Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Luận văn thạc sĩ xây dựng đảng-thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện ủy quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 141 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của chính đảng cách mạng
của giai cấp công nhân. Điều này đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa MácLênin khẳng định từ rất sớm. Vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định lấy nguyên tắc tập
trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trước yêu cầu phải phát huy và mở rộng dân chủ ngày càng rộng rãi mà
trước hết là phát huy và mở rộng dân chủ trong Đảng thì nguyên tắc tập trung
dân chủ lại có vị trí, vai trị càng quan trọng. Mọi hoạt động của Đảng hiện
nay đều đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó có cơng
tác cán bộ của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII (Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18 tháng 6 năm 1997) “Về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”
khẳng định, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các
tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Đảng đánh
giá “Ðã giữ vững và thực hiện quan điểm Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân
chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ
thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức” [13, tr.266], “Việc thực hiện
quy định về phân cấp quản lý cán bộ và quy chế bổ nhiệm cán bộ đã được các
cấp ủy, tổ chức Đảng thực hiện tương đối nghiêm túc theo hướng công khai,


2
minh bạch trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ” [18, tr.225]. Tuy nhiên,
Đảng cũng nhìn nhận vẫn cịn những mặt hạn chế là “Còn thiếu những quy


chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập
trung dân chủ” [13, tr.270];
… một số trường hợp bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử
chưa đúng người, đúng việc, cịn có biểu hiện cục bộ, nặng về thứ
tự, thâm niên, gò ép về cơ cấu, chưa bảo đảm chất lượng; … một số
mới được đề bạt, bổ nhiệm đã bộc lộ yếu kém cả về phẩm chất và
năng lực. … Một số nơi chưa phân định rõ trách nhiệm giữa tập thể
và cá nhân trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ; thiếu nhất quán khi
giải quyết mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu trong bổ nhiệm và
giới thiệu ứng cử, có khi quá phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của
người đứng đầu, nhưng có khi lại chủ yếu dựa vào phiếu tín nhiệm,
coi phiếu tín nhiệm như phiếu bầu, thiếu chính kiến của cơ quan, tổ
chức và người đứng đầu có thẩm quyền [18, tr. 225-227].
Thực tế những năm gần đây vấn đề “chạy chức” được đề cập đến khá
nhiều, trong kỳ họp lần thứ 6 Quốc hội khóa XII một số đại biểu cũng đã đưa
vấn đề này ra chất vấn. Theo nhiều ý kiến, một trong những nguyên nhân làm
cho nạn “chạy chức” còn tồn tại là do chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác cán bộ.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay các ban thường vụ huyện ủy đều
đã ban hành quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử. Trên cơ sở
đó đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ
và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện ủy quản
lý. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, có
trường hợp chưa đảm bảo dân chủ, nhưng cũng có trường hợp khơng bảo đảm
tập trung. Một số trường hợp giới thiệu cán bộ ứng cử chưa được sự thống
nhất cao trong cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Mặt trận và các đồn thể. Do đó


3
một số cán bộ sau khi được bầu giữ các chức vụ lãnh đạo quản lý không phát

huy được năng lực cơng tác, khơng hồn thành nhiệm vụ được giao, thậm chí
có trường hợp kết quả bầu cử khơng đúng theo ý kiến kết luận của ban thường
vụ huyện ủy. Tình trạng này đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín lãnh đạo của
Đảng bộ, hạn chế việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, năng lực quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, chất lượng
hoạt động của Mặt trận và các đồn thể trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, cần có sự nghiên cứu làm rõ
hơn cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm tìm ra những giải pháp để thực hiện tốt
hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức
danh diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay. Do đó tác giả chọn đề tài “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện
ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc
sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề cấp thiết,
phù hợp với nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng hiện nay và đáp ứng nhu cầu
thực tiễn của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, việc nghiên cứu về công tác cán bộ, về nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng nói chung, trong cơng tác
cán bộ nói riêng đã được thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể
đến một số nghiên cứu tiêu biểu như:
* Đề tài khoa học và sách:
- Đề tài khoa học cấp bộ năm 1999: Bảo đảm và phát huy dân chủ
trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, PGS, TS. Mạch Quang
Thắng làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Phú Trọng: Phải chăng nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi
thời ?, Nxb CTQG, Hà Nội, 1990.


4

- Đậu Thế Biểu: Vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của
V.I.Lênin, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990.
- TS. Nguyễn Tiến Phồn: Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và
thực tiễn, Nxb khoa học xã hội, Hà nội, 2001.
- PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên): Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- PGS, TS. Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt (đồng chủ biên):
Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008.
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
- Nguyễn Văn Biều: Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Luận án phó tiến sĩ khoa học
lịch sử, Hà Nội, 1994.
- Phạm Văn Thắng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng bộ Quân đội hiện nay. Luận án phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Quang Huy: Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ quận ủy Tây Hồ, Thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
- Đặng Tấn Công: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đánh
giá cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận quản lý
giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2008.
- Lê Văn Đủ: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ
nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang
quản lý giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2008.


