhân tố quyết định cho
sự hình thành và phát triển, ví dụ như một số ngành sau:
Công nghiệp: đây là ngành có số dự án và vốn đầu tư nhiều nhất.
Chính thông qua nguồn vốn và công nghệ được du nhập đã mở ra triều hướng
đổi mới một phần quan trọng các hoạt động sản xuất và chuyển giao kỹ thuật
tiên tiến hơn cho nền kinh tế. Năng lượng sản xuất và trình độ cơng nghệ


20
được nâng lên một bước đồng thời nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm
Lào trên thị trường khu vực và thế giới, được thể hiện rõ nét ở một số mặt
hàng liên doanh sản xuất quan trọng như sắt, thiếc, thạch cao, gỗ, vải, quần
áo… Diện mạo của nền kinh tế được khởi sắc trong những năm qua một phần
không nhỏ là xuất phát từ sự tiếp thu của nguồn vốn và đặc biệt là kỹ thuật
công nghệ từ nước ngồi mang lại.
Về giao thơng vận tải và bưu chính viễn thơng: Đầu tư trực tiếp

nước ngồi đã góp phần làm thay đổi toàn diện về căn bản ngành viễn
thông, đặc biệt là kỹ thuầt và chất lượng, thông tin quốc tế. Bưu chính viễn
thơng vừa là đối tượng hấp dẫn mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra
bước phát triển về chất, nhu cầu liên lạc giữa Lào và thế giới đồng là nhân
tố cơ bản tạo tiền đề cơ sở cho sự khơi mở dòng chảy FDI vào Lào, nhiều
tuyến đường và cầu cống đã được làm mới và nâng cấp, đặc biệt là sự viện
trợ của Chính phủ Austalia trong việc xây dựng cầu bắc qua sông Mê công
nối Lào với Thái Lan đã tạo điều kiện thuận lợi cho liên doanh - vận
chuyển hàng hố.
Những dự án đầu tư trong nơng nghiệp và lâm nghiệp tuy cịn ít nhưng
đã hình thành được những cơ sở có quy mơ và có tác dụng tích cực. Các dự
án áp dụng kỹ thuật mới trong khâu trồng trọt và xuất khẩu cà phê, trong chế
biến các sản phẩm từ gỗ có những bước tiến mới, mở ra triển vọng và sự phát
triển toàn diện và mạnh mẽ hơn.
Hoạt động tài chính, ngân hàng và dịch vụ: Trong lĩnh vực này nguồn
vốn đầu trực tiếp nước ngoài phát huy tác dụng và hiệu quả tương đối nhanh
và rõ rệt. Hệ thống các khách sạn được nâng cấp, mạng lưới dịch vụ phục vụ
du lịch và các nhà đầu tư khá toàn diện và đa dạng, bước đầu đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của khách theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Sự hiện diện các
ngân hàng lớn của nước ngoài tại Lào là gạch nối có ý nghĩa nhiều mặt cho
khả năng đổi mới và nâng cao hoạt động của hệ thống các ngân hàng trong


21
nước, đẩy mạnh tiến trình hồ nhập vào thị trường tài chính thế giới, đồng
thời là sự bảo đảm tài chính có tính quốc tế nhằm kêu gọi và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài thuận lợi hơn.
Thu hút lao động, tạo công ăn việc làm là một trong những mục tiêu
của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thời gian qua nhất là mấy năm
gần đây hầu hết các cơ sở có nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được

một nguồn lao động lớn trực tiếp đã giải quyết được công ăn việc làm đáng
kể. Nguồn thu nhập quốc dân đã có sự tăng lên rõ rệt. Tính từ năm 1988 trở
về trước khi chưa có luật đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Lào thu nhập đầu
người một năm chỉ đạt 70 USD, đến năm 1995 đạt 295 USD, năm 2005 mức
thu nhập bình quân đã đạt tới 350 USD.
Chỉ mới khái quát như vậy đã chứng tỏ rằng đầu tư nước trực tiếp
nước ngoài vào Lào thực sự là nguồn vốn đầu tư thiết yếu của nền kinh tế. Nó
đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng tích cực và
tiến bộ. Thơng qua hoạt động hợp tác và đầu tư với nguồn vốn được du nhập
từ hơn 30 nước đầu tư vào CHDCND Lào, tạo cho Lào một vị thế mới trong
quan hệ quốc tế. Kết quả của hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài từ 1988
đến nay là một nét tiêu biểu và nổi bật của quá trình đổi mới nền kinh tế.
1.1.2. Khái niệm khuyến khích, bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi
Khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi tại CHDCND Lào
là hệ thống các biện pháp khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
những ngành,lĩnh vực, sản phẩm, địa bàn cần đầu tư và bảo đảm lợi ích chính
đáng của các nhà đầu tư tư nước ngồi trong q trình đâu tư trực tiếp nước
ngồi vàoCHDCND Lào.
Trên cơ sở những thành tựu nói trên có thể thấy được hiệu quả của
chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngồi của Lào.
Các chính sách đó đã thể hiện rõ trong Luật khuyến khích đầu tư năm 2004
của Lào, trong đó Luật đã quy định một số vấn đề có tính chất khuyến
khích như sau:


