Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

giải quyết việc làm cho lao động nữ ở huyện gia bình, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 117 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp là những vấn đề kinh tế - xã hội
có tính tồn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta vấn đề giải quyết việc
làm đang bị cản trở bởi tốc độ tăng dân số còn cao, mức tăng trưởng kinh tế
cịn hạn chế…điều đó khơng chỉ gây lên tình trạng lãng phí do một bộ phận
lao động khơng được sử dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử
dụng các yếu tố sản xuất khác, mà cịn ảnh hưởng khơng nhỏ đến bộ phận dân
cư có cuộc sống gắn liền với bộ phận lao động thiếu hoặc khơng có việc làm
này. Bởi vậy, tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề
vừa lâu dài, vừa cấp bách, khơng chỉ có ý nghĩa về kinh tế rất quan trọng mà
còn mang ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc.
Ở nước ta những năm qua, vấn đề phát triển nguồn nhân lực và giải
quyết việc làm nói chung ln gắn liền với việc chú trọng đến lao động nữ,
gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ, với tiến trình phấn đấu vì sự
bình đẳng nam-nữ. Vì vậy, để thể hiện quan điểm và chủ trương đó, để khẳng
định vai trị to lớn của lực lượng lao động nữ trong công cuộc phát triển kinh
tế, xố đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước…Đảng, Nhà nước các cấp đã quan tâm nhiều đến việc làm
và giải quyết việc làm cho lao động nữ ngày càng được hoàn thiện, cơ cấu lao
động nữ được chuyển theo hướng tích cực…Lao động nữ ngày càng được
khẳng định vị trí của mình trong thị trường lao động và có nhiều đóng góp
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, giải quyết việc làm cho lao động nữ hiện nay cũng cịn
nhiều khó khăn, bất cập…vấn đề này càng được rõ nét và bức xúc đối với lao
động nữ tại cấp huyện. Những bất cập không chỉ xuất phát từ những hạn chế
của chính nơng nghiệp - nơng thơn, của chính bản thân lao động nữ…mà lại



2
cịn từ những thành cơng, từ những kỳ vọng đúng đắn hiện nay của tổng thể
nền kinh tế. Chẳng hạn do những thành tựu của q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn và u cầu đẩy nhanh tiến trình này mà
phần lớn lao động nữ chưa kịp đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra của thị
trường lao động, thêm vào đó diện tích đất canh tác lại bị thu hẹp trực tiếp tác
động đến việc làm và thu nhập…do đó nó gây khó khăn cho việc tạo và giải
quyết việc làm cho bộ phận lao động nữ dư thừa này.
Ở Gia Bình cũng vậy, cơ bản giống tình hình chung của đất nước, dân
số cũng chủ yếu sống bằng nghề nông, thực hiện chủ trương phát triển khu
cơng nghiệp, đơ thị hố … dẫn đến nhiều diện tích canh tác bị chuyển đổi
sang mục đích sử dụng khác đã tác động lớn, trực tiếp đến việc làm của lao
động nữ. Đặc biệt nhóm lao động nữ trong độ tuổi 35 - 39 phải chịu sức ép rất
lớn trong việc tìm kiếm việc làm tại địa phương. Do vậy tác động trực tiếp
đến sự thay đổi cơ cấu lao động nữ, một bộ phận lao động nữ chuyển đổi nghề
sang kinh doanh buôn bán nhỏ, một bộ phận làm nghề tiểu thủ công nghiệp,
nghề truyền thống tại địa phương, một bộ phận nữ ra thành phố kiếm sống…
việc làm khơng ổn định, tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc ngày càng gia
tăng. Do đó, vấn đề giải quyết việc làm, tạo nhiều chỗ làm mới cho người lao
động nói chung và lao động nữ nói riêng là một trong những vấn đề cấp bách,
có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Để làm
được điều này huyện không chỉ chú trọng chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế cơng nghiệp mà cịn phải vừa nhanh chóng đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng cho nền kinh tế tri thức, tiếp thu công nghệ mới, vừa góp
phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động giản đơn. Điều này đòi hỏi
vai trò, trách nhiệm rất lớn của các cấp quản lý, phải nhanh trong nắm bắt
thực trạng, xu thế phát triển cũng như cơ hội và những thách thức đối với vấn
đề giải quyết việc làm cho lao động nữ, góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đảng bộ huyện đề ra.



3
Với những kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập tại Học
viện - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cùng với kinh nghiệp cơng tác, cũng
như thực tế địa bàn huyện, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho lao
động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề việc làm cho lao động nữ là một trong những vấn đề mang tính tồn
cầu, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Bất kỳ quốc gia
nào giải quyết tốt vấn đề việc làm, đặc biệt là việc làm cho lao động nữ (vì
vấn đề bình đẳng giới ngày càng được quan tâm của nhiều quốc gia trên thế
giới), thì nó sẽ có tác động mạnh mẽ vào sự phát triển kinh tế xã hội, an ninh
chính trị của quốc gia đó. Do đó, vấn đề này được ưu tiên trong chính sách
phát triển đất nước của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ở nước ta, từ
những năm đầu của thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều tác giả đã quan tâm về vấn
đề này, nhiều cơng trình, bài viết được đăng tải, phản ánh và công nhận, tiêu
biểu như:
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức tới vấn đề giải quyết việc làm ở
Việt Nm. GS.TS Đỗ Thế Tùng, Lao động và Công đồn, số 6-2002.
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam. TS. Nguyễn Hữu
Dũng, TS. Nguyễn Hữu Trung, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1997.
- "ThÞ trưêng lao động ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp", Chủ nhiệm TS. Nguyễn Thị Thơm, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- "Mối quan hệ giữa nâng cao chất lợng lao động với giải
quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc", Chủ nhiệm PGS,TS Trần Văn Chử, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ ChÝ Minh, 2001.
- Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập ở nơng thơn, TS Nguyễn Sinh Cúc,
Tạp chí Thơng tin lý luận 11/1990.