5

- Trịnh Đình Châu: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc
bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý ở các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, Hà Nội, 2008.
Luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc
tập trung dân chủ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác
cán bộ của Đảng. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện ban thường vụ
huyện ủy quản lý ở các huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa, đề xuất một số
giải pháp khả thi để thực hiện tốt hơn vấn đề này trong thời gian tới.
- Nguyến Tiến Phong: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
giới thiệu cán bộ ứng cử diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc quản lý giai
đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2009.
Nội dung luận văn tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
đánh giá thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới
thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc
quản lý. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh
diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc quản lý giai đoạn hiện nay.
* Bài báo khoa học:
- Trần Trung Quang: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
điều kiện mới, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 – 1990.
- Phạm Văn Huỳnh: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng - nội
dung, những nhân tố tác động, khuyết điểm và kiến nghị, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 6 – 1990.
- Nguyễn Phú Trọng: Để đảm bảo dân chủ trong Đảng, Tạp chí Cộng
sản, số 11 – 1990.


6

- Nguyễn Văn Tốn: Lại bàn về tập trung dân chủ, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 4 – 1991.
- Nguyễn Thế Tư: Những biến dạng nguyên tắc tập trung dân chủ và
giải

pháp

khắc

phục,

website

Tạp

chí

xây

dựng

Đảng

(), 20/9/2006.
- Nguyễn Đức Hạt: Tiếp tục đổi mới cơng tác cán bộ, Tạp chí cộng
sản, số 776, tháng 6-2007 (trang 36-38).
- Bùi Đức Lại: Trách nhiệm người đứng đầu trong cơng tác cán bộ,
Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2007 (trang 36-38).
- Trần Minh Tuấn: Về thí điểm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ sau khi cán bộ
trình đề án, Tạp chí xây dựng Đảng, số 7, 2007 (trang 48-49).

- Nguyễn Thế Tư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ, Tạp chí
xây dựng Đảng, số 10, 2007 (trang 2-3).
- Hồ Đức Việt: Quán triệt sâu sắc, thực hiện đúng, thống nhất các quy
chế, quy định về cơng tác cán bộ, Tạp chí xây dựng Đảng, số 10, 2007 (trang 6-11).
- Nông Đức Mạnh: Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ công tác tổ
chức xây dựng Đảng, Tạp chí xây dựng Đảng, số 11, 2007 (trang 3-8).
- Hồ Thanh Khôi: Phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm lãnh
đạo trong việc bầu trực tiếp Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư, Tạp chí Sổ
tay xây dựng Đảng, số 5, 2009 (trang 29-31).
- Phạm Văn Hiểu: Suy nghĩ về nguyên tắc tập trung dân chủ trong bầu
cử, website Tạp chí xây dựng Đảng (),
16/3/2009.
- Nguyễn Quang Du: Kết hợp tập trung dân chủ với hiệp thương dân
chủ trong tổ chức Mặt trận cấp cơ sở như thế nào cho có hiệu quả?, Tạp chí
Cộng sản điện tử, số 15 (183), 2009.


7
- Phạm Việt Hải: Về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác cán bộ trong Quân đội, website Tạp chí xây dựng Đảng
(), 30/11/2009.
- Mạnh Hưng: Phương pháp lãnh đạo dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Tạp chí Tuyên giáo, số 1/2010 (trang 38-40)
- Mạch Quang Thắng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng
Đảng – Những vấn đề nhận thức thêm, website Cổng thông tin tư liệu về Chủ
tịch Hồ Chí Minh (), 03/01/2010.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề về
nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng, về công tác cán bộ và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình khoa

học nào nghiên cứu cụ thể về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện ủy quản lý
ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh
diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất
phương hướng và giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác này thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh.


8
+ Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện
ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, xác định nguyên
nhân của những kết quả đạt được và hạn chế, rút ra các kinh nghiệm thực tiễn.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường
vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ
huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu:

Khảo sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu
cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường vụ huyện ủy quản lý từ năm
2005 đến nay của 5 huyện ở thành phố Hồ Chí Minh; phương hướng và các
giải pháp đề xuất có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác cán bộ, về nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng nói chung và trong
cơng tác cán bộ nói riêng. Luận văn có kế thừa một số kết quả nghiên cứu của
các cơng trình nghiên cứu có liên quan đã cơng bố.


9
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; vận dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học: khảo sát thực tiễn, phân tích - tổng hợp, lơ gích lịch sử, quy nạp - diễn dịch, thống kê…
6. Đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh diện ban thường
vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