Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.38 KB, 91 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rửa tiền được xem là vấn đề tồn cầu, khơng chỉ đe dọa làm mất ổn
định hệ thống tài chính mà cịn ngăn cản sự thịnh vượng của các quốc gia.
Hoạt động này không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô mà còn ảnh
hưởng tiêu cực trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, an
ninh, quốc phịng…
Ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu phòng, chống rửa tiền, ngày 07/06/2005
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa
tiền (sau đây gọi tắt là Nghị định 74).
Qua 6 năm thực hiện, Nghị định 74 và các văn bản hướng dẫn đã tạo
lập khuôn khổ pháp lý cơ bản về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam đáp ứng
được một phần các chuẩn mực quốc tế; góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự an tồn xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong phòng, chống rửa tiền.
Mặt khác, pháp luật về phòng, chống rửa tiền đã tạo cơ sở pháp lý cho
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động phòng, chống rửa tiền; quy định
trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc phòng, chống rửa tiền. Trong đó,
Ngân hàng Nhà nước có vai trị chủ trì, phối hợp với Bộ Cơng an và các cơ
quan hữu quan xây dựng, thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế
hoạch cơng tác phịng ngừa, đấu tranh phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ
Việt Nam; nghiên cứu và có giải pháp để hạn chế thanh tốn bằng tiền mặt
trên lãnh thổ Việt Nam. Bộ Công an có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong đấu tranh phịng, chống tội
phạm có liên quan đến rửa tiền. Các bộ, ngành khác trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan
trong việc phát hiện, xử lý tội phạm rửa tiền.


2


Các định chế tài chính và tổ chức phi tài chính đã thực hiện việc xây
dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. Các quy định nội bộ này là cơ
sở quan trọng để các định chế tài chính và các tổ chức phi tài chính thực hiện
việc phịng ngừa hoạt động rửa tiền một cách có hiệu quả, đảm bảo phát hiện
và báo cáo kịp thời giao dịch đáng ngờ cho Cục Phịng, chống rửa tiền. Ngồi
việc báo cáo giao dịch đáng ngờ, các định chế tài chính và các tổ chức phi tài
chính cũng đã thực hiện nghiêm túc việc báo cáo các giao dịch tiền mặt phải
báo cáo cho Cục Phòng, chống rửa tiền.
Tuy nhiên, quá trình 06 năm triển khai thực hiện Nghị định 74 và các
văn bản hướng dẫn, bên cạnh kết quả nêu trên, một số tồn tại, vướng mắc đã
nảy sinh ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động phòng, chống rửa tiền, như,
Nghị định 74 chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất nên chưa giải quyết được một số quy định không đồng bộ giữa Nghị
định 74 với các văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao hơn; một số quy định
trong Nghị định 74 chưa đáp ứng được đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về
phòng, chống rửa tiền như Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán
bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, Công ước của Liên hợp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các khuyến nghị của Lực lượng
đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền.
Đối tượng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền chưa được mở rộng
đến các cơng ty tín thác, cơng chứng, kế tốn viên…; chưa có những quy
định về vấn đề ngân hàng vỏ bọc, tài khoản nặc danh, cá nhân có ảnh
hưởng chính trị…
Hiện nay, cùng với xu hướng hội nhập ngày càng sâu, rộng trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với những tiến triển trong lĩnh vực công
nghệ, tài chính và sự phức tạp của các hoạt động tội phạm dẫn tới hoạt động
rửa tiền có nguy cơ diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tinh vi, phức tạp cũng
như có khả năng liên quan đến hàng loạt các hoạt động tội phạm như: tội



3
phạm ma túy, tham nhũng, trộm cắp tài sản, buôn lậu...Xuất phát từ những lý
do nêu trên, đòi hỏi sự nghiên cứu tỉ mỉ và giải đáp thấu đáo cả từ phương
diện lý luận và thực tiễn. Do vậy, trước những yêu cầu của thực tiễn và hội
nhập quốc tế, việc hồn thiện pháp luật về phịng chống rửa tiền là hết sức cần
thiết. Chính vì vậy, tơi quyết định chọn đề tài “Hồn thiện pháp luật về
phịng, chống rửa tiền ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phịng, chống rửa tiền đã được các nước quan tâm nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khoa học khác nhau của các quốc gia trên thế giới; tuy nhiên đối
với Việt Nam đây cịn là lĩnh vực mới mẻ, nên các cơng trình nghiên cứu khoa
học liên quan đến vấn đề này chưa nhiều. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào khía cạnh tài chính, ngân hàng, cụ thể như Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp ngành nghiệm thu năm 2010 của TS. Phạm Huy Hùng - Chủ tịch Hội
đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Giải
pháp phòng, chống rửa tiền tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam,
Chuyên đề Tạp chí khoa học pháp lý số 08&09/2011 của nhóm tác giả về “
nghiên cứu các giải pháp phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam trong xu thế
hội nhập”, Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về phịng, chống rửa tiền
trong hoạt động ngân hàng: thực trạng và hướng hoàn thiện ”của tác giả
Tào Thu Minh Nguyệt, Đại học Luật Hà Nội, 2009; “Phòng, chống rửa
tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Vương
Tinh Mạch - Tạp chí nghiên cứu lập pháp 4/2009, “Phòng chống rửa tiền Kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam” của tác giả Văn Tạo Tạp chí ngân hàng 1/2010 …
Các cơng trình, bài viết nêu trên đã nghiên cứu những vấn đề về rửa
tiền tại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào trong số đó đi sâu
nghiên cứu một cách sâu sắc, tồn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp lý về rửa tiền. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các bài


