Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực du lịch hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.84 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số

: 60 31 07

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH HÀ NỘI

Học viên:
TRẦN HỮU NHÂN
Khoá:
K17 - 2008
Giáo viên hướng dẫn: TS. ĐÀO THỊ BÍCH THUỶ

Hà Nội - Năm 2010

0


MỤC LỤC
Mục lục

1


Danh mục những từ viết tắt


Danh mục hình, bảng, hộp thông tin
Danh mục phụ lục tham khảo
MỞ ĐẦU :....................................................................................................................

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) trong lĩnh vực Du Lịch.
1.1. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3. Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực Du Lịch
1.2.1. Sự cần thiết thu hút FDI vào lĩnh vực Du Lịch
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới FDI vào lĩnh vực Du Lịch
1.2.2.1. Các nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận
1.2.2.2. Các nhân tố bên ngoài
1.2.3. Cơ cấu thu hút FDI
1.3. Kinh nghiệm thực tiễn trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào lĩnh vực Du Lịch
1.3.1. Kinh nghiệm Quốc tế
1.3.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước

Chương 2: Thực trạng thu hút vốn FDI vào lĩnh vực Du Lịch Hà Nội
2.1. Tổng quan về Du Lịch Hà Nội
2.1.1. Hoạt động kinh doanh Du Lịch Hà Nội
2.1.2. Tình hình đầu tư vào lĩnh vực Du Lịch Hà Nội những năm qua
2.2.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Du Lịch tại Hà Nội
2.2.1.Cơ cấu đầu tư
2.2.2. Kết quả của hoạt động thu đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.3. Đánh giá thực trạng của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài

2.3.1. Thành công
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2


Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực Du
Lịch Hà Nội.
3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển Du Lịch của Việt Nam
3.1.1. Xu hướng phát triển Du Lịch thế giới.
3.1.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển Du Lịch của Việt Nam
3.2. Chiến lược phát triển Du Lịch Hà Nội thời gian tới
3.2.1. Chiến lược phát triển Du Lịch Hà Nội
3.2.2. Cơ hội và thách thức đối với Du Lịch Hà Nội
3.3. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực Du Lịch Hà Nội
3.3.1.Các giải pháp vĩ mơ
3.3.1.1 Cải thiện chính sách thu hút FDI làm cơ sở để xây dựng kế hoạch thu
hút FDI phù hợp với điều kiện của Hà Nội
3.3.1.2. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý Nhà nước về Đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
3.3.1.3. Xúc tiến đầu tư, quảng bá, giới thiệu các khu du lịch Hà Nội
3.3.1.4. Tiếp tục hồn thiện mơi trường đầu tư
3.3.1.5 Xác định các dự án trọng điểm đầu tư theo thứ tự ưu tiên
3.3.1.6 Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
3.3.2. Giải pháp vi mô
3.3.2.1. Đối với doanh nghiệp lữ hành
3.3.2.2. Đối với Khách sạn và cơ sở lưu trú
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………..


Danh mục những từ viết tắt

3


APEC
ASEAN
BOT
BT
BTO
CPTA
ĐTNN
FDI
FII
GDP
GI
HI
IMF
M&A
MICE

: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương.
: Hiệp hội các Quốc gia Đơng Nam Á.
: Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao.
: Hợp đồng xây dựng-chuyển giao.
: Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh.
:
: Đầu tư nước ngoài.
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

: Đầu tư gián tiếp nước ngoài.
: Tổng Sản phẩm Quốc nội
: Đầu tư mới 100% vốn nước ngoài.
: Đầu tư theo chiều ngang
: Quỹ tiền tệ quốc tế
: Mua lại và sát nhập
: Meeting (gặp gỡ), Incentive (khen thưởng), Conventions

ODA
TNCs
TNDL
UNCTAD
USD
VI
VNAT
VND
WB
WTO

(hội thảo), Exhibition (triển lãm),
: Viện trợ phát triển chính thức
: Các tập đoàn xuyên quốc gia
: Tài nguyên du lịch
: Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương Mại và Phát triển
: Đồng đô la Mỹ
: Đầu tư theo chiều dọc
: Việt Nam National Administration of Tourism
: Đồng Việt Nam
: Ngân hàng Thế giới
: Tổ chức Thương mại Thế giới


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế, vấn đề quan trọng nhất là phải cần có vốn. Đối với các nước đang
phát triển, vấn đề thu hút vốn từ nhiều nguồn trong đó nguồn vốn từ nước ngoài để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là yếu tố vô cùng quan trọng và được nhiều quốc gia
quan tâm, trong đó có Việt Nam.

4


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự phụ thuộc, liên kết
giữa các nước trên thế giới ngày càng cao, hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều
nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngồi đầu tư vào một nước nào đó
thường bằng hai con đường chính, đó là đường cơng cộng và đường tư nhân hoặc
thương mại. Hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu là đầu tư trực tiếp (FDI); đầu tư qua
thị trường chứng khoán; cho vay của các định chế kinh tế và ngân hàng nước ngoài
(vay thương mại) và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Nguồn vốn nước ngồi đầu tư trực tiếp (FDI) có vai trị then chốt để thực
hiện cơng nghiệp hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Thủ đơ Hà Nội, với vị trí là một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hố của
cả nước, có truyền thống văn hố lâu đời đã và đang không ngừng phấn đấu để lớn
mạnh về mọi mặt, xứng đáng với danh hiệu "Thành phố vì hồ bình". Truyền thống
của Hà Nội được thể hiện không chỉ qua những di tích lịch sử, văn hố mà cịn thể
hiện trong văn hoá ứng xử, văn hoá ẩm thực và nhiều giá trị tinh thần khác mà
không phải nơi nào cũng có. Thêm vào đó, kể từ 01/08/2008, sau khi địa giới hành
chính được mở rộng, Hà Nội có thêm những lợi thế khác về tài nguyên du lịch để có
thể xây dựng các chương trình du lịch khép kín và trở thành một điểm đến hấp dẫn