22
“Nhà nước CHDCND Lào đã quy định các ngành nhận được sự khuyến
khích đầu tư, bao gồm:
- Các dự án sản xuất hàng hóa để xuất khẩu;
- Các dự án về nông - lâm nghiệp, chế biến sản phẩm nông - lâm nghiệp

và thủ công nghệp.
- Các dự án về công nghiệp chế biến, các công nghiệp sử dụng công nghệ
tiên tiến và hiện đại, các dự án nghiên cứu khoa học và phát triển, các dự án
bảo vệ môi trường và sinh thái.
- Các dự án về phát triển nguồn nhân lực, tay nghề và bảo vệ sức khỏe
của nhân dân.
- Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Các dự án sản xuất các vật liệu thô để cung cấp cho các ngành sản xuất
công nghiệp quan trọng.
- Các dự án phát triển công nghiệp du lịch và dịch vụ.
Ngồi ra, Chính phủ Lào đã quy định khu vực khuyến khích đầu tư dựa
vào vị trí địa lý, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đã phân thành 3 khu
vực như sau:
Khu vực 1: Miền núi, cao nguyên và đồng bằng chưa có cơ sở hạ tầng
kinh tế thuật lợi cho đầu tư.
Khu vực 2: Miền núi, cao nguyên và đồng bằng có cơ sở hạ tầng kinh tế
có thể đảm nhận được một phần nào đó trong q trình đầu tư.
Khu vực 3: Miền núi, cao nguyên và đồng bằng có cơ sở hạ tầng kinh tế
thuật lợi.
Đối với các khu vực cũng có chính sách ưu đãi khác nhau cho các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án và các khu vực khuyến khích
đầu tư như sau:
Nếu đầu tư vào khu vực 1: sẽ được miễn thuế thu nhập trong thời gian 7
năm và sau đó phải nộp thuế thu nhập với mức đây đủ là 10%.


23
Nếu đầu tư vào lĩnh vực 2: sẽ được miễn thuế thu nhập trong thời gian 5
năm và sau đó phải nộp thuế thu nhập với mức một nửa của 15% trong vịng 3
năm và sau đó phải nộp đầy đủ 15%.

Nếu đầu tư vào lĩnh vực 3: sẽ được miễn thuế thu nhập trong thời gian 2
năm và sau đó phải nộp thuế thu nhập với mức một nửa của 20% trong vịng 2
năm và sau đó phải nộp đầy đủ 20%”.
Luật đầu tư của Lào cũng đã thể hiện rõ việc bảo hộ quyền lợi chính
đáng của các doanh nghiệp đầu tư tại Lào thể hiện như sau:
“ - Nhà nước tạo điều kiện trong việc thành lập và hoạt động sản xuất
kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Nhận được sự bảo hộ về quyền và lợi ích chính đáng có được từ qúa
trình sản xuất kinh doanh.
- Có quyền tự chủ đối với tài sản của mình.
- Được hưởng lợi từ việc thuê đất như: sử dụng, bán hoặc lấy tài sản gắn
với đất thuê ddeer bảo lãnh với cá nhân hoặc các tổ chức tài chính hoặc góp
vốn; cố thể cho th lại quyền sử dụng đất; kế thừa hợp đồng thuê theo thời
hạn của hợp đồng; cho phép sử dụng hợp đồng thêu để bảo lãnh, góp vốn.
Cịn vấn đề quyền và nghĩa vụ của bên Nhà đầu tư được hưởng từ việc thêu
đất là thực hiện theo Luất đất đai và các bộ luật liên quan.
- Cho phép sử dụng lao động nước ngoài nếu cần thiết nhưng khoong
quá 30% của lao động trong doanh nghiệp.
- Nhà đầu tư nước ngoài và thành viên trong gia đình cùng với chuyên
gia, cán bộ người nước ngoài làm việc trong doanh nghiệp sẽ được tạo điều
kiện trong việc VISA ra - vào nhiều lần và có thể sống ở đất nước Lào trong
thời gian dài theo sự quyết định của Chính phủ; có điều kiện lấy Quốc tịch
Lào theo Luật Quốc tịch Lào.
- Được bảo hộ sản phâm trí tuệ được đăng ký với các ngành có liên quan
của CHDCND Lào.