4
- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam, Trần Đình
Hoan - Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Về giải quyết việc làm ở nông thôn từ năm 1994, 1995 đến năm 2000
của tác giả Nguyễn Khang, Tạp chí Lao động và xã hội 9/1993.
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS Nguyễn Hữu Dũng
và TS Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Phụ nữ, giới và phát triển -TS. Trần Thị Vân Anh, TS Lê Ngọc Hùng,
NXB phụ nữ, hà Nội, 2000.
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở
Việt Nam, của GS.TS Đỗ Thế Tùng-Lao động và Cơng đồn. NXB Lao động,
số 6-2002.
- Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam - GS.
Lê Thi, NXB khoa học xã hội, 1999.
- Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ cơng nghiệp hố - hiện
đại hố (phân tích tình hình tại Hà Nội” - TS Trần Thị Thu, NXB Lao động,
Hà Nội, 2003…
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sỹ viết về vấn đề việc làm
ở một số tỉnh như: Hưng Yên, Hà Tĩnh, Hải Dương Hà Nam...Nhưng nghiên
cứu một cách toàn diện, cơ bản về việc làm cho lao động nữ ở một huyện như
Gia Bình thì vẫn cịn là vấn đề cấp thiết, cần được điều tra nghiên cứu để có
giải pháp thích hợp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, phân tích thực trạng và đề xuất
giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ


5
Làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm cho lao động nữ,
vai trò ý nghĩa và sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nữ; phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động nữ để làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nữ ở huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Phân tích đánh giá thực trạng cơng tác giải quyết việc làm cho lao
động nữ huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 - 2010
Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao
động nữ huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
3.3. Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ
ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005 đến năm 2010; một số giải
pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho lao động nữ huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh từ nay đến 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lao
động nữ huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, không chỉ với tư cách là một nguồn
lực quan trọng, mà còn là chủ thể quyết định sự phát triển kinh tế -xã hội ở
nông thôn
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chú trọng nghiên cứu tình hình giải quyết việc làm cho lao động
nữ ở 14 xã, thị trấn của huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
Luận văn nghiên cứu vấn đề lao động nữ với bối cảnh kinh tế - xã hội
của nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
5. Cơ sở lý luạn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong


6
các văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị BCH Trung ương các khóa xung
quanh vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài có kế thừa và sử dụng có chọn lọc một
số đề xuất và số liệu thống kê của một số cơng trình có liên quan của tác giả
trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử được sử dụng trong luận văn, trong đó các phương pháp cụ thể sau đây được sử
dụng phổ biến: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh...
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về lao động và việc làm của lao động nữ
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ ở
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh từ 2005 đến nay
Làm rõ thực trạng của lực lượng lao động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh hiện nay, những thuận lợi và khó khăn của họ.
Đề ra các giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm từng bước nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn giải quyết việc làm cho lao
động nữ hiện nay
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ ở huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết

việc làm cho lao động nữ ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ HIỆN NAY
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ VIỆC LÀM CỦA
LAO ĐỘNG NỮ

1.1.1. Lao động nữ và đặc điểm của lao động nữ
Lao động nữ là một bộ phận của lực lượng lao động quốc gia. Về mặt
lý thuyết khái niệm này phản ánh một bộ phận dân cư, là nữ trong độ tuổi lao
động, có khả năng làm việc, mong muốn có việc làm, đang có hoặc khơng có
việc làm. Tuy nhiên trong kinh tế, khái niệm lao động nữ cịn được hiểu đó
được hiểu đó là hoạt động lao động của bộ phận nữ. Do vậy để đơn giản,
tránh nhầm lẫn về đối tượng, phạm vi nghiên cứu có liên quan đến đề tài, luận
văn chỉ đề cập đến lao động nữ theo cách thứ nhất - đó là một bộ phận của lực
lượng quốc gia...
Lực lượng lao động có tính lịch sử cụ thể. Trong những điều kiện, hồn
cảnh khác nhau nó khác nhau cả về quy mơ, cấu trúc, độ tuổi, trình độ...Ở một
nền nơng nghiệp lúa nước lạc hậu phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
Việt Nam thì lực lượng lao động nữ có vai trị khơng nhỏ. Tuy nhiên thực tiễn
trong những năm đổi mới vừa qua cho thấy việc làm, giải quyết việc làm,
chăm lo đời sống kinh tế cho bộ phận này khá nan giải, còn nhiều bất cập.
Lao động nữ - theo Luật lao động Việt Nam, đó là những phụ nữ từ 1855 tuổi có khả năng tham gia lao động hiện đang có việc làm hoặc thất
nghiệp. Do có một bộ phận phụ nữ trong độ tuổi lao động nhưng khơng được
tính vào lực lượng lao động, đó là bộ phận nữ sinh các trường phổ thông trung
học, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học, phụ nữ
làm việc nội trợ, chăm sóc gia đình khơng tham gia hoạt động kinh tế, những

phụ nữ ốm đau, dị tật bẩm sinh khơng có khả năng lao động hoặc mất khả


8
năng lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những phụ nữ thất
nghiệp nhưng đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Sự biến đổi về số và chất lượng lao động nữ phụ thuộc vào sự thay đổi
tự nhiên của lực lượng lao động khi tốc độ phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi
quốc gia thay đổi, chẳng hạn như: Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp sẽ làm thay đổi quy mô,
cơ cấu lao động trong nông nghiệp, công nghiệp dẫn đến lực lượng lao động
nữ trong hai lĩnh vực này sẽ thay đổi thích ứng.
Ở Việt Nam những năm gần đây lực lượng lao động nữ luôn chiếm xấp
xỉ 50% tổng lực lượng lao động, dân số nước ta hiện nay có khoảng 86,5 triệu
người, trong đó nữ chiếm 50,9%. Tính riêng lực lượng lao động nữ từ 15 tuổi
trở lên, cả nước có khoảng 44,1 triệu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân, trong đó có gần 21,1 triệu lao động là nữ (chiếm 47,8%). Lao động
nữ tham gia vào thị trường lao động sớm hơn nam giới, nhưng lao động phổ
thông chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn phụ nữ khi tốt nghiệp
trung học phổ thơng, thậm chí nhiều người chỉ tốt nghiệp tiểu học, không tiếp
tục học lên mà tham gia ngay vào thị trường lao động. Nhìn chung, lao động
nữ phổ thơng chiếm tỷ lệ cao nhất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi (62,9%), sau đó đến các doanh nghiệp tư nhân (62,6%) và doanh nghiệp
nhà nước là 41,9%. Tỷ lệ lao động nữ đã chiếm trên 46% trong số người làm
công, ăn lương từ các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, số chủ cơ sở sản xuất
kinh doanh là nữ chiếm 41,12% tỷ lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình
chiếm 49,42%, tỷ lệ lao động nữ nơng nghiệp chiếm trên 60% [29].
Khái qt có thể nhận thấy lao động nữ có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Lao động nữ còn tập trung chủ yếu ở lĩnh vực có chun mơn kỹ
thuật thấp.