khách du lịch trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, việc khai thác thế mạnh về du lịch của Hà Nội chưa thực sự mang
lại hiệu quả cao. Bên cạnh những lý do khách quan như hậu quả của chiến tranh và
tiếp đó là cấm vận kinh tế, cịn có ngun nhân chủ quan là đầu tư nâng cấp và xây
dựng mới các cơ sở hạ tầng chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các điểm đến
du lịch phần nhiều chủ yếu mới chỉ là khai thác các tiềm năng hiện có, cịn việc đầu
tư tái tạo và nâng cấp chất lượng phục vụ chưa có được những bước đột phá đã làm
giảm sức cạnh tranh của Du lịch Hà Nội khi so sánh ngay cả với các tỉnh thành khác
trong nước.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của những bất cập nêu trên là việc
đầu tư cho ngành du lịch của thành phố chưa thực sự được quan tâm. Do vậy kết
quả mang lại chưa được như mong muốn. Để thực hiện Nghị quyết của Thành uỷ
Hà Nội về phát triển du lịch thành một ngành kinh tế trọng điểm của Thủ đô vào

5


năm 2010, tầm nhìn đến 2020 và những năm sau, vấn đề rất lớn đặt ra trước các cơ
quan quản lý là cần có định hướng và giải pháp hợp lý trong đầu tư, thu hút vốn
đầu tư cho du lịch Hà Nội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ngun nhân, rào cản, đưa
ra giải pháp để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực du lịch tại Hà
Nội là câu hỏi cần có lời giải đáp.
Trong bối cảnh như vậy, tôi chọn đề tài đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh
vực du lịch tại Hà Nội làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Song với dịng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi vào lĩnh vực du lịch tại Hà Nội các nghiên cứu mới chỉ dừng
lại ở các báo cáo chuyên đề.
Ở Việt Nam, có một số cơng trình, bài viết nghiên cứu về việc thu hút vốn

đầu tư đã được triển khai như luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng văn Hoàn thực hiện
năm 2010, với tiêu đề "Xúc tiến đầu tư phát triển Du Lịch Hà Nội trong bối cảnh
hội nhập Quốc tế" [6]. Đề tài này tập trung vào nghiên cứu các giải pháp xúc tiến
đầu tư nói chung đối với du lịch Hà Nội mà chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể
để thu hút vốn FDI.
Tác giả Phan Mạnh Chính với đề tài "Xây dựng kết cấu hạ tầng của thủ đô
Hà Nội, định hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài", [4] đã nghiên
cứu sâu vào việc Xây dựng kết cấu hạ tầng của thủ đơ Hà Nội. Nghiên cứu này
mang tính định hướng và đề xuất các giải pháp thu hút vốn nước ngoài phục vụ phát
triển kết cấu hạ tầng cho hoạt động kinh tế - xã hội nói chung. Cuốn sách "Thu hút
đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam" [8] của tác giả
Hồng Thị Bích Loan, NXB Chính Trị Quốc gia xuất bản năm 2008, chủ yếu đề cập
đến vai trò của TNCs trong lưu chuyển FDI toàn cầu, ngoài ra cuốn sách còn đề cập
đến thực trạng đầu tư trực tiếp của TNCs vào Việt Nam trong 20 năm qua và đưa ra
giải pháp thu hút FDI của TNCs vào Việt Nam trong những năm tới. Luận án tiến sỹ
của tác giả Nguyễn Thị Bằng với tiêu đề " Những giải pháp huy động và sử dụng
vốn đầu tư phát triển ngành du lịch Việt Nam " [3] và luận án tiến sỹ của tác giả
Trần Văn Ngợi "đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành du lịch Việt Nam trong thời

6


kỳ đổi mới" [11] chủ yếu đề cập tới thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư cho
phát triển du lịch Việt Nam trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong luận văn
thạc sỹ của Nguyễn Thị Thanh Hà về "Tăng cường thu hút vốn đầu tư từ người Việt
Nam định cư ở nước ngoài " [5] thì đề ra các giải pháp thu hút dịng vốn đầu tư của
người Việt Nam định cư ở nước ngồi để góp phần phát triển kinh tế chung của cả
nước.
Do yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu khác nhau nên các nghiên cứu của các
tác giả kể trên mặc dù đã đề cập tới một số khía cạnh về đầu tư, phát triển cơ sở hạ

tầng nói chung hoặc cho ngành du lịch, tuy nhiên những nghiên cứu kể trên một
phần do thực hiện khá lâu, mặt khác chưa xem xét một cách tổng thể về thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Du Lịch tại Hà Nội trong thời gian tới và giải
quyết các vấn đề về chính sách đầu tư để huy động và sử dụng nguồn vốn đó.
Trong khi đó, chính phủ một số quốc gia và vùng lãnh thổ như Thái Lan,
Trung Quốc… đã có những nghiên cứu và đề ra được những chính sách, giải pháp
cụ thể để thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực Du Lịch phát huy tác dụng tích cực vào sự
nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, đây vẫn là vấn đề lớn đặt ra và đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần phải
triển khai thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích.
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành Du lịch của Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
lĩnh vực Du Lịch
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển Du
Lịch Hà Nội trong thời gian qua, từ đó tìm ra được những thành tựu đạt được cũng
như những hạn chế và nguyên nhân cần được khắc phục.