24
- Có thể gửi lãi, vốn và các thu nhập khác sau thực hiện nghĩa vụ về thuế
quan, và các lệ phí khác về nước hoặc nước thứ ba thơng qua ngân hàng đặt

tại CHDCND Lào.
- Có thể mở tài khoản bằng tiền Kíp hoăc Ngoại tệ tại các ngân hàng đặt
tại CHDCND Lào;
- Có quyền địi sự cộng lý hoăc tố cáo các tổ chức có liên quan khi thấy
rằng bị bất lợi trong kinh doanh.
- Được hưởng quyên lợi khác theo quy định của Pháp luật”.
Khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào
hiện nay, Nhà nước rất coi trọng các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi, bằng cách cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hầu hết các
ngành và lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân (trừ Quốc phòng
và một số ngành thuộc lĩnh vực ảnh hưởng đến an toàn và an ninh Quốc
gia).Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Lào ngày càng tạo ra những điều kiện
thuận lợi hơn cho quá trình sản xuất - kinh doanh của nhà đầu tư. Đặc biệt là
các quy định về cải cách về cải cách thủ tục hành chính, các đường lối chính
sách của Đảng trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài và đầu tư nước
ngoài. Cụ thể là tranh thủ được vốn và kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm và
phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và đội ngũ
công nhân kỹ thuật cao, nhanh chóng tạo chỗ đứng vững chắc trong sự phân
công lao động quốc tế tạo được thế mạnh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, để
khuyến khích các tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào
Lào. Luật đầu tư đã định ra một khung pháp lý khá hoàn chỉnh và hấp dẫn,
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Lào, bình đẳng và các bên cùng
có lợi, phù hợp với luật chơi kinh tế trong môi trường cạnh tranh của nền kinh
tế thị trường và phù hợp với phong tục tập qn và thơng lệ quốc tế. Do có
nhiều thuận lợi và đảm bảo lợi ích của người đầu tư, chỉ hơn một năm sau khi
ban hành Luật đầu tư nước ngồi (năm 1988), đã có nhiều cơng ty từ nhiều


25
nước đến trình đơn xin phép vào đầu tư tại Lào với hơn 100 dự án, trong đó

đã cấp giấy phép đầu tư hơn 80 dự án với trị giá hơn 70 triệu USD. Mặc dù
nhà nước đã ban hành luật luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Lào đã dược gần 10 năm nhưng trong tình hình hiện nay vẫn đang có
nhiều mảng xám. Theo tính tốn của các nhà kinh tế thì chỉ có 1/3 số vốn
được đăng ký thực hiện với biên độ gối đầu là 3 năm, vì thế trong khoảng hơn
10 năm thực hiện chính sách mở cửa lượng đăng ký FDI đăng ký vào Lào đạt
32 tỷ USD vào nguồn vốn đưa vào thực hiện gần 11 tỷ USD. Nhiều dự án bị
rút giấy phép thua lỗ hoặc không thực hiện đúng tiến độ. Đây là những mặt
trái phải tính đến trong q trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngo. Tính
từ năm 2001- 2005 lượng FDI vào Lào đạt tới mức kỷ lục 4,6 tỷ USD vốn
đưa vào thực hiện là 3,1 tỷ USD cho 2 năm 2004 và 2005, Riêng năm 2006
vốn đầu tư tăng lên đột biến đạt 2,6 tỷ USD. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn
2000 - 2010 là thu hút được 10 - 13 tỷ USD (vốn thực hiện) là tương đối
nhanh đã làm cho các nhà kinh tế trong nước phấn khích q mức cho rằng
mục tiêu trên hồn tồn có thể đạt được, thậm chí cịn vượt mức với yêu cầu
đặt ra.
1.1.3. Khái niệm pháp luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực
tiếp nước ngồi
Như đã phân tích ở phần trên trong pháp luật của các nước, khái niệm
FDI được thể hiện dưới sự nhìn nhận bằng con mắt của nước tiếp nhận đầu tư.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh từ các quan hệ đầu tư trực
tiếp nước ngồi, các quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, nước tiếp nhận đầu tư đã xác
định hành lang pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự phát sinh, phát triển,
vận động của các quan hệ này theo mục tiêu và ý chí của mình. Tổng thể các
quy phạm pháp luật nói trên hợp thành pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
ngồi. Nói cách khác, pháp luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước



×