Tuy tỉ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc
làm tăng lên và có khả năng vượt kế hoạch, nhưng lao động nữ tập trung chủ


9
yếu ở lĩnh vực có chun mơn kỹ thuật thấp, có thu nhập thấp và việc làm
khơng ổn định. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ so với nam cịn
cách biệt lớn, dẫn đến tính cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao
động không cao.
Hiện nay, trong các ngành nghệ đã có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu lao
động, nhưng sự chuyển dịch này vẫn cịn bất bình đẳng. Mặc dù, số lao động
trong khu vực nơng - lâm -ngư nghiệp có chiều hướng giảm, nhưng xét về cơ
cấu giới, thì số lao động nữ được giải quyết việc làm mới chỉ chiếm tỷ lệ cao
trong khu vực nông lâm - ngư nghiệp, thủy sản, cịn trong khu vực cơng
nghiệp - xây dựng là 36% và khu vực thương mại - dịch vụ chiếm 56,4%.
Theo điều tra năm 2007 của Tổng cục Thống kê, thu nhập của phụ nữ
chỉ bằng 74,5% so với nam giới trong các làng nghề, lĩnh vực, bằng 81,5 thu
nhập của lao động nam ở cùng trình độ chun mơn kỹ thuật bậc trung; bằng
90,1% ở cùng trình độ cao đẳng và chỉ bằng 86% ở cùng trình độ từ đại học trở
lên. Tuổi nghỉ hưu đối với lao động nam và nữ cũng cần nghiên cứu, xem xét.
Vấn đề trình độ chun mơn kỹ thuật thấp kém thường gắn với ít cơ
hội có việc làm và thất nghiệp, trong khi trình độ chun mơn kỹ thuật của lao
động nữ so với lao động nam vẫn còn sự cách biệt khá lỡn và tính cạnh tranh
khơng cao, lao động nữ khó tránh những rủi ro dễ vấp phải trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế hiện nay.
Vấn đề tuổi nghỉ hưu đối với lao động nam và nữ cũng là nội dung cần
được xem xét, khi tuổi thọ của người dân đã được nâng lên.
+ Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến
Bất bình đẳng giới tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó
trước hết bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có học vấn q thấp, tức là rất ít phụ nữ

có kỹ năng hoặc có điều kiện để cạnh tranh một cách bình đẳng trong những
cơng vệc được trả lương cao. Một nguyên nhân khác không kém phần quan
trọng là những định kiến xã hội coi thường phụ nữ đã được hình thành ở hầu hết


10
các nước đang phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng cấp cao và kỹ
năng tốt, cơng việc mà họ làm vẫn không được ghi nhận một cách xứng đáng.
Gần như ở khắp nơi, mức thu nhập của phụ nữ chưa bằng một nửa của
nam giới. Có khi, cùng làm một việc như nhau, nam giới được trả công nhiều
hơn phụ nữ. Phổ biến hơn nữa, người ta chia công việc theo giới. Thế mặc cả
yếu của phụ nữ là do thân phận xã hội thấp kém, thực tế bị nam giới áp đảo về
thể chất, chức phận làm mẹ thôi thúc phải làm việc. Phụ nữ phải ni con và
khơng có lương ăn thì khơng thể mặc cả, trừ phi cố sống cố chết đòi được một
mức tối thiểu nào đó. Và họ ít khi có khả năng thương lượng vì họ cần việc
làm bằng bất kỳ giá nào trong những thời điểm khó khăn trong năm, đặc biệt
trong mùa mưa và khi giáp hạt. Như một phụ nữ đã kể: "Chúng tơi có thể làm
gì? Liệu chúng tơi có ngồi nổi ở nhà nghe con cái kêu gào vì đói hay khơng?
Chúng tơi có thể chịu đựng một hai đêm, nhưng sau đó thì chúng tơi phải đến
với bất cứ ai cho chúng tơi ít việc làm. Đây là thời buổi khó khăn và con trẻ
phải khổ sở vơ cùng. Mà ngay cả cái đói của chính chúng tơi cũng khó lịng
mà chịu đựng nổi"
Sự tham gia của phụ nữ trong nơng nghiệp nhìn chung bị lãng quên.
Rất nhiều lao động của họ trong những hình thức khơng được trả cơng và vì
thế khơng được xem là hoạt động kinh tế. Sự phát triển của cơng nghệ và hiện
đại hố khơng giúp gì cho phụ nữ nơng thơn. Các chương trình phát triển
nơng thơn và cơ khí hố nơng nghiệp sau này đã giảm bớt đói nghèo nhưng
đồng thời nó cũng đem lại sự giảm đi đáng kể về sử dụng lao động đối với cả
nam và nữ.
Ngay cả điều này cũng có những ảnh hưởng bất lợi đối với phụ nữ. Lao

động của họ phần lớn được thực hiện bằng công nghệ hiện đại và một vài
trường hợp được thay thế bởi nam giới. Những nghề trước đây do phụ nữ và
nam giới đảm nhận như thu hoạch mùa màng thì do nam giới đảm trách trong
khi phụ nữ lui về lĩnh vực gia đình của họ, trở thành những người nội trợ hồn