7


- Đề xuất những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhằm phát triển Du Lịch của Thủ đơ trong những năm tới, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh du lịch qua việc thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào lĩnh vực Du Lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nội dung
Thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch trong đó tập trung nghiên cứu đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ ngành Du Lịch
* Phạm vi không gian
Các cơ sở hạ tầng và tiện nghi trong địa bàn thủ đô Hà Nội
* Phạm vi thời gian
Tình hình đầu tư FDI trong du lịch Hà Nội giai đoạn từ năm 2001 đến năm
2009. Đây là khoảng thời gian mà Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010. từ đó đề ra các giải pháp đẩy mạnh thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Du Lịch tại Hà Nội từ nay đến năm
2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để có cơ sở làm rõ các vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp luận về
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra xã hội học: Bảng hỏi và Phỏng vấn
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định tầm quan trọng của dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào
lĩnh vực Du Lịch.
- Đánh giá khái quát thực trạng đầu trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Du
Lịch tại Hà Nội trong những năm gần đây.

8


- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất được một số giải pháp khả thi

đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Du Lịch tại Hà Nội thời
gian tới, góp phần thiết thực đưa Du Lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đơ.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực Du Lịch.

Chương 2: Thực trạng thu hút vốn FDI vào lĩnh vực Du Lịch Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút FDI vào lĩnh
vực Du Lịch Hà Nội.

Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực Du Lịch.
1.1.

Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

1.1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

9


Trong quá trình sử dụng và khai thác, các yếu tố vật thể cũng như phi vật thể,
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các cơ sở vật chất - hạ tầng kỹ thuật đều bị xuống
cấp, lạc hậu hay bị cạn kiệt dần. Để có thể duy trì, phát triển và bảo tồn các giá trị
văn hóa trong xã hội nói chung cũng như phát triển ngành Du lịch, cần tăng cường

bảo trì, duy tu, mở rộng quy mơ, nâng cao chất lượng của các yếu tố này. Hay nói
cách khác cần có sự đầu tư hợp lý để phát triển kinh tế bền vững.
Ðầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ hình
để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Trên thế giới có nhiều cách
diễn giải khái niệm FDI tùy theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
Investment) là vốn đầu tư thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh
nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích
của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp
đó.
Khái niệm này nhấn mạnh 3 yếu tố: chủ thể đầu tư phải có yếu tố nước
ngồi, tính lâu dài của một hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là giành quyền kiểm
soát trực tiếp hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Đây là sự phân biệt FDI với đầu
tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nền kinh tế hiện đại.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương Mại và Phát triển (UNCTAD) cũng đưa
ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực
tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được
từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và
các khoản vay trong nội bộ công ty.
Trung Quốc quan niệm FDI là việc người sở hữu tư bản tại nước này mua
hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Theo đó, nếu khoản tiền mà nhà
đầu tư trả cho thực thể kinh tế này của nước ngồi có “ảnh hưởng quyết định” đối
với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm “Quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế mà
nó có ảnh hưởng ấy, thì đó là đầu tư trực tiếp. Quyền kiểm soát mà các nhà lý luận
Trung Quốc đề cập tới đó là tỷ lệ chiếm hữu cổ phần; khi cổ phần đạt tới tỷ lệ nào
đó thì có quyền kiểm sốt xí nghiệp và quyền này là vấn đề cốt lõi của đầu tư trực

10



tiếp. Như vậy cách hiểu của Trung Quốc nhấn mạnh đến khía cạnh sở hữu hoặc
kiểm sốt trực tiếp của chủ đầu tư đối với Các hoạt động đầu tư bằng vốn đầu tư của
mình.[3, tr.15] .
Theo luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam năm 2006 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt Nam (số 18/2006/QH10) năm
2000 thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư là người nước ngoài
nhằm xác định được tư bản được chuyển dịch trong đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất
thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
Từ những khái niệm trên, trong phạm vi luận văn này ta có thể hiểu một cách
khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì
tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm
soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hố lợi ích của mình.
Tài sản trong khái niệm này, theo thơng lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, quy trình cơng nghệ, bát động sản, các loại hợp đồng và giấy
phép có giá trị …), tài sản vơ hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm
quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như
vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngồi. Hai đặc
điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu
tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí
đối tượng đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngồi
FDI có đặc điểm tích cực và tiêu cực, nó có sự khác biệt so với đầu tư gián
tiếp hay các khoản vay nợ nước ngồi khác.
Ưu điểm:
Thứ nhất, FDI khơng để lại gánh nặng nợ nước ngoài cho nước tiếp nhận đầu
tư như các khoản vay thương mại, ODA, phát hành trái phiếu ra nước ngoài....
Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp sản xuất điều

hành chính vì vậy họ xây dựng chiến lược làm ăn lâu dài tại nước nhận đầu tư, tự

11


chịu mọi trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Chủ động lựa chọn hình thức liên
doanh với các đối tác trong nước.
So với nguồn vốn ODA, vốn vay...thường phải chịu áp lực về lãi suất, hay
các ràng buộc khác đi kèm thì vốn FDI ít rủi ro đối với nước tiếp nhận.
Thứ hai, FDI không chỉ đơn thuần di chuyển vốn bằng tiền mà đi kèm theo
đó là cơng nghệ, kỹ thuật, cách thức quản lý, sản xuất ra những sản phẩm mới, mở
ra thị trường mới…cho nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ ba, do đặc điểm và bản chất của FDI nhà đầu tư nước ngồi khó rút vốn
ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.
Trong các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ các nhà đầu tư nước ngoài
thường rút vốn ồ ạt bằng cách bán rẻ cổ phiếu, trái phiếu đang nắm giữ, làm giảm
giá chứng khoán, gây đổ vỡ thị trường chứng khoán.
Đối với FDI, nhà đầu tư nước ngồi thường tính chuyện làm ăn lâu dài, Vốn
của họ bao gồm cả những nguồn lực cho khoa học công nghệ, nghiên cứu thị
trường, đào tạo nguồn nhân lực, nằm trong nhà xưởng,…do vậy trong trường hợp
muốn rút vốn thì phải tìm được đối tác để bán lại, thanh lý nhà máy thì mới thu hồi
được vốn.
Thứ tư, thơng qua tiếp nhận FDI nhờ đó mà nước tiếp nhận đầu tư có điều
kiện gắn kết nền kinh tế trong nước với quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ năm, vốn FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy chuyển
giao cơng nghệ, đóng góp vào ngân sách và các cân đối vĩ mô, thúc đẩy cải cách thủ
tục hành chính, tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác.
Ngồi những mặt tích cực, thì bên cạnh đó FDI cũng có mặt trái đối với quốc
gia tiếp nhận.