4

viết nêu trên như là nguồn tham khảo hữu ích, trong khi tham khảo chúng
tôi cố gắng đưa ra các kiến giải độc lập theo sự đánh giá của mình về các
vấn đề liên quan, đồng thời vượt qua những hạn chế của các cơng trình đó
bằng việc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện bối cảnh, thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về phòng chống
rửa tiền ở Việt Nam trong sự tham chiếu với pháp luật các nước và thông lệ
quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hoàn
thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền và thực trạng pháp luật về phòng,
chống rửa tiền ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những giải pháp
nhằm hồn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống rửa tiền ở Việt Nam;
- Phân tích các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF)
về chống rửa tiền, pháp luật về chống rửa tiền của một số nước trên thế giới
và việc vận dụng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa
tiền ở Việt Nam;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa tiền ở
Việt nam;
- Phân tích và đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về
phịng, chống rửa tiền ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về phòng, chống rửa tiền được thể hiện ở nhiều văn bản quy
phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau của pháp luật nội dung và pháp luật



5
hình thức. Trong phạm vi luận văn thạc sỹ chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá
thực trạng các quy định pháp luật về tài chính, ngân hàng.
Thời gian nghiên cứu từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số
74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và
của Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật nói chung và những vấn đề liên
quan đến pháp luật về phòng, chống rửa tiền nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
triết học Mác -Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử; Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, thống kê nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong quá
trình nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống, tồn
diện về hồn thiện pháp luật phịng, chống rửa tiền ở Việt Nam. Vì vậy, có
một số đóng góp khoa học mới, cụ thể sau:
- Phân tích và đưa ra khái niệm, đặc điểm của pháp luật phòng, chống
rửa tiền; đồng thời xác định được các tiêu chí để hồn thiện pháp luật này.
- Phân tích và chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế, nguyên nhân hạn
chế của pháp luật về phòng, chống rửa tiền hiện hành ở Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền ở
Việt Nam hiện nay.



6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về phương diện lý luận: kết quả luận văn góp phần làm phong phú
thêm lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói chung. Đặc biệt, đối với
hồn thiện pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể nói riêng.
- Về phương diện thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về rửa tiền
của các cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu khoa học và các nhà lập pháp ở
Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC HẠI CỦA RỬA TIỀN ĐỐI VỚI
KINH TẾ, XÃ HỘI

1.1.1. Khái niệm về rửa tiền
“Rửa tiền” là một thuật ngữ tương đối mới. Nguồn gốc của thuật ngữ
này từ một tờ báo viết về vụ scandal Watergate ở Hoa Kỳ năm 1973 liên quan
đến các vụ bê bối của Tổng thống Richard Nixon, đặc biệt là việc Tổng thống
đã câu kết với mafia để sử dụng những đồng tiền từ buôn bán ma tuý để thắng
cử Tổng thống. Sau khi nhậm chức, Tổng thống tiếp tục hợp tác làm ăn, bao
che, giúp đỡ cho giới tội pham. Thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong một
phiên toà tại Mỹ năm 1982. Kể từ đó, thuật ngữ đã được chấp nhận, được sử
dụng rộng rãi trên tồn thế giới.

Có rất nhiều khái niệm về rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác
nhau, cụ thể như sau:
Rửa tiền theo tiếng Anh là “Money Laundering” cách nói ẩn dụ là “làm
sạch đồng tiền” phù hợp theo luật pháp, là hoạt động giao dịch tài chính đặc
biệt để giấu tên, nguồn gốc và xuất xứ của đồng tiền, là việc biến đồng tiền
phạm pháp thành đồng tiền hợp pháp để sử dụng [50].
Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma
tuý và các chất hướng thần (năm1988), Công ước Viên và Công ước của Liên
Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (năm 2000), Cơng
ước Palermo thì rửa tiền là:
“Sự chuyển hố hoặc chuyển nhượng tài sản khi biết tài sản đó có nguồn
gốc từ bất kỳ hành vi phạm tội [bn bán bất hợp pháp ma tuý] nào hoặc từ
việc tham gia vào hành vi phạm tội đó nhằm mục đích giấu giếm hoặc che


8
đậy nguồn gốc phi pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào có
dính líu đến việc thực hiện hành vi phạm tội nói trên để tránh cho người đó
phải chịu những hậu quả pháp lý do hành động của mình;
Việc giấu giếm hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc
định đoạt, sự chuyển dịch, các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu
tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc tham
gia vào hành vi phạm tội đó;
Việc có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi tại thời điểm chuyển
tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc
tham gia vào hành vi phạm tội đó.”
Theo Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) do nhóm
G7 thành lập tại Paris năm1989, một cơ quan liên Chính phủ chuyên nghiên
cứu, ban hành và giám sát thực hiện các chuẩn mực quốc tế về phịng, chống
rửa tiền thì rửa tiền bao gồm các hành vi sau:

- Cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, cất giấu, di chuyển hay chuyển
quyền sở hữu tài sản phạm pháp nhằm tránh bị truy tố;
- Cố ý mua, sở hữu, sử dụng tài sản phạm pháp;
- Che giấu thông tin, giúp đỡ đối tượng phạm pháp trốn tránh sự trừng
phạt của pháp luật;
- Tiết lộ thơng tin cho đối tượng đang bị tình nghi.
Theo Nghị định số 74/2005 ngày 07/06/2005 của Chính phủ về phịng
chống, rửa tiền thì “rửa tiền là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm cách
hợp pháp hố tiền, tài sản do phạm tội mà có thơng qua các hoạt động cụ
thể sau đây:
- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền,
tài sản do phạm tội mà có;
- Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;