11
tồn. Đây là q trình “nội trợ hố” phụ nữ nơng thơn, một kết quả gián tiếp
của những chính sách phát triển nơng nghiệp trước đó. Điều này tạo nên sự
phân biệt giữa vai trò khác nhau trong sản xuất, trong kinh tế gia đình giữa
phụ nữ và nam giới, trong đó nam giới là người đóng vai trị chính cịn phụ nữ
chỉ là người đóng vai trị phụ.
Các thành viên của tổ chức nơng nghiệp mà ở đó giáo dục và đào tạo
về công nghệ mới chủ yếu là nam giới. Sự phân biệt về hệ tư tưởng này giữa
nam giới người đóng vai trị chính và phụ nữ người nội trợ có cái giá phải trả
là phụ nữ nông thôn mất một cơ sở kinh tế của họ. Cho dù họ tiếp tục có vai
trị quan trọng trong sản xuất nơng nghiệp.
Các ước tính bằng số có sự khác nhau đáng kể, nhưng các nghiên cứu
cho thấy phụ nữ làm cơng việc gia đình nhiều hơn nam giới. Một số nghiên
cứu cho biết ở những nước phát triển ngày nay, phụ nữ chỉ làm hơn một nửa
công việc gia đình; một số nghiên cứu khác lại cho biết phụ nữ làm 70% hoặc
nhiều hơn công việc nội trợ. Trong gia đình có cả bố và mẹ, nam giới lao
động kiếm tiền và phụ nữ không được tham gia vào lao động được trả cơng,
vì thế dễ hiểu tại sao phụ nữ lại làm hầu hết công việc nội trợ. Mặc dù vậy, sự
sắp xếp hộ theo kiểu cổ điển này dẫn đến sự khơng bình đẳng về quyền lực:
phụ nữ làm việc nhà không được trả công, phụ thuộc vào sự quyết định của
chồng trong việc sử dụng thu nhập bằng tiền.
Trong khi cho phép nữ giới tăng thu nhập, một nhu cầu cấp thiết, việc
tham gia ngày càng tăng của nữ giới vào lực lượng lao động nữ trong một số
trường hợp đã tạo ra những mối quan tâm mới đối với lao động nữ. Những

vấn đề như điều kiện làm việc tồi tàn, sự tiếp xúc với những nguy cơ sức
khoẻ, tỉ lệ mắc các bệnh nghề nghiệp cao hơn, sức khoẻ và an toàn của người
lao động, và những hình thức bóc lột mới như lạm dụng tình dục ở nơi làm
việc đang được quan tâm. Phải thừa nhận rằng những ngành công nghiệp này
đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm kèm theo các lợi ích cho nữ giới. Đồng


12
thời, rất nhiều trong số những cơng việc này có khuynh hướng không đáng tin
cậy, ngắn hạn, thuộc về loại khơng có kỹ năng hoặc bán kỹ năng với rất ít cơ
hội thu được kỹ năng với điều kiện lao động chung phi tiêu chuẩn và lương
thấp. Trong những trường hợp này, những lợi ích tích cực đối với nữ giới bị
trung hoà bởi những ảnh hưởng bất lợi của điều kiện làm việc không tốt, đặc
biệt là về những phương diện sức khoẻ và an toàn của người lao động.
+ Chênh lệch về trình độ học vấn của phụ nữ so với nam giới ở bậc
học ngày càng cao.
Sự chênh lệch về cơ hội học tập của trẻ em gái và phụ nữ khu vực
nông thôn và dân tộc thiểu số là một thách thức lớn. Tỷ lệ bỏ học của trẻ em
gái ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số là vấn đề
đáng quan tâm. Cơng tác xóa mù chữ cho phụ nữ ở lứa tuổi từ 15 đến dưới 40
hiện vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Trình độ học vấn của phụ nữ so với nam
giới ở bậc học ngày càng cao, càng chênh lệch.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2007, tỷ lệ nam trong học hàm
phó giáo sư là 88,33% và nữ là 11,67%; ở học hàm giáo sư là 94,9% và 5,1%.
Học vị tiến sĩ khoa học nam là 90,33 và nữ là 9,78; học vị tiến sĩ nam chiếm
82,98%, nữ là 17,02%. Trình độ thạc sĩ là khả quan nhất với 69,47% năm và
30,53% nữ.
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ nữ vẫn là vấn đề rất
bức xúc, mặc dù nhiều Bộ, ngành và tỉnh thành phố đã bước đầu coi trọng
công tác này. Sự thiếu chủ động phối hợp trong thực hiện các giải pháp giữa

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội Vụ và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
đã dẫn đến tình trạng yếu kém về trình độ chun mơn kỹ thuật hiện nay
chậm được giải quyết.
+ Tỷ lệ tử vong bà mẹ trẻ em chưa giảm mạnh.
Thách thức lớn nhất hiện nay là tỷ lệ tử vong bà mẹ trẻ em giảm chưa
mạnh, nhất là ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Số phụ nữ mắc và chết


13
do bệnh tai biến sản khoa vẫn có xu hướng gia tăng. Công tác giáo dục sức
khỏe chưa sâu rộng đến các đối tượng, nên chưa thay đổi được ý thức và hành
vi của các bà mẹ trong chăm sóc trước sinh, trong sinh và sau sinh. Phong tục
tập quán lạc hậu sinh đẻ vẫn ảnh hưởng sâu sắc, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu
số, dẫn đến nguy cơ tử vong cao cho mẹ và con.
Tuy tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV hiện thấp hơn nam giới, nhưng có xu
thế tăng (năm 2006 là 20,3% và năm 2007 là 23,5%). Phụ nữ mang thai
nhiễm HIV/AIDS còn chiếm tỷ lệ khá cao ở một số tỉnh trọng điểm, cao nhất
là ở Quảng Ninh 1,31%, tiếp đó là Điện Biên 1,13% và TP HCM là 1%..
+ Tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp.
Tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp; đa số phụ nữ giữ cương
vị cấp phó, ngay cả ở những lĩnh vực có tỷ lệ lao động nữ cao như giáo dục
đào tạo và y tế. Tỷ lệ lãnh đạo nữ cấp Bộ và Vụ trưởng ở các cơ quan quản lý
nhà nước có xu hướng giảm. Theo Bộ Nội vụ, số nữ Bộ trưởng và tương
đương từ 12% khóa 2002-2007 giảm xuống cịn 4,55% khóa 2007-2011; thứ
trưởng và tương đương giảm từ 9% xuống 8,41%; vụ trưởng và tương đương
từ 6% giảm xuống 5,53%.
Cơng tác quy hoạch cán bộ cịn chưa được quan tâm đúng mức. Việc
triển khai công tác cán bộ nữ thiếu đồng bộ dẫn đến thiếu nguồn cán
bộ nữ bổ sung cho nhiều vị trí lãnh đạo.
Ngay Bộ Y tế là cơ quan được đánh giá thực hiện khá tốt cơng tác vì sự

tiến bộ phụ nữ đã đề cao được vai trò lãnh đạo, quản lý phụ nữ, đến tháng 6
năm 2008 tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo các cấp của ngành y tế chiếm 37% (vượt
chỉ tiêu 7%), trong đó tỷ lệ nữ đảng viên là 34,7%. Tuy nhiên, cán bộ nữ
thường chỉ giữ cương vị lãnh đạo cấp thấp hơn so với nam giới. Đối với cấp
phòng, tỷ lệ nữ cấp trưởng thấp hơn nữ cấp phó (nữ Trưởng phịng có tỷ lệ
37,4%, nữ Phó trưởng phịng là 43,8%); đối với các chức vụ cao hơn như
Giám đốc và Phó Giám đốc nữ, tỷ lệ còn thấp hơn nữa (như Giám đốc nữ chỉ