Một số hạn chế:
Mục tiêu lớn nhất của nhà đầu tư là thu được lợi nhuận càng cao càng tốt vì
vậy có thể quốc gia tiếp nhận đầu tư có trình độ quản lý yếu kém, cơng nghệ sản
xuất thấp, nên nhà đầu tư lợi dụng vào đó để tiêu thụ máy móc thiết bị lạc hậu, thậm
trí là hàng thải loại. Nếu khơng có sự quản lý, giám sát, quy định chặt chẽ thì quốc
qia tiếp nhận FDI dễ trở thành "bãi rác công nghệ" của các đối tác đầu tư.

12


Thực tế, theo Vneconomy tổng hợp năm 2009, một tỉnh phía Nam cơng bố,
có đến 40% doanh nghiệp FDI trên địa bàn “đồng loạt” báo cáo lỗ. Điều này gây
nên những hoài nghi về khả năng cạnh tranh của dự án FDI, cũng như “bẫy” chuyển
giá tạo lỗ giả của một số doanh nghiệp mà các phương tiện truyền thông đã khơng ít
lần nhắc đến.
Trong khi đó, sự phối hợp trung ương và địa phương trong quản lý sau phân
cấp có phần chưa chặt chẽ. Tại hội thảo "Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ
hậu khủng hoảng kinh tế", được tổ chức sáng 21/5 tại Hà Nội học giả Nguyễn Mại
lấy ví dụ về phát triển xi măng có thể đạt 90 triệu tấn/năm, hay đầu tư chế tạo thép,
sân golf tràn lan làm ví dụ cho việc phá vỡ quy hoạch, trong đó có phần “đóng góp”
của các doanh nghiệp FDI.
Cục Đầu tư nước ngồi nhìn nhận: “Nhận thức về thu hút và quản lý các
nguồn vốn FDI tại địa phương chưa đồng bộ, có khi nóng vội, thiên về lợi ích trước
mắt mà chưa tính đến vấn đề chiến lược, thu hút đầu tư một số nơi còn chạy theo số
lượng mà thiếu quan tâm đến chất lượng, ảnh hưởng cân đối tổng thể nền kinh tế”.
- Việc sử dụng nhiều vốn FDI có thể sẽ không chú trọng tối đa nguồn lực
trong nước gây ra mất cân đối trong cơ cấu đầu tư(giữa vốn FDI và vốn trong nước)
, nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngồi, mất đi tính chủ động.
- Đóng góp hạn chế, nhiều doanh nghiệp FDI lại đang tàn phá môi trường
ghê gớm. “Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa tự giác trong việc tuân thủ

quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận hành hệ thống xử lý chất thải khi cơ quan
chức năng quản lý môi trường phát hiện và xử phạt”
Trên đây là một số mặt tích cực và hạn chế của FDI, tuy nhiên nó ảnh hưởng
như thế nào còn phụ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư (thể chế, chính sách, chiến
lược phát triển,..). Quốc gia tiếp nhận đầu tư có thể phát huy một cách tối đa mặt
tích cực hoặc giảm thiểu được tiêu cực, xử lý hài hòa các mối quan hệ, lợi ích của
quốc gia và lợi ích nhà đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định
hướng đã đề ra.
1.1.3. Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài

13


Việc nghiên cứu các hình thức của FDI sẽ giải thích rõ hơn về hoạt động đầu
tư này, trên cơ sở đó từng quốc gia, từng nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư sao
cho phù hợp. Các hình thức FDI của một quốc gia do luật pháp từng nước quy định
và được áp dụng phổ biến là:
- Xét theo mục đích đầu tư:
FDI được chia làm hai hình thức: đầu tư theo chiều ngang và đầu tư theo
chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal intergration HI ): là một cơng ty nước ngồi đầu tư trực tiếp vào ngành sản xuất mà họ đang có
lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó (lợi thế về kỹ thuật, cơng nghệ). Với lợi
thế này, họ tìm lợi nhuận cao hơn ở nước tiếp nhận đầu tư nên đã mở rộng và thơn
tính thị trường nước ngồi do đó thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền. Mỹ, Nhật
đang dẫn đầu với hình thức đầu tư này ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (vertical intergration – VI ):
Khác với hình thức HI, hình thức VI là hình thức đầu tư ra nước ngoài nhằm
khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố đầu vào của sản xuất rẻ (lao
động, đất đai…) các chủ đầu tư thường khai thác các lợi thế so sánh của các yếu tố
đầu vào giữa các khâu sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc

tế. Do đó các sản phẩm thường được hồn thiện qua các khâu lắp ráp ở nước nhận
đầu tư. Sau đó các sản phẩm này có thể được nhập khẩu về nước đầu tư hoặc xuất
khẩu sang các nước khác. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngồi điển hình của Nhật
Bản và được thực hiện phổ biến ở các nước đang phát triển.
- Xét theo hình thức sở hữu:
Xem xét theo tỷ lệ sở hữu của nước ngoài trong các dự án đầu tư, hình thức
FDI này thường được thực hiện dưới dạng như doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, BTO, BT…
+ Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh do hai hay
nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình
thức này có các đặc trưng: dạng cơng ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân
theo pháp luật nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào liên doanh là một pháp nhân
riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham

14


gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên
có phá sản, doanh nghiệp vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên
kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn đóng góp của mình vào
vốn pháp định.
Thơng qua hình thức liên doanh, nước nhận đầu tư sẽ tăng được vốn, giảm
chi phí đầu tư, có khả năng kiểm sốt, học được kinh nghiệm quản lý tiên tiến, và
được chia sẻ lợi nhuận với các chủ đầu tư nước ngồi. Về phía nhà đầu tư nước
ngồi tận dụng được hệ thống phân phối sẵn có của đối tác nước chủ nhà, được đầu
tư vào những lĩnh vực dễ thu lợi nhuận, lĩnh vực bị cấm hay bị hạn chế với hình
thức đầu tư khác. Ngồi ra họ khơng mất chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới
và xây dựng các mối quan hệ, chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư với đối tác nước
chủ nhà. Tuy nhiên doanh nghiệp liên doanh cũng có một số hạn chế: Ban lãnh đạo
gồm nhiều thành phần nên khi cần bàn bạc, trao đổi và ra một quyết định sẽ mất

nhiều thời gian, dễ nảy sinh các mâu thuẫn trong quá trình điều hành. Nếu đối tác
nước chủ nhà góp vốn liên doanh bằng tiền thuê đất, năng lực quản lý hạn chế sẽ
dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của doanh nghiệp liên doanh, mặt khác
nhà đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh tại môi trường nước nhận đầu tư nên
họ cũng đối mặt với sự khác biệt về văn hóa, tập quán, tác phong làm việc ….
+ Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng tồn bộ
vốn nước ngồi do tổ chức hoặc cá nhân nước ngồi thành lập, hoặc cũng có thể
được hình thành do việc chuyển đổi từ hình thức doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp tự quản lý và điều hành tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngồi là cơng ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cơng ty cổ phần,
có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước nhận đầu tư, chịu sự kiểm soát của
pháp luật nước sở tại.
Ưu điểm của hình thức này đối với nước chủ nhà có thể thu ngay được tiền
thuê đất, mặc dù doanh nghiệp bị lỗ, giải quyết được công ăn việc làm mà không
cần bỏ vốn đầu tư, ưu tiên tập trung thu hút vốn, cơng nghệ nước ngồi vào những
lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu, không phải chụi rủi ro. Tuy nhiên, nước chủ nhà

15


khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và cơng nghệ để nâng cao trình độ quản lý, cán bộ
kỹ thuật, khó kiểm sốt được đối tác so với hình thức liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngồi, hình thức đầu tư này giúp họ có thể chủ động
trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, chủ động trong tuyển dụng và đào tạo
nguồn nhân lực, đẩy nhanh được tiến độ triển khai dự án đầu tư theo chiến lược
toàn cầu của tập đồn và lợi nhuận của họ khơng bị chia sẻ. Nhưng đồng thời, họ
cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro và chi phí lớn cho việc nghiên cứu tiếp cận thị
trường mới. Với những quốc gia có những quy định hạn chế đối với doanh nghiệp
100% vốn nước ngồi thì nhà đầu tư nước ngồi cịn gặp khó khăn trong việc xâm

nhập những lĩnh vực có nhiều thuận lợi và trong quan hệ với các cơ quan quản lý
Nhà nước sở tại.
+ Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh:
đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết
giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hay
nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và
phân chia kết quả kinh doanh cho cho mỗi bên tham gia mà khơng cần thành lập xí
nghiệp kinh doanh hoặc pháp nhân mới.
Về mặt pháp lý, hợp doanh là một thực thể kinh doanh theo pháp luật của
nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Hình thức này khơng làm
hình thành một cơng ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách
pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước Nhà nước.
Kết quả kinh doanh thu được phân chia theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận
giữa các bên.
Với nước chủ nhà hình thức này giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu
công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm
được quyềt điều hành dự án. Tuy vậy, rất khó thu hút được đầu tư dưới hình thức
này, chỉ có thể thực hiện dối với một số lĩnh vực dễ sinh lời.
Đối với nhà đầu tư nước ngồi, hình thức hợp doanh giúp họ tận dụng được
hệ thống phân phối có sẵn của đối tác, thâm nhập được thị trường truyền thống của
nước chủ nhà và vào được những lĩnh vực hạn chế đầu tư. Giúp giảm chi phí và thời
gian cho việc nghiên cứu thị trường mới, xây dựng được các mối quan hệ, không bị

16


tác động lớn do sự khác biệt về văn hoá, chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư. Tuy
nhiên, ở hình thức hợp doanh nhà đầu tư nước ngồi khơng được trực tiếp quản lý
điều hành dự án và mối quan hệ hợp tác với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn
khiến họ trở nên e dè hơn khi đầu tư theo hình thức này.

Ngồi ba hình thức cơ bản trên, theo yêu cầu đầu tư về hạ tầng, các cơng
trình xây dựng cịn có hình thức.
+ Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT): là một phương
thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư
nước ngồi (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nước ngoài để xây
dựng kinh doanh cơng trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời
hạn nhà đầu tư nước ngồi chuyển giao khơng bồi hồn cơng trình đó cho nước chủ
nhà.
Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngồi, cũng có
thể được thực hiện bằng vốn nước ngồi và phần vốn góp của chính phủ hoặc các tổ
chức, cá nhân của nước chủ nhà. Trong hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư nước
ngồi có tồn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh cơng trình trong một thời gian
đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho
nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư nước
ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Nhà
nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngồi để xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng. Sau
khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngồi chuyển giao cơng trình cho nước chủ
nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự
án khá để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức đầu tư xây dựng hạ tầng, cơng trình xây dựng giúp nhiều quốc
gia nhận đầu tư có thể thu hút được vốn đầu tư vào những dự án hạ tầng đòi hỏi vốn
lớn, giảm sức ép cho ngân sách Nhà nước, đồng thời nhanh chóng có cơng trình kết
cấu hạ tầng hoàn chỉnh, giúp khai thác các nguồn lực trong nước và thu hút thêm
các FDI để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm các hình thức này là khó tiếp
nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm sốt được cơng trình. Nhà nước cũng phải
chịu mọi rủi ro ngồi khả năng kiểm sốt của nhà đầu tư.