9
- Đầu tư vào một dự án, một cơng trình, góp vốn vào một doanh nghiệp
hoặc tìm cách che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản
chất thật sự hoặc vị trí, q trình di chuyển hoặc chuyển quyền sở hữu đối với
tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Tại Điều 251 Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009, “tội rửa tiền” được quy
định như sau:
“Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng
hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có
nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó;
b) Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành
các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;

c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, q trình di
chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có
hoặc cản trở việc xác minh các thơng tin đó;
d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản
này đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển
nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Từ những quan niệm nêu trên có thể rút ra khái niệm về rửa tiền như sau:
rửa tiền là hành vi nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc của tiền và tài sản
thu được một cách bất hợp pháp làm chúng trở thành có nguồn gốc hợp pháp để
sử dụng và trốn tránh sự phát hiện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.2. Đặc điểm
Từ quan niệm về rửa tiền nêu trên cho thấy rửa tiền có một số đặc điểm sau:
Một là, nguồn gốc của tiền và tài sản trong rửa tiền
Nguồn gốc của tiền và tài sản đem rửa là tiền, tài sản phát sinh từ những
hoạt động tội phạm mà có, với tư cách là một tội phạm phái sinh, rửa tiền có


10
thuộc tính phụ thuộc tự nhiên vào tội phạm nguồn. Tội phạm nguồn của tội rửa
tiền là tội phạm chính tạo ra thu nhập, khi được rửa sẽ dẫn đến tội rửa tiền.
Trên thực tế, hệ thống pháp luật PCRT ở những nước khác nhau có
những quy định khác nhau về tội phạm này.
Theo khuyến nghị của FATF có 20 tội được chỉ định là tội phạm nguồn.
Đó là, tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức và kiếm tiền bằng những
thủ đoạn bất chính; khủng bố, bao gồm cả việc tài trợ thương mại; buôn bán
người và chun trở lén lút người di trú; bóc lột tình dục, bao gồm cả bóc lột
tình dục trẻ em; bn bán bất hợp pháp ma tuý và các chất hướng thần; bn
lậu vũ khí; bn lậu hàng hố trộm cắp và các hàng hoá khác; tham nhũng và
hối lộ; gian lận; làm tiền giả và vi phạm quyền tác giả của tác phẩm; phạm tội
về môi trường; giết người, gây thương tích nặng; bắt cóc trẻ em; giam giữ và

bắt làm con tin một các bất hợp pháp; cướp hoặc trộm cướp; buôn lậu; tống
tiền; giả mạo giấy tờ; cướp biển và mua bán tay trong và thao túng thị trường
[48].
Theo pháp luật hình sự Việt Nam có nhiều tội danh mà khi thực hiện,
tội phạm có thể thu được những khoản tiền lớn và bất hợp pháp như trộm cắp,
lừa đảo, tham ô, tống tiền, buôn lậu,…tất cả những hành vi phạm tội này sau
khi hoàn thành và thu được khoản lợi, tội phạm đều có thể thực hiện các hành
vi rửa tiền nhằm che giấu hành vi phạm tội và hợp pháp hóa những khoản
tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Mặc dù, nguồn gốc của tiền, tài sản đem rửa là rất đa dạng nhưng xét
về bản chất thì đó là tiền và tài sản bất hợp pháp có được từ những hành vi
phạm tội.
Hai là, mục đích của hành vi rửa tiền
Mục đích của chủ thể thực hiện hành vi rửa tiền hướng tới đó là sự hợp
pháp hố các khoản tiền và tài sản có được từ các hành vi phạm tội mà có,
“che giấu”, ngụy trang nguồn gốc phát sinh của tiền và tài sản, làm cho đồng


11
tiền “bẩn” trở thành tiền “sạch” để dễ dàng sử dụng đồng thời chủ thể rửa tiền
cũng sẽ không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện và truy tố hành
vi phạm tội để tạo ra tiền và tài sản đem rửa.
Ba là, chủ thể thực hiện hành vi rửa tiền
Chủ thể thực hiện hành vi rửa tiền rất đa dạng và phong phú. Sự đa dạng
và phong phú này cũng xuất phát từ sự đa dạng trong các hình thức phạm tội
là nguồn gốc của các khoản tiền, tài sản thu được một cách bất hợp pháp.
Chủ thể của hành vi rửa tiền bao gồm cá nhân, pháp nhân tham gia vào
quá trình “rửa tiền” với mong muốn hợp pháp hóa tiền và tài sản có được từ
hoạt động tội phạm. Để rửa sạch những đồng tiền bẩn một cách dễ dàng,
thuận lợi, tội phạm rửa tiền thường chú ý tới các quốc gia có mức độ sử dụng

tiền mặt và các nguồn chuyển tiền khơng chính thức lớn, hệ thống thanh tra,
giám sát, tìm hiểu khách hàng của các định chế tài chính cịn chưa phát triển
hay nói một cách khác đó là các quốc gia mà hệ thống pháp luật về phòng,
chống rửa tiền còn chưa hoàn chỉnh, chưa nghiêm khắc trong việc xử lý các
hành vi về rửa tiền.
Bên cạnh đó, rửa tiền khơng đơn thuần chỉ là một số hành vi cụ thể mà
có thể là một loạt các hành vi phức tạp và tinh vi. Hành vi này có thể được
người thực hiện tội phạm nguồn trực tiếp thực hiện bằng việc tự mình thiết
lập nên các giao dịch nhằm che giấu hành vi phạm tội và nguồn gốc của
khoản tiền hoặc cũng có thể thực hiện gián tiếp bằng cách thuê, tặng, biếu,
cho một đối tượng khác thực hiện thay mình hoặc nhân danh người được sở
hữu tài sản đó.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự hiện hành
thì dù trực tiếp hay gián tiếp thực hiện các hành vi này đều bị coi là rửa tiền.
Bốn là, đặc điểm về hình thức rửa tiền
Rửa tiền có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt là các
nước chưa có hoặc có hệ thống pháp luật về phịng, chống rửa tiền chưa chặt