14
chiếm 12,7%; Phó Giám đốc nữ chiếm tỷ lệ 24%). Các Bộ khác cũng trong
tình trạng tương tự.
Tình hình tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn biến phức tạp,
có hướng tăng và quốc tế hóa. Bạo lực gia đình mới nhiều hình thức khác
nhau đối với phụ nữ cịn tồn tại cả ở thành thị và nơng thơn, trong tất cả các
nhóm xã hội.
+ Việc lồng ghép vấn đề giới vào hoạch định chính sách và kế hoạch
phát triển cịn lúng túng.
Bộ máy hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tuy đã kiện toàn nhưng
chất lượng hoạt động còn hạn chế, cán bộ đều thực hiện nhiệm vụ theo chế độ
kiêm nhiệm, dựa trên lòng nhiệt tình là chính, nên chưa dành đủ thời gian và
trí tuệ cho cơng tác này.
Việc lồng ghép vấn đề giới vào hoạch định chính sách và kế hoạch phát
triển cịn lúng túng. Mức kinh phí cấp cho hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ vừa
khơng thống nhất, vừa có sự chênh lệch lớn, dẫn đến tình trạng bị động của
Ban vì sự tiến bọ phụ nữ. Có tới 22% Bộ, ngành khơng nắm được kinh phí bố
trí, mặc dù các đơn vị này đều cho rằng có lập dự toán hàng năm.
1.1.2. Việc làm của lao động nữ và đặc điểm việc làm của lao động nữ
1.1.2.1. Một số khái niệm
Vấn đề việc làm đã được Các Mác tiếp cận khi nghiên cứu quá trình

sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng chỉ đề cập khi xem xét vấn đề thất nghiệp,
chứ chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về việc làm; ông cho rằng
...sự tăng lên của bộ phận khả biến của tư bản và do đó sự tăng
thêm số cơng nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với
những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu
thừa tạm thời, khơng kể là việc này mang hình thức nổi bật là gạt
bỏ những cơng nhân đã có việc làm hay là mang hình thức rõ rệt
hơn nhưng khơng kém phần hiệu lực là thu nạp một cách khó


15
khăn số nhân khẩu công nhân phụ thêm vào những rãnh thốt
thơng thường của nó [20, tr.519].
Nhà kinh tế học nổi tiếng J.M.Keynes (1983-1946) đã đề cập đến việc
làm trong tác phẩm "Lý thuyết chung về việc làm", ông cho rằng việc làm có
vai trị rất quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi
việc làm tăng, thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu
và đây là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng tổng cung cũng như tăng trưởng của
nền kinh tế. Để tăng quy mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư
quyết định quy mơ việc làm. Ơng chỉ ra: "Việc điều tiết vĩ mơ nhằm giải
quyết việc làm, tăng thu nhập địi hỏi phải khuyến khích tăng đầu tư và giảm
tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất
nghiệp" [19, tr.203].
Đến thập kỷ 90, tiếp thu có chọn lọc các khái niệm về việc làm, tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm về người có việc làm tại Hội
nghị Quốc tế lần thứ XIII năm 1983 như sau: "Người có việc làm là những
người làm một việc gì đó, có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc được thanh
tốn bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính
chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, khơng nhận được tiền
cơng hay hiện vật". Đây là khái niệm khá toàn diện, phù hợp với nền kinh tế

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng.
Đối với Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, người lao động được coi là có
việc làm khi họ tến hành những cơng việc địi hỏi một chun mơn nào đó
theo sự phân cơng của nhà nước và có thu nhập nhất định. Người có việc làm
phải thuộc thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập
thể... Theo cách hiểu này, khái niệm việc làm khơng tính đến những người lao
động đang làm việc ở kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà. Quan niệm
này đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người, triệt tiêu


16
nhiều tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong quá trình hoạt động thực
tiễn. Những năm gần đây, vận dọng khái niệm của tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) và một số nước lân cận, nước ta đã có những thay đổi trong quan niệm
về việc làm; Điều 13 Luật Lao động được Quốc họi thông qua ngày 23 tháng
6năm 1994 ghi rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [24].
Như vậy việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Những hoạt động mà đem lại thu nhập cho người lao động dưới dạng
tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật.
- Những hoạt động làm cho người lao động thu được lợi nhuận (Người
lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao
động của bản thân để sản xuất ra sản phẩm).
- Những hoạt động hỗ trợ đem lại thu nhập trực tiếp cho chủ thể sử
dụng lao động.
Như vậy việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích
cho bản thân, gia đình hoặc cộng đồng. Việc đổi mới nhận thức về việc làm đã
dẫn đến sự đổi mới nhận thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải quyết
việc làm theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và khả năng to lớn nhằm giải

phóng sức lao động; giải quyết việc làm cho người lao động ở mọi thành phần
kinh tế, ở mọi khu vực; trong đó đặc biệt chú ý đến khả năng tự tạo việc làm
cho chính bản thân cho người lao động. Hơn nữa, quan niệm mới hiện nay
khơng chỉ chú ý đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động, mà còn coi
trọng nâng cao chất lượng việc làm, tiến tới việc làm có năng suất, có thu
nhập cao và được tự do tự chọn việc làm, tức là đảm bảo tính nhân văn của
việc làm.
Việc làm đẩy đủ theo nghĩa tuyệt đối là khái niệm phản ánh toàn bộ lực
lượng lao động có việc làm, theo nghĩa tương đối (Kinh tế học) đó là tình
trạng tồn dụng nhân cơng, cịn theo cách hiểu thị trường thì đó là sự thỏa


17
mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm của các thành viên có khả năng lao động, nói
cách khác là mỗi người có khả năng lao động, muốn có việc làm đều có thể
tìm được việc làm trong thời gian ngắn. Việc làm đầy đủ mới chỉ đề cập về
mặt số lượng, chưa tính đến yếu tố nguyện vọng, năng khiếu, sở trường, tức là
chưa tính đến yếu tố hợp lý của việc làm. Để đạt được mức độ đảm bảo việc
làm đầy đủ thì phải trải qua một quá trình phát triển kinh tê - xã hội nhất định.
Quá trình này ngắn hay dài phụ thuộc vào xuất phát điểm, trình độ, hồn cảnh
chủ quan, khách quan của một quốc gia.
Việc làm hợp lý là sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các
yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc
làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã hội
cao hơn.
Thiếu việc làm là tình trạng một bộ phận lao động khơng có việc làm
hoặc có việc làm nhưng thời gian làm việc thấp hơn thời gian quy định và có
nhu cầu việc làm thêm. Thiếu việc làm cịn thể hiện dưới dạng làm việc có
năng suất và thu nhập dưới mức thu nhập tối thiểu. Như vậy, thiếu việc làm có
nghĩa là việc làm khơng tạo điều kiện cho người lao động phát huy hết khả

năng, năng lực hoặc không tạo điều kiện cho họ mang lại thu nhập phù hợp
với năng lực của họ.
Thiếu việc làm gồm có thiếu việc làm hữu hình và thiếu việc làm vơ
hình. Thiếu việc làm hữu hình là khi thời gian làm việc thấp hơn mức trung
bình. Mức trung bình ở đây có thể xem là mức quy định của Nhà nước và
phải có nhu cầu việc làm thêm, tình trạng này rất phổ biến.
Thiếu việc làm vơ hình là do sản xuất kinh doanh khơng có hiệu quả dẫn
đến thu nhập thấp, không đủ sống, người lao động muốn tìm việc bổ sung.
Người chưa có việc làm là người có nhu cầu việc làm, hiện tại chưa tìm
được việc làm, hoặc trước đây đã từng có việc làm, đã có nghề nghiệp nhất
định nhưng do điều kiện, hồn cảnh nào đó chưa tìm lại được việc làm.


18
Thực chất "người thất nghiệp" và "người chưa có việc làm" có cùng
một bản chất, chỉ khác nhau về cách phân chia có tính chất chi tiết của cùng
một chỉ tiêu, do đó có thể gọi chung "người thất nghiệp" là người có nhu cầu
làm việc nhưng chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm.
Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi có một số người trong lực lượng
lao động muốn việc làm, nhưng chưa tìm được việc làm ở mức tiền công đang
thịnh hành. Thất nghiệp là hiện tượng phổ biến ở các nước phát triển và nước
đang phát triển. Có các dạng thất nghiệp đang được xem xét dưới các góc độ
như sau:
Xét theo nguồn gốc, bao gồm: Thất nghiệp tạm thời - xảy ra do thay đổi
việc làm hoặc do cung, cầu lao động không phù hợp; thất nghiệp do cơ cấu xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi
động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi; thất nghiệp do thời vụ - xuất hiện
như là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội việc làm; thất
nghiệp chu kỳ - là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản phẩm
của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản xuất giảm dần, dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với

các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, chính sách
nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại hiệu quả tích cực .v.v...
Xét tình chủ động của người lao động thất nghiệp, bao gồm: Thất
nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm
cơng việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện
vọng; thất nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động
chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn khơng
tìm được việc làm.
Hiện nay, ở Việt Nam khơng chỉ có thất nghiệp tạm thời do thay đổi cơ
cấu, mà còn thất nghiệp tiềm ẩn, thất nghiệp khơng hồn tồn (Do hiệu suất
sử dụng thời gian lao động cịn thấp, nhất là ở nơng thơn) chiếm tỷ trọng lớn


19
cùng với tỷ lệ tăng cao hàng năm của nguồn lao động càng làm cho tình hình
thất nghiệp thêm gay gắt. Thực tế địi hỏi phải có chính sách giải pháp đồng
bộ để hạn chế tỷ lệ người thất nghiệp.
1.1.2.2. Đặc điểm việc làm của lao động nữ
Nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác cũng đề cầp
đến việc làm của lao động nữ. C.Mác nhận định rằng, khi sản xuất cơng
nghiệp hình thành, máy móc có khả năng thay thế một số cơng việc nặng nhọc
và lao động nữ có thể tham gia vào quá trìh sản xuất tư bản với những cơng
việc mà họ có thể đảm đương được, phù hopự với sức khỏe của họ. Trong tập
thứ nhất, quyển 1, Bộ Tư Bản C.Mác đã viết "Vì máy móc làm cho lao động
sức bắp thịt trở thành thừa, cho nên nó trở thành một công cụ để sử dụng
những người lao động không có sức bắp thịt hoặc cơ thể chưa phát triển đầy
đủ nhưng chân tay mềm mại hơn. Vì vậy, khi tư bản sử dụng máy móc thì
tiếng nói đầu tiên của nó là: Lao động phụ nữ và trẻ em" [22, tr.499].
1.1.2.3. Ưu đãi đối với lao động nữ.
Phụ nữ Việt Nam giữ một vai trị vơ cùng quan trọng trong lịch sử dựng

nước và giữ nước. Ngày nay trong cơng cuộc đổi mới vai trị của phụ nữ càng
được phát huy trong tất cả các lĩnh vực. Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ngày 12-07-1993 đã khẳng định:
“Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của
Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp lâu dài đến sự phát triển của đất
nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển
mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng ta trong
mọi thời kỳ cách mạng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Một trong những công tác lớn quan
trọng của Đảng ta hiện nay là: Giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi phụ nữ.
Xuất phát từ đặc điểm lao động nữ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ
lao động còn phải đảm nhận chức năng làm mẹ. Bởi thế họ có những đặc


20
điểm riêng về giới tính (sức khoẻ, tâm sinh lý) chỉ phù hợp với những điều
kiện lao động nhất định. Bộ luật lao động dành hẳn chương X gồm 10 Điều
(Điều 109 đến Điều 118) quy định riêng cho lao động nữ nhằm đảm bảo
quyền làm việc của phụ nữ được bình đẳng về mọi mặt với nam giới. Người
sử dụng lao động không được phân biệt đối xử trong việc tuyển chọn, nâng
bậc lương, xử lý kỷ luật…và đảm bảo những ưu đãi nhất định cho lao động
nữ để họ thực hiện tốt chức năng của mình.
Nhà nước đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ, có chính sách khuyến
khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm
thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt
làm việc không trọn ngày trọn tuần hoặc giao việc tại nhà. Được từng bước
cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ chun nghiệp, chăm sóc sức
khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần cho lao động nữ.
Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo
thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm, lao động nữ cịn có thêm

dự phịng.
Lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
mà không phải bồi thường khi có giấy chứng nhận của thầy thuốc nếu tiếp tục
làm việc sẽ ảnh hưởng xấu đến thai nhi, và lao động nữ phải báo trước cho
người sử dụng lao động một thời gian nhất định tuỳ thuộc vào sự chỉ định của
thầy thuốc.
Lao động nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh con từ 04 đến 06
tháng theo điều kiện lao động, tính chất của cơng việc địa điểm làm việc. Nếu
sinh đơi thì mỗi con sinh thêm được nghỉ 30 ngày. Trong thời gian nghỉ vẫn
được đảm bảo lương, chế độ Bảo hiểm xã hội.
Lao động nữ làm việc nặng nhọc khi có thai đến tháng thứ bảy, được
chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm một số giờ làm việc hàng
ngày mà vẫn hưởng đủ lương. Trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày


21
30 phút. Trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60
phút trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương.
1.1.2.4. Những cơ hội và thách thức đối với vấn đề việc làm của lao
động nữ
Về cơ hội tạo việc làm cho lao động nữ: Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc đổi mới cơ chế kinh tế
đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho người dân nói chung và lao động nữ nói
riêng trong vấn đề tìm việc làm, tăng thu nhập. Ngồi việc tham gia lao động
trong các đơn vị kinh tế cơ sở, người dân, nếu có vốn, tư liệu sản xuất và có
khả năng kinh doanh đều được khuyến khích tụ tạo việc làm.
Mặt khác, trước đây, lao động nữ hồn tồn tự đảm đương các cơng
việc nội trợ gia đình, những cơng việc này rất bận rộn và mất nhiều thời gian
mà không đem lại thu nhập nào cho họ. Ngày nay, dưới tác động của cơ chế
thị trường, cơ cấu việc làm thay đổi, lao động nữ có cơ hội việc làm nhiều

hơn, cả từ những công việc dịch vụ nội trợ gia đình, dịch vụ chăm sóc con cái
theo nhu cầu của xã hội và được trả công xứng đáng từ những dịch vụ này.
Những thách thức và khó khăn đối với lao động nũ về vấn đề việc làm:
Cùng với những thuận lợi, những có hội mà nền kinh tế thị trường đã mang
lại cho lao động nữ thì quá trình chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cũng đưa đến cho lao động nữ những khó khăn và
thử thách. Nhiều hộ nông dân và chủ doanh nghiệp nhỏ do thiếu vốn hoặc
thiếu kinh nghiệm tổ chức sản xuất đã không sử dụng được hết tiềm năng lao
động của gia đình, bản thân. Nhiều chủ sử dụng lao động, đặc biệt là các
doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp đòi hỏi tính năng động và cơ động
cao khơng muốn nhận lao động nữ. Khi có sự thay đổi cơng nghệ sản xuất hay
sắp xếp lại tổ chức thì lao động nữ là người chịu thiệt thịi hơn, họ dễ bị buộc
thơi việc hơn nam giới. Mặc dù Nhà nước ta đã có các chính sách khuyến


22
khích các doanh nghiệp sử dụng lao động nữ, song đây vẫn là một vấn đề
mang nặng yếu tố tâm lý, chưa thể thay đổi trong thời gian ngắn.
Tuy nhiên, một thực tế khách quan là trình độ, tay nghề của lao động
nữ so với nam giới cũng cịn có khoảng cách; sức khỏe lao động nữ cũng hạn
chế hơn nam giới; chi phí xã hội lao động nữ lại lớn hơn nam (bao gồm bảo
hiểm xã hội, phúc lợi xã hội). Hơn nữa, tính cơ động, di chuyển ở lao động nữ
không cao, việc đào tạo lại và chuyển đổi nghề thường khó khưn. Xu hướng
chung là phụ nữ ở thành phố, nhất là bộ phận nữ thanh niên có trình độ ngoại
ngữ, tin học, nhạy bén với cái mới; nhóm phụ nữ có đầu óc kinh doanh; nhóm
nữ trí thức có ý trí vươn lên là những nắm bắt cơ hội việc làm thuận lợi hơn
những người có tuổi, có sức khỏe, thiếu năng động và trình độ văn hóa cịn hạn
chế. Những phụ nữ nơng thơn, đặc biệt là phụ nữ vùng xa xơi, đơng con, khơng
có sức khỏe ổn định, thiếu ruộng đất có thể là nhóm phụ nữ có nguy cơ khơng đủ

việc làm, do đó khả năng dẫn đến sự nghèo đói là điều không tránh khỏi.
1.1.3. Sự cần thiết phải quan tâm tạo việc làm cho lao động nữ
Cùng với sự phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, phụ nữ Việt Nam đã phấn đấu, vươn lên khơng ngừng để khẳng
định vai trị, vị thế và sự tiến bộ của giới mình trên mọi lĩnh vực, góp phần
khơng nhỏ vào những thành qủa của cơng cuộc đổi mới của đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước còn chậm phát triển, những vấn đề
xã hội căn bản như thất nghiệp, thiếu việc làm, đói nghèo, tệ nạn xã hội cịn
chưa được giải quyết triệt để thì nhìn chung người phụ nữ đang phải chịu thiệt
thịi và tiềm năng to lớn của phụ nư chưa đợc giải phóng, phát huy một cách
đầy đủ. Ngay cả khi chưa chịu sức ép của những vấn đề xã hội trên, chỉ với
cơng việc gia đình trong một chừng mực nào đó, người phụ nữ phải đảm nhận
là chính cung đã tác động không nhỏ tới việc phát huy tiềm năng lao động của
người phụ nữ. Điều này đã được Lênin đề cập. Người cho rằng: "Phụ nữ phải
cịn bận cơng việc gia đình, nên địa vị của họ khơng tránh khỏi bị hạn chế.


23
Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho họ thật bình đẳng với nam
giới, thì cần phải có kinh tế cộng đồng, cần phải để phụ nữ tham gia lao động
sản xuất chung. Như vậy, phụ nữ mới sẽ ngang hàng với nam giới" [19].
Theo Lênin vấn đề việc làm là một trong những vấn đề cơ bản, đảm
bảo cho lao động nữ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của họ trong xã
hội. Tuy nhiên, để có thể giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động nữ cần
phải có nhiều yếu tố, chẳng hạn như: Sự phát triển mạnh mẽ, vững chắc của
nền kinh tế, sự tiến bộ về pháp luật, sự tiến bộ về văn hóa, tư tưởng, mà nhất
là quá trình trưởng thành của bản thân người lao động nư về trí thức, sức
khỏe, tâm lý...
Cũng như phụ nữ ở nhiều nước châu Á và ở các nước đang phát triển
khác, phụ nữ Việt Nam ít nhiều có đực sự tự do nhất định, có vị trí quan trọng

trong đời sống xã hội. Bởi chính phương thức sản xuất châu Á với nền nông
nghiệp lúa nước đã tạo lên sự hợp tác lao động giữa nam và nữ. Bên cạnh đó,
lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của đất nước đã huy động toàn bộ lực lượng
và sức mạnh của dân tộc, không phân biệt nam, nữ. Tuy nhiên phụ nữ vẫn phải
chịu sự phân biệt đối xử bởi các quan niệm và cách ứng xử chính thống, đó là sự
phủ nhận sự tồn tại của phụ nữ trong tư tưởng Nho giáo; sự phủ nhận vai trò và
chức năng xã hội của phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Do tàn dư của chế độ cũ
để lại, do ảnh hưởng của đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của một dân tộc
ln phải sống trong chiến tranh, phải chịu sự thâm nhập của các luồng văn hóa
ngoại bang, sự nghèo đói và lạc hậu, người phụ nữ phải trải qua nhiều sự phân
biệt. Vai trò và sự đóng góp của họ rất là to lớn nhưng sự đánh giá lại chưa xứng
đáng, điều này biểu hiện ở chỗ phụ nữ ít khi có được cơng việc trả lương cao, ít
khi có được vị trí cao trong trong công việc và dễ bị gạt ra khỏi guồng máy hoạt
động của cơ quan khi có sự thay đổi trong cơ cấu, tổ chức.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành q trình đẩy nhanh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chỉ


24
tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước cơng nghiệp. Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, quá
trình này tất yếu se mang lại những tahy đổi sâu sắc cho toàn bộ nền kinh tế
Việt Nam nói chung và đời sống kinh tế của người dân Việt Nam nói riêng.
Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động. Khi đó sẽ xuất hiện những hoạt động sản xuất mới, một số hoạt
động sản xuất cũ sẽ không cịn nữa, thất nghiệp cơ cấu phát sinh. Vì vậy, cần
thiết phải tạo việc làm cho lao động nữ nhằm giảm thất nghiệp cơ cấu. Trong
quá trình CNH, HĐH, các khu cơng nghiệp lớn sẽ hình thành và phát triển,
thu hút lao động có chất lượng cao. Người lao động nữ muốn có việc làm ổn
định cần phải đáp ứng địi hỏi về mặt trình độ của cơng nghệ mới. Đây chính

là cơ hội để lao động nữ tiếp cận với cơ hội đào tạo và phát triển.
Lao động nữ có việc làm, có thu nhập, một mặt góp phần xây dựng
kinh tế gia đình, một mặt tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
Thực tế cho thấy, ở một số lĩnh vực mà lực lượng lao động nữ là chủ yếu đã
đem lại giá trị sản phẩm và giá trị xuất khẩu lớn trong nền kinh tế nước ta
hiện nay như: dệt may, thủ công mỹ nghệ, giầy dép...
Lao động nữ có việc làm ổn định sẽ ổn định cuộc sống của họ và gia đình
họ, tạo điều kiện phát huy tốt vai trò của họ trong việc quản lý gia đình và ni
dạy con cái, tránh được các yếu tố rủi ro xảy ra trong quá trình tìm kiếm việc
làm. Tạo việc làm cho lao động nữ sẽ giúp cho lao động nữ được tiếp cận với cơ
hội đào tạo, phát triển, nâng cao trình độ, từ đó, trang bị thêm cho lao động nữ sự
tự tin, vững vàng trong cuộc sống, giúp cho lao động nữ hiểu rõ hơn quyền lợi
và trách nhiệm của mình trong xã hội để họ tự hồn thiện mình.
Như vậy, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động nữ là vấn đề cấp
thiết, nó tạo cho lao động nữ cơ hội được độc lập về kinh tế và phát thiển các
mối quan hệ xã hội, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội
và phát triển phụ nữ ở nước ta hiện nay.


25
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NỮ

Ở nước ta, lao động nữ là nguồn lực to lớn góp phần quan trọng trong
việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì
vậy, cùng với những chính sách kinh tế đúng đắn, Đảng và Nhà nước đã thực
hiện một hệ thống chính sách xã hội cơng bằng và tiến bộ, hướng vào mục
tiêu phát triển con người, tạo điều kiện cho tất cả mọi người, kể cả nam và nữ
đều có thể đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung. Thực tế cũng khẳng định,
tiềm năng lao động nữ đã được phát huy và vị thế của người phụ nữ được
nâng cao trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, lao động nữ cũng

đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực lao động, việc
làm ở cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức.
1.2.1. Giáo dục đào tạo
Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng đối với vị trí và triển vọng
tương lai việc làm của lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Để giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng của lao động nói chung và lao đơng nữ nói
riêng trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh “Cùng với
khoa học và công nghệ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu qủa” [11, tr.07]. Riêng đối với
lao động nữ Đảng và Nhà nước nhấn mạnh cần phải “Nâng cao kiến thức văn
hoá, nghề nghiệp cho phụ nữ, bồi dưỡng lực lượng cán bộ” [11, tr.109].
Theo dự báo của các chuyên gia Liên hiệp quốc, vào năm 2003, các
nước phát triển sẽ thực sự chuyển sang nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế
tri thức: cơ cấu lao động sẽ chịu sự tác động của viẹc ứng dụng những thành
tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ; nguồn nhân lực ln
được tri thức hố và lao động có tri thức đóng vai trị trung tâm, quyết định sự
phát triển của xã hội; sự giảm tới mức rất nhỏ tỷ trọng lao động nông nghiệp,
tỷ trọng lao động cơng nghiệp cũng giảm đáng kể, chỉ có sự tăng len của tỷ


×