17



Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc chủ động quản lý điều hành và tự chủ
kinh doanh giúp đảm bảo hiệu quả đồng vốn đấu tư và lợi nhuận không bị chia sẻ.
Các dự án đầu tư được Nhà nước sở tại đảm bảo, tránh được rủi ro bất thường ngồi
khả năng kiểm sốt. Tuy vậy, chi phí đầu tư cho những dự án xây dựng hạ tầng lớn,
việc đàm phán cũng như thực thi hợp đồng thường gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều
thời gian, cơng sức, nhất là việc đàm phán và ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp
nguyên liệu đầu vào và khách hàng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
Các loại hình đầu tư FDI trong lĩnh vực du lịch
- Xét theo chiến lược đầu tư:
Các cơng ty đầu tư ra nước ngồi theo hai hình thức chủ yếu: đầu tư mới
(Greenfield investment – GI) ; Mua lại và sát nhập (Mergers and acquisitions – M &
A).
+ GI: các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngồi thơng qua việc xây dựng
các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư FDI truyền thống chủ yếu để các chủ đầu
tư thực hiện ở các nước đang phát triển. Mục đích cơ bản của hình thức đầu tư này
là xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh mới ở nước ngoài và mở rộng mạng lưới
sản xuất, phân phối của công ty trên phạm vi tồn cầu. Đầu tư mới thường có tư
cách pháp nhân và hoạt động theo quy định của luật pháp nước chủ nhà.
+ M & A: các chủ đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các doanh
nghiệp hiện có ở nước ngồi với mục tiêu là tiếp cận thị trường mới (mở rộng mạng
lưới phân phối) tăng sức cạnh tranh và giảm các chi phí quản lý.
Các công ty xuyên quốc gia thường thực hiện hỗn hợp hai hình thức GI và M
& A trong chiến lược đầu tư ra nước ngồi.Ngồi ra, cịn có các hình thức như:
Công ty cổ phần vốn ĐTNN, Công ty hợp danh, Cơng ty mẹ – con (Holding
Company)…
Tóm lại, FDI có nhiều hình thức đầu tư khác nhau. Mỗi hình thức đầu tư có
những đặc điểm ưu thế và hạn chế nhất định. Do đó, để kết hợp hài hồ lợi ích của
nhà đầu tư, cũng như thực hiện mục tiêu thu hút vốn phù hợp với từng vùng và toàn
bộ nền kinh tế cần phải đa dạng hố các hình thức đầu tư. Việc lựa chọn hình thức

đầu tư phù hợp còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể.

18


1.2.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực Du Lịch

1.2.1 Sự cần thiết thu hút FDI vào lĩnh vực Du Lịch
Du lịch có xu thế gắn liền với các hoạt động kinh tế - xã hội khác, do đặc
tính những cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch thường gắn liền với nhiều ngành
kinh tế khác như giao thông vận tải, quy hoạch và kiến trúc đô thị, tài nguyên - môi
trường, xây dựng và văn hóa nghệ thuật...
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Du Lịch là phù hợp và đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lực lượng sản
xuất thế giới phát triển mạnh mẽ phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, dân tộc trong
sự vận động phát triển. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của q
trình tồn cầu hố và quốc tế hố. Để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện đó,
các quốc gia buộc phải thực hiện mở cửa, khai thông, hội nhập kinh tế quốc tế khu
vực và toàn cầu.
Tham gia hội nhập, các quốc gia có cơ hội và điều kiện tiếp cận với dịng
vốn, cơng nghệ, mở rộng thị trường, tiếp nhận kỹ năng và kinh nghiệm quản lý từ
các nền kinh tế phát triển cao nhất. Các nền kinh tế đang phát triển và kinh tế
chuyển đổi, do đó sẽ có cơ hội để thực hiện mơ thức phát triển và rút ngắn, nghĩa là
thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để đi tắt đón đầu và tiến tới phát triển cao hơn
tên cơ sở thụ hưởng và vận dụng hiệu quả các nguồn lực ở bên ngồi đã được khai
thơng và kết nối với các nguồn lực bên trong. [13, tr. 18]
Trong tiến trình hội nhập, việc thu hút và sử dụng các nguồn lực bên ngồi,

trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng
kinh tế bền vững của Việt Nam. Với cả hai bên (bên đầu tư và bên nhận đầu tư), lợi
ích thu được từ việc đầu tư đã mở ra được cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ
nền kinh tế, góp phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng
kinh tế bền vững.
Thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia tham gia vào q
trình tồn cầu hóa gần đây đã tăng từ 2,9%/năm trong thập kỷ 70 lên 3,7%/năm
trong thập kỷ 80 và 5,0%/năm trong thập kỷ 90. Còn các quốc gia đang phát triển
khơng nằm trong nhóm “tồn cầu hóa” thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ

19


3,3%/năm trong thập kỷ 70 xuống 0,8%/năm và chỉ tăng lên mức 1,4%/năm trong
thập kỷ 90. [28, trang 18] vì vậy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Du
Lịch là phù hợp và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
-

Nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển

Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia. Nhưng cần bao nhiêu, từ đâu và vào đâu thì ln là bài tốn khó. Hầu hết
các nước đang phát triển để đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và bền vững và đang
đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư. Một là, huy động
vốn qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu
vốn đầu tư. Khoản thiếu hụt vốn nếu khơng tìm được nguồn bổ sung thì sẽ có tác
động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hai là, tình trạng nhập siêu là không
thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố đất nước dẫn đến
sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả hai vấn đề đó có thể giải quyết
bằng cách thu hút vốn ngồi nước trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có ưu thế hơn so với các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài khác.
FDI là kênh đầu tư tương đối an toàn, do nhà đầu tư nước ngoài chịu trách
nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm vay và trả nợ, không để lại
gánh nặng nợ nần cho ngân sách Nhà nước như vay thương mại, không phải chịu
sức ép bởi các ràng buộc điều kiện kinh tế, chính trị như vốn vay ODA. Đồng thời,
tránh cho nước chủ nhà khỏi những biến động đầy rủi ro từ những thăng trầm trên
thị trường chứng khoán.
Như đã nói ở trên chúng ta có một tiềm năng du lịch rất lớn,trước khi đổi
mới do điều kiện chủ quan chúng ta không thể thúc đẩy xây dựng các khu du lịch.
Thế nhưng từ khi FDI được vào Việt Nam thì bộ mặt các khu du lịch đã đổi thay
hẳn. Chúng ta đã có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng cũng làm thay đổi phong cách
kinh doanh du lịch,chúng ta đã biết tận dụng vai trò của FDI giúp nó trở thành một
cơng cụ thúc đẩy sự phát triển các Khu du lịch. Hàng trăm dự án được thông qua,
với số vốn lên đến hàng tỉ USA, chúng ta khơng chỉ có khách sạn, khu du lịch sinh
thái,vui chơi giải trí…mà cịn có những khu nghỉ mát cao cấp có thể đáp ứng mọi
thành phần du lịch. Do tính liên ngành trong du lịch việc phát triển các khu du lịch

20


khơng những tác động đến ngành du lịch mà cịn tạo một cơ sở vật chất rât tốt cho
các địa phương, tạo công ăn việc làm và xuất khẩu tại chỗ cho nền kinh tế. Chúng ta
luôn cần vốn cho việc phát triển các khu du lịch vì tiềm năng của chúng ta là rất lớn,
rất nhiều điểm du lịch đang cần vốn để khai thác đáp ứng nhu cầu du lịch của khách
nội địa cũng như khách nước ngoài. Việc phát triển các khu du lịch khách sạn luôn
luôn cần trong giai đoạn như hiện nay-vì một nền kinh tế phát triển chúng ta phải
luôn thu hút được FDI. Có thể nói khơng một ai có thể phủ nhận vai trò của FDI,
thực tế hiện nay chúng ta đang tích cực thu hút FDI với nhiều hoạt động xúc tiến,
nhiều khách sạn cao cấp đang được triển khai, hàng chục khu du lịch lớn đang tiến

hành đầu tư giai đoạn đầu.
Như vậy FDI có một vai trị đặc biệt quan trọng trong việc phát triển các khu
du lịch nói riêng và cho ngành du lịch nói chung trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế
giới như hiện nay. Là là động lực phát triển,là cơ sở cho các ngành liên quan. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại,
vừa là kết quả, vừa là công cụ và động lực quan trọng thúc đẩy q trình tồn cầu
hố.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới FDI vào lĩnh vực Du Lịch
Bên cạnh các điều kiện mang tính đặc thù riêng của ngành Du lịch, cịn có
những yếu tố khác ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến việc thu hút FDI vào Du
lịch, do vậy để thu hút FDI vào lĩnh vực Du lịch thì cũng phải đồng thời áp dụng
các chính sách thu hút FDI trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, bao gồm các
nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận và các nhân tố bên ngoài.
1.2.2.1. Các nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến khả năng thu hút FDI của một quốc
gia. Các nhân tố sau đây có thể xem như là những nhân tố bên trong tác động trực
tiếp tới sự di chuyển của dịng FDI vào một quốc gia. Đó là:
* Chiến lược huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế:
Đối với một quốc gia, vốn cho đầu tư phát triển thường được chia thành: vốn
trong nước và vốn nước ngoài. Chiến lược huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế
có thể coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến các hoạt động triển khai và kết quả
thu hút FDI của quốc gia đó. Chiến lược này thể hiện tập trung ở một số điểm: có

21


mở cửa để thu hút vốn bên ngồi hay khơng? Đặt trọng tâm thu hút vốn trong nước
hay nước ngoài? Nguồn vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào nguồn nào: FDI,
ODA hay vay thương mại…? Định hướng các lĩnh vực thu hút vốn? Tiêu chuẩn để
xây dựng phương hướng lựa chọn dự án đầu tư nước ngoài? Việc định hướng chiến