12
chẽ, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về tài chính, ngân hàng...những nước
đang trong q trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Từ thực tiễn chống rửa tiền của nhiều nước cho thấy hình thức rửa tiền
rất đa dạng như sau:
- Rửa tiền thông qua các giao dịch đổi tiền mặt: Theo hình thức này tiền
được rửa bằng cách đổi từ đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước
khác. Ví dự như đổi từ VNĐ sang USD…
- Rửa tiền thông qua việc mua vàng, kim loại quý, đá quý…đây là những
tài sản có giá trị và có thể mua, bán một cách dễ dàng.
- Rửa tiền thơng qua hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán hoặc

mua bảo hiểm hoặc đầu tư vào lĩnh vực bất động sản…
- Rửa tiền thông qua việc đầu tư vào doanh nghiệp, nhà hàng, khách sạn…
- Rửa tiền thơng qua các trị chơi có thưởng, cá cược hoặc đánh bạc…
- Rửa tiền thông qua hệ thống các tổ chức tài chính.
Trong các hình thức rửa tiền nêu trên, rửa tiền qua các tổ chức tài chính
thường được chủ thể rửa tiền lựa chọn vì đó là nơi cung cấp các dịch vụ tài
chính, ngân hàng đa dạng như gửi, rút, thanh toán chuyển tiền, phát hành hối
phiếu, séc... khi “tiền bẩn” được gửi vào ngân hàng thì sẽ chuyển thành “tiền
sạch” và chủ thể rửa tiền có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau mà
khơng gây nghi ngờ về tính hợp pháp của chúng. Rửa tiền qua ngân hàng
thường được thực hiện như sau:
+ Rửa tiền thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức gửi tiết
kiệm hoặc mua các giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành, làm cho đồng tiền
nằm im trong ngân hàng một thời gian phù hợp với quy định với mỗi nước.
Sau đó, người gửi tiền có thể rút ra tồn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến
số tiền đó thành tiền hợp pháp và sử dụng cho các mục đích khác nhau.
+ Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: Tại một số nước, hệ
thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, chi phí cao. Do đó, trong cộng


13
đồng những người nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng
khơng chính thức gọi là ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này
hoạt động và luân chuyển tài chính như các ngân hàng chính thức nhưng với
chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân hàng được thành lập hợp pháp.
Các ngân hàng ngầm có đại diện ở nhiều nước khác nhau để thực hiện dịch vụ
chuyển tiền từ nước này sang nước khác hoặc từ thành phố này sang thành
phố khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của ngân hàng này chủ yếu
dựa trên niềm tin giữa ngân hàng và bạn hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ và
thường bị chủ thể rửa tiền lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật của những ngân

hàng này, để đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một thành phố khác.
Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những quốc gia đang cần
vốn và ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh toán qua ngân hàng
chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật về phòng chống
rửa tiền chưa chặt chẽ...
Mặc dù, có nhiều hình thức rửa tiền nêu trên nhưng về cơ bản hành vi
rửa tiền phổ biến trên thế giới thường tiến hành theo quy trình như sau:
Giai đoạn đầu tiên, chủ thể rửa tiền sẽ đưa tiền do hoạt động phạm pháp
mà có vào các tổ chức tài chính hoặc chuyển hóa tiền mặt thành hàng hóa.
Thủ đoạn phổ biến để tránh bị phát hiện là thực hiện đầu tư phân tán bằng
cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định
phải khai báo.
Giai đoạn tiếp theo, tiền được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ
chức tài chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất
đây là quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các
nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp và làm cho chúng ngày càng xa nguồn
gốc ban đầu.
Giai đoạn cuối là “hợp pháp hóa” số tiền đó bằng cách đầu tư vào hoạt
động kinh doanh hợp pháp. Để thực hiện quá trình này, đối tượng rửa tiền


14
thường chuyển tiền đan xen với các nguồn tiền hợp pháp và chuyển qua lại
giữa các hoạt động kinh doanh bằng nhiều tài khoản khác nhau, hoặc giữa tài
khoản trong nước với tài khoản nước ngoài. Những giao dịch đáng ngờ, có
dấu hiệu rửa tiền sẽ có các biểu hiện như: đột ngột chuyển tiền với số lượng
lớn, thường xuyên chuyển tiền ra nước ngoài, tiền gửi đến người nhận khơng
có quan hệ cá nhân, thực hiện chuyển tiền tại nhiều chi nhánh ngân hàng ở
các tỉnh biên giới...
1.1.3. Tác hại của hoạt động rửa tiền