lược thu hút vốn có ý nghĩa quan trọng để thiết lập các điều kiện thu hút phù hợp
nhất. Nói cách khác, do bị quy định bởi chiến lược phát triển được lựa chọn, mỗi
mơ hình xác định mục tiêu, giải pháp huy động và sử dụng vốn nước ngoài khác
nhau.
Nếu theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng nội, dựa vào sản xuất
thay thế nhập khẩu, hình thức huy động vốn được ưa thích hơn cả là vay thương
mại ngắn hạn, phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ ra nước ngồi.
Tính chất ngắn hạn của nguồn vốn này tạo ra áp lực sử dụng vốn theo những mục
tiêu ngắn hạn (thường có tính đầu cơ), khơng có lợi cho q trình phát triển bền
vững.
Nếu lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng dựa vào
xuất khẩu, hình thức vốn được ưa thích là FDI và vay dài hạn. Các hình thức này
không chịu sức ép của yêu cầu trả nợ cũng như sự gia tăng quá nhanh khối lượng nợ
mà cịn tiếp nhận được cơng nghệ, kỹ thuật hiện đại hơn, tận dụng tốt các quan hệ
thị trường để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
* Mối quan hệ kinh tế quốc tế của quốc gia tiếp nhận:
Trong xu thế quốc tế hố ngày càng tăng, tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
lớn, không một quốc gia dân tộc nào tự khép kín, cơ lập với thế giới mà có thể phát
triển được. Do đó, sự hợp tác, cùng tồn tại và phát triển giữa các quốc gia, dân tộc
có chế độ chính trị – xã hội khác nhau ngày càng tăng. Trong đó, quan hệ kinh tế
quốc tế là mối quan hệ quan trọng nhất vì nó vừa là trung tâm, là cơ sở và cũng là
động lực thúc đẩy mối quan hệ ở các lĩnh vực khác.
Mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia vừa là hệ quả của một chiến
lược huy động vốn giữa quốc gia đó, vừa là cơ hội để tìm kiếm đối tác đầu tư.
Nhiều quốc gia khi thực hiện mở cửa tham gia các tổ chức kinh tế khu vực hoặc
quốc tế, hoạt động ngoại thương phát triển một cách nhanh chóng, thu hút đầu tư

22



nước ngoài đã gia tăng, chất lượng đầu tư nước ngồi được cải thiện một cách đáng
kể, do đó mở thêm nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước.
Để tăng cường mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia, chính phủ thiết
lập và duy trì các quan hệ đối ngoại chính thức, hịa bình, hợp tác thân thiện và rộng
rãi với các nước, tạo khung pháp lý chính thức và đầy đủ để mở đường cho sự lưu
truyền vốn đầu tư giữa thị trường vốn bên ngoài với thị trường vốn trong nước.
* Thiết lập các điều kiện thu hút FDI:
Khi chính phủ đã thừa nhận tầm quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với sự phát triển kinh tế đất nước và trên cơ sở hiểu biết về mục tiêu của
các nhà đầu tư nước ngoài, các quốc gia chấp nhận FDI thiết lập các điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trở thành một nhân tố
đặc biệt quan trọng. Thực tiễn cho thấy, tiêu chuẩn của mơi trường đầu tư hấp dẫn,
có sức cạnh tranh để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trước hết bao
gồm các điều kiện:
- Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội: đây là điều kiện tiên quyết nhằm
giảm thiểu những rủi ro kinh tế, chính trị của vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi khi
vượt khỏi sự kiểm sốt của chủ đầu tư nước ngồi. Những bất ổn chính trị, xã hội
khơng chỉ làm dịng vốn này bị chững lại, thu hẹp mà còn làm chảy ngược dòng vốn
từ trong nước ra bên ngồi, tìm đến nơi an tồn và hấp dẫn hơn.
- Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật đầu tư:
Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư,
bao gồm: các văn bản pháp luật, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư nhằm tạo nên
hành lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư nước sở tại phải đảm bảo sự an
toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ
không làm phương hại đến an ninh quốc gia (đảm bảo pháp lý đối với tài sản tư
nhân, môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước
của nhà đầu tư được dễ dàng). Nội dung của hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ,
chặt chẽ, không chồng chéo, phù hợp với luật pháp và thơng lệ quốc tế thì khẳng
hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài càng cao.


23


- Sự mềm dẻo, minh bạch, hấp dẫn của một hệ thống các chính sách đầu tư
nước ngồi:
Chính sách đầu tư nước ngồi bao gồm một hệ thống các chính sách, cơng cụ
và biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư
quốc tế của một quốc gia (bao gồm: đầu tư ra nước ngồi và thu hút đầu tư nước
ngồi). Những chính sách về đầu tư nước ngoài phù hợp theo nghĩa rộng thường
được xác định là những chính sách tốt nhất nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh
nội địa cạnh tranh và năng động. Những nguyên tắc về tính minh bạch, không phân
biệt đối xử là phương tiện để thu hút các cơng ty nước ngồi ảnh hưởng những lợi
ích từ sự hiện diện của chúng trên thị trường nội địa. Những chính sách kinh tế của
nước sở tại có khả năng làm tối đa hố lợi ích và tối thiểu hố chi phí cho các dự án
FDI triển khai đều có sức thuyết phục các nhà đầu tư nước ngồi bỏ vốn đầu tư. Các
chính sách đầu tư nước ngồi hấp dẫn của nước tiếp nhận chủ yếu gồm: chính sách
thương mại, tiền tệ, các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ, những ưu đãi về thuế.
- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là công cụ để thu hút FDI. Ngoại trừ các nhà đầu tư nước
ngoài chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hạ tầng còn sự phát triển của cơ sở hạ tầng
kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ
đầu tư có thể nhanh chóng thơng qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự
án đầu tư đã cam kết.
Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ ĐTNN, chính sách đất đai
và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đổ vào một quốc gia. Nếu chính sách đó tạo cho nhà đầu tư nước ngồi sự an tâm về
quyền sở hữu và quyền chủ động định đoạt sử dụng, mua bán đất và bất động sản
mà họ có được trong nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì
họ càng mở rộng “hầu bao” để đầu tư lớn và lâu dài hơn vào dự án ở nước tiếp nhận

đầu tư.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện để tăng sự hấp dẫn của
môi trường đầu tư mà còn là cơ hội để nước tiếp nhận đầu tư có thể và khả năng thu
lợi đầy đủ hơn từ dịng vốn đầu tư nước ngồi đã thu hút được (tăng thu nhập từ
hoạt động dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, bưu chính viễn thơng…)

24


×