Một là, tác hại đối với nền kinh tế vi mơ
Rửa tiền có tác động tiêu cực đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống
tài chính nói riêng, làm rối ren, lệch lạc trong điều hành chính sách kinh tế
của một quốc gia. Rửa tiền gây ra những hậu quả kinh tế, xã hội nghiêm trọng
ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, uy tín quốc tế của quốc gia và rửa tiền có thể
tàn phá thành quả kinh tế của một quốc gia.
Bằng việc sử dụng các “công ty vỏ bọc” là các công ty được thành lập
hợp pháp, kinh doanh hợp pháp nhưng do tổ chức tội phạm kiểm soát và sử
dụng đan xen nguồn vốn hợp pháp và bất hợp pháp để che dấu những khoản
tiền do phạm tội mà có. Mục đích hoạt động của loại cơng ty vỏ bọc này
nhằm bảo toàn, bảo vệ những khoản tiền bất hợp pháp mà không phải để tạo
ra lợi nhuận nên các doanh nghiệp hợp pháp khác sẽ khó thể cạnh tranh.
Những khoản thu được từ rửa tiền có thể dùng để kiểm sốt tồn bộ các ngành
hoặc khu vực của nền kinh tế, do đó sẽ làm tăng sự bất ổn định về tiền tệ và
kinh tế do sự phân bố sai lệch các nguồn lực, làm méo mó giá tài sản và hàng
hố đồng thời nó cũng tạo ra một cơ chế trốn thuế làm cạn kiệt nguồn thu của
đất nước.
Hai là, tác hại đối với các lĩnh vực của đời sống-xã hội.
Rửa tiền sẽ làm gia tăng tội phạm. Rửa tiền thành công sẽ giúp cho các
chủ thể phạm tội có thể sinh lời từ các khoản tiền và tài sản do phạm tội mà


15
có, thúc đẩy chúng tiếp tục phạm tội để kiếm tiền và từ đó sẽ làm gia tăng tội
phạm nguồn. Nguy hiểm hơn là những đồng tiền đó được tài trợ cho khủng bố
để huỷ diệt con người.
Ba là, tác hại đối với hệ thống tài chính
Rửa tiền có thể đe doạ sự an tồn và tính ổn định, sự minh bạch và hiệu
quả của hệ thống tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn đầu tư nước ngoài
gây nên những hậu quả kinh tế bất lợi có thể xẩy ra nếu khơng kiểm sốt được

các nguồn tiền.
Rửa tiền có thể gây nguy hại cho sự lành mạnh của khu vực tài chính
nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng vì khoản tiền khơng minh bạch có
thể rút ra bất cứ lúc nào theo yêu cầu của chủ thể rửa tiền hoặc bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tịch thu, phong tỏa, do đó sẽ làm cho các tổ chức bị động
về nguồn vốn để kinh doanh hoặc gặp khó khăn trong thanh khoản.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về
phòng, chống rửa tiền
1.2.1.1. Khái niệm của pháp luật về phịng, chống rửa tiền
Dưới góp độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, pháp luật được
hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đồng thời là yếu tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra một xã hội ổn định, trật tự và phát
triển. Để phòng, chống rửa tiền hiệu quả đòi hỏi Nhà nước phải ban hành các
quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý
thực thi cơng tác phịng, chống rửa tiền. Quy phạm pháp luật về PCRT cũng
giống như các quy phạm pháp luật khác là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung, có tính phổ biến với mọi chủ thể, được áp dụng nhiều lần trong cuộc
sống, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực hiện,


16
Tuy nhiên, quy phạm pháp luật trong phòng, chống rửa tiền có điểm khác là
chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng hoặc các lĩnh vực khác có liên quan đến giao dịch tiền tệ hay tài sản
khác của các tổ chức, cá nhân. Do đó, các quy phạm pháp luật về PCRT quy
định các biện pháp để nhận biết các hành vi rửa tiền, các biện pháp phòng,

chống rửa tiền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ
chức, cá nhân có liên quan trong phịng, chống rửa tiền đồng thời quy định
các biện pháp chế tài xử lý vi phạm.
Từ đó có thể hiểu pháp luật về phòng, chống rửa tiền là tổng thể các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và các lĩnh vực khác có liên
quan đến giao dịch tiền tệ hay tài sản khác của tổ chức và cá nhân;quy
định các biện pháp phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong phòng, chống rửa tiền đồng thời quy định
các biện pháp xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống rửa tiền.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về phòng, chống rửa tiền
Một là, pháp luật về PCRT là tổng thể các quy phạm pháp luật phản ánh
đặc thù của hoạt động phòng, chống rửa tiền, vừa có những quy phạm mang
tính hành chính, vừa có những quy phạm mang tính bắt buộc.
- Quy phạm pháp luật mang tính hành chính thể hiện chủ yếu trong việc
quy định cơ chế, biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng và các lĩnh vực khác có liên quan đến tiền và tài sản khác mà các
tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ phải thực hiện; trách nhiệm của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống rửa tiền.
- Quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thể hiện chủ yếu trong các
quy định về các biện pháp xử lý vi phạm đối với các chủ thể có hành vi vi


17
phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Tùy theo tính chất và mức độ vi
phạm chủ thể rửa tiền sẽ bị:
Truy cứu trách nhiệm hình sự khi cá nhân có hành vi vi phạm điều luật
được quy định trong Bộ luật Hình sự; hoặc xử lý vi phạm hành chính khi cá
nhân và tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về PCRT nhưng chưa đến

mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hai là, pháp luật PCRT không nằm trong một đạo luật cụ thể mà nằm
rải rác trong các đạo luật có liên quan và các văn bản dưới luật.
Hành vi, hình thức, thủ đoạn rửa tiền rất đa dạng liên quan đến nhiều
các lĩnh vực trong đời sống - xã hội như hoạt động đầu tư, mua bán chứng
khoán, bất động sản hoặc mua, bán vàng, đá quý... do vậy, liên quan đến rất
nhiều đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật đầu tư, Luật
kinh doanh bất động sản, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo
hiểm...Hiện nay, văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động PCRT ngoài
Bộ luật Hình sự quy định tội danh về “ rửa tiền”, các văn bản quy phạm pháp
luật khác được thể hiện dưới hình thức văn bản cao nhất là Nghị định của
Chính phủ và các thơng tư hướng dẫn nghị định. Mặc dù, nằm rải rác trong
nhiều văn bản thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng về cơ bản các quy định
của pháp luật tương đối thống nhất với nhau trong việc điều chỉnh các quan
hệ về phòng, chống rửa tiền.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về phòng, chống rửa tiền
Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của pháp luật về phòng, chống rửa
tiền nêu trên, nội dung pháp luật về phòng, chống rửa tiền phải thể hiện sự
điều chỉnh đầy đủ, toàn diện của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong
quá trình thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền và xử lý các chủ thể vi
phạm các quy định của pháp luật về PCRT.
Một là, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung: Đây là những quan hệ
phản ánh nội dung quản lý nhà nước về PCRT bao gồm việc ban hành cơ chế,


18
chính sách, biện pháp về PCRT; kiểm tra, thanh tra giám sát việc thực hiện
pháp luật về PCRT và xử lý vi phạm các quy định của pháp luật về PCRT.
Hai là, nhóm quan hệ giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính, phi
tài chính và ngân hàng với khách hàng trong việc thực hiện các biện pháp

phòng, chống rửa tiền.
Hoạt động của các tổ chức tài chính, ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các tổ chức này là kênh dẫn vốn
cho nền kinh tế và do đó dễ bị tội phạm rửa tiền lợi dụng để biến các khoản
tiền có nguồn gốc tội phạm thành các đồng tiền sạch để sử dụng vào các mục
đích khác nhau. Ngồi các tổ chức trên thì các tổ chức phi tài chính như các
Cơng ty tư vấn pháp lý, Văn phòng luật sư, Các tổ chức kinh doanh trò chơi
may rủi...cũng dễ bị chủ thể thực hiện hành vi rửa tiền lợi dụng để rửa tiền.
Do vậy, việc quy định các biện pháp phòng ngừa rửa tiền trong hoạt động của
tổ chức này là hết sức cần thiết. Pháp luật về PCRT quy định các biện pháp
phòng ngừa chung và các biện pháp phòng ngừa cụ thể của các tổ chức này
trong việc PCRT nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi rửa tiền.
Sự thể hiện đầy đủ các nhóm quan hệ trên đây trong pháp luật về PCRT
sẽ tạo khung pháp lý hữu hiệu trong phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về phòng, chống rửa tiền
Một là, pháp luật về phòng, chống rửa tiền là phương tiện để thể chế
hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phòng, chống rửa tiền
Nhận thức được tầm quan trọng của cơng tác phịng, chống rửa tiền
trong q trình hội nhập quốc tế, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ “ “ký kết và
gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các hiệp
định tương trợ tư pháp…”.


19
Đường lối, chính sách của Đảng chỉ đạo phương hướng xây dựng pháp
luật, chỉ đạo nội dung pháp luật và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Do vậy, pháp luật về PCRT có vai trị quan trọng trong việc thể chế hóa đúng

đắn, kịp thời và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về cơng tác phịng,
chống rửa tiền, làm cho nó đi vào cuộc sống.
Hai là, pháp luật phịng, chống rửa tiền là cơng cụ hữu hiệu để phòng
chống tội phạm
Với tư cách là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có
vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội. Do
đó, một hệ thống pháp luật hồn chỉnh về PCRT trong đó quy định một phạm
vi rộng các tội phạm nguồn của tội rửa tiền sẽ góp phần phịng, chống tội
phạm nói chung qua đó các cơ quan có thẩm quyền có thể phát hiện và truy tố
các tội phạm khác là nguồn gốc của tội rửa tiền như tội tham nhũng, tội buôn
bán ma túy, tội trốn thuế… từ đó để đảm bảo trật tự, kỷ cương của xã hội.
Ba là, pháp luật phòng, chống rửa tiền giúp tăng cường sự ổn định
của các tổ chức tài chính.
Một hệ thống pháp luật về PCRT nghiêm khắc sẽ ngăn cản được sự tác
động của các tổ chức tội phạm rửa tiền vào nền kinh tế nói chung và các tổ
chức tài chính nói riêng, làm giảm thiểu những rủi ro tài chính do hậu quả của
sự gian lận bắt nguồn trực tiếp từ hoạt động phạm tội hoặc việc vi phạm các
quy định về PCRT trong hoạt động của tổ chức tài chính, dẫn đến khả năng tổ
chức tài chính này bị thua lỗ hoặc phá sản. Các quy định của pháp luật về
nhận biết khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ phù hợp sẽ tạo cơ sở pháp
lý để các tổ chức tài chính loại ra khỏi nguồn vốn hoạt động của mình những
nguồn tiền phi pháp; với cơ chế kiểm sốt nội bộ chặt chẽ, thận trọng sẽ giúp
các tổ chức tài chính phịng tránh được hoạt động rửa tiền giữ vững được sự
ổn định trong các hoạt động kinh doanh của mình.


20
Ngoài ra, pháp luật PCRT làm lành mạnh và minh bạch hố các giao
dịch về tài chính trong nước và quốc tế tạo cơ sở pháp lý thu hút vốn đầu tư
nước ngồi góp phần hội nhập quốc tế hệ thống tài chính.

Bốn là, hệ thống pháp luật về phịng, chống rửa tiền góp phần tạo nên
sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật ở Việt Nam
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Khơng thể có một hệ thống pháp luật thống nhất và đồng
bộ nếu như có một bộ phận nào đó khơng đầy đủ hoặc chồng chéo, mâu thuẫn
với các bộ phận khác trong cùng một hệ thống. Xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao là yêu cầu khách quan, do vậy, việc
hồn thiện pháp luật về phịng, chống rửa tiền với mức độ pháp điển cao sẽ góp
phần xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ ở Việt Nam.
1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ ĐẢM BẢO HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHỊNG, CHỐNG RỬA TIỀN

Tiêu chí hồn thiện pháp luật về PCRT là dấu hiệu, chuẩn mực mà dựa
vào đó đối chiếu với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của từng giai đoạn cụ thể,
xem xét một cách khách quan để rút ra những kết luận, làm rõ những ưu
điểm, nhược điểm của các quy định pháp luật về PCRT. Có nhiều tiêu chí để
xác định trong đó có các tiêu chí cơ bản sau:
1.3.1. Tiêu chí về nội dung
Pháp luật về phịng, chống rửa tiền được coi là hoàn thiện phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn về nội dung như sau:
- Pháp luật về phịng, chống rửa tiền phải thể chế hóa cương lĩnh chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng trong điều kiện đổi mới,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mở cửa và hội nhập
quốc tế. Có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng


21
về hồn thiện pháp luật phịng, chống rửa tiền thể hiện trong các nghị quyết
của Đảng.

Như vậy, việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về phịng, chống rửa
tiền là một tất yếu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tạo
khuôn khổ pháp lý cho cuộc đấu tranh chống loại hình tội phạm rửa tiền, đảm
bảo an ninh quốc gia cũng như những yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Nội dung của pháp luật về phịng, chống rửa tiền phải phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước thể hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về phòng chống rửa tiền đặc biệt là văn bản luật phải phù hợp với
các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ phát
triển cũng như hệ thống pháp luật nói chung; pháp luật về phịng, chống rửa
tiền phải phản ánh đúng trình độ phát triển của nền kinh tế và phù hợp với sự
phát triển của nó. Đây là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tính khả thi và
hiệu quả của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Pháp luật về phòng, chống rửa tiền phải phù hợp với điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên. Tiêu chí này địi hỏi pháp luật về PCRT phải
có sự kế thừa, có sự chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các khuyến nghị
của FATF trong việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực tài chính, phi tài chính và ngân hàng. Phát huy nội lực, tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các kết quốc tế về PCRT trên
cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội
chủ nghĩa.
1.3.2. Tiêu chí về hình thức
- Tính tồn diện: Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí hàng đầu để đánh giá mức
độ hồn thiện của pháp luật về phịng, chống rửa tiền. Tính tồn diện của pháp
luật thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã
hội bằng pháp luật. Trong lĩnh vực phịng, chống rửa tiền tính toàn diện của


22
pháp luật thể hiện trong việc các quy phạm pháp luật về phịng, chống rửa tiền

phải bao qt tồn bộ hoạt động đời sống, xã hội; các quy phạm pháp luật đó
phải quy định cụ thể các cơ chế, biện pháp phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam
trong các giao dịch về tiền tệ hay tài sản khác; trách nhiệm của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong phòng, chống rửa tiền; các quy phạm pháp luật đó đủ
để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó, kết cấu mỗi quy phạm pháp luật về phịng, chống rửa
tiền phải có cấu trúc logich, chặt chẽ, phải đảm bảo về nội dung và hình
thức văn bản.
- Tính đồng bộ: Tính đồng bộ của pháp luật được thể hiện ở khía cạnh
các yếu tố tạo nên pháp luật phải được xây dựng và phát triển trong một quy
trình với một tốc độ, một thời gian chung; tính đồng bộ đó phải tạo ra sự phù
hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể. Trong giai đoạn hiện nay, việc
bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật về phòng, chống rửa tiền là điều cần thiết,
đó là sự đồng bộ giữa các chủ trương, đường lối của đảng, pháp luật của nhà
nước về phòng, chống rửa tiền; các văn bản quy phạm pháp luật về phòng,
chống rửa tiền phải chứa đựng đầy đủ các quy phạm pháp luật về nội dung và
hình thức; Tính đồng bộ của pháp luật phòng, chống rửa tiền còn thể hiện ở
việc ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết trong trường hợp cần có sự
quy định chi tiết để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng có đủ các
điều kiện tổ chức thực hiện ngay trong thực tế.
- Tính thống nhất: Các quan hệ xã hội là một chỉnh thể thống nhất, do
đó các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được
xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật
thể hiện các quy phạm pháp luật trong một ngành luật phải phù hợp với nhau,
không mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp và xung đột nhau. Tính thống nhất
của pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền đòi hỏi các quy định về cơ
chế, biện pháp phòng, chống rửa tiền phải có sự liên kết, phối hợp tác động


23

điều chỉnh theo một chiều, hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa
các quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền với các điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, sự thống nhất đó khơng chỉ trong phạm vi quốc gia
mà cịn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong việc xây dựng
và bảo đảm quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền phải thống nhất với
các quy phạm pháp luật tương ứng nói chung, thống nhất giữa các quy phạm
pháp luật trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao với văn bản có hiệu lực
pháp lý thấp hơn. Cụ thể, việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền
phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ với pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; pháp luật về phòng, chống ma tuý; pháp luật về phịng,
chống mua, bán người, pháp luật hình sự; pháp luật về ngân hàng, tài chính;
pháp luật về kinh doanh bất động sản và pháp luật về đầu tư…
- Tính khả thi: Mục đích của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
hướng chúng phát triển theo một trật tự mà Nhà nước mong muốn thiết lập,
do đó pháp luật phải đủ mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật có
tính khả thi khi nó được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã
hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Để các quy định của pháp luật về
phòng, chống rửa tiền có khả năng thực hiện trong thực tế địi hỏi các quy
định phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong
quá trình đổi mới hội nhập quốc tế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
- Tính minh bạch và khoa học: Pháp luật về PCRT minh bạch và khoa
học khi các quan điểm, nguyên tắc do Nhà nước đề ra để PCRT phải được thể
chế hóa đầy đủ trong các quy phạm pháp luật; các quy phạm pháp luật này
phải được diễn tả bằng ngơn ngữ pháp lý chính xác và khoa học, trong đó
phải chỉ rõ phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng đồng thời phải xác định
rõ mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với từng nhóm, từng quan hệ pháp


24

luật cụ thể; phải xác định rõ hành vi vi phạm pháp luật về PCRT trong trường
hợp nào, ở mức độ nào thì áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp hình sự.
- Hình thức văn bản: Nhà nước trong quá trình tồn tại và phát triển phải
ban hành rất nhiều loại văn bản khác nhau có thể là văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản áp dụng pháp luật... trong đó văn bản quy phạm pháp luật là
hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Trong hệ thống các văn bản pháp luật được
phân theo thứ bậc cao thấp theo thẩm quyền ban hành Hiến pháp, luật và các
văn bản dưới luật như nghị định, thông tư...Hiện nay, văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động PCRT mới được thể hiện dưới hình thức văn bản là Nghị
định của Chính phủ. Pháp luật về phòng, chống rửa tiền được coi là hồn
thiện phải được ban hành dưới hình thức là văn bản luật để nâng cao hiệu lực
pháp lý cho các quy định về PCRT để các quy định này có giá trị pháp lý và
tính ổn định cao.
- Kỹ thuật lập pháp: Một hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền
hồn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật lập pháp cao đó là tổng thể
những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo
nhằm đảm bảo cho pháp luật có được đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có
hiệu quả các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền.
Do đó, q trình soạn thảo pháp luật về phịng, chống rửa tiền phải được tiến
hành theo đúng trình tự, quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Trong q trình soạn thảo phải có tổng kết, đánh giá việc thực thi pháp
luật qua đó phát hiện những điểm bất cập của các quy định hiện hành cần phải
sửa đổi, bổ sung; có báo cáo đánh giá tác động khoa học, chính xác. Việc
đánh giá tác động pháp luật về phòng, chống rửa tiền cần phải được tiến hành
trong hai trường hợp: đánh giá có tính chất dự báo về khả năng tác động của
dự thảo quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền và đánh giá kết quả tác
động thực tế của pháp luật phòng, chống rửa tiền trong đời sống xã hội. Việc
đánh giá phải dựa trên những tiêu chí nhất định với cùng một đại lượng đo và



25
trong cùng một phạm vi xác định. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật
về phòng, chống rửa tiền phải được ban hành đúng thẩm quyền có kết cấu,
chặt chẽ, hợp lý; ngôn ngữ sử dụng trong văn bản phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn
gọn, cô đọng , lo gic và một nghĩa, phù hợp với khả năng nhận thức của
quảng đại quần chúng nhân dân.
Ngồi các tiêu chí nêu trên, pháp luật về phòng, chống rửa tiền được
coi là hồn thiện khi đạo luật đó phải đi vào cuộc sống, phải đảm bảo cho
nhân dân nắm được một cách đầy đủ, từ đó nâng cao ý thức tuân thủ và chấp
hành pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Muốn vậy, cần phải coi trọng công
tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau
để pháp luật về PCRT được triển khai trong thực tiễn.
1.4. KHUYẾN NGHỊ CỦA LỰC LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM TÀI CHÍNH
(FATF) VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG RỬA TIỀN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG, HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHỊNG, CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM

Phòng, chống rửa tiền là mối quan tâm chung của các quốc gia trên thế
giới. Nhiều nước như Mỹ, Anh, Đức, Australia... đã xây dựng được luật rửa
tiền phù hợp với các khuyến nghị của FATF. Bên cạnh đó các định chế tài
chính quốc tế như Uỷ ban Basle về giám sát ngân hàng, Cơ quan phòng,
chống rửa tiền Châu Á- Thái Bình Dương (APG), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Liên hợp quốc... cũng đưa ra các hướng dẫn liên quan đến PCRT, các quy
định về giám sát rủi ro có liên quan đến hoạt động rửa tiền. Đặc biệt, bốn
mươi khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) về chống rửa
tiền và tài trợ chống khủng bố được xem như là chuẩn mực quốc tế về phòng,
chống rửa tiền và tài trợ chống khủng bố.
Trong luận văn này, chúng tơi giới thiệu và phân tích các nội dung của
bốn mươi khuyến nghị. Đây là cơ sở để đối chiếu, so sánh khi đánh giá hiện
trạng pháp luật Việt Nam về phòng, chống rửa tiền và đề xuất giải pháp hồn

thiện pháp luật về phịng, chống rửa tiền ở Việt Nam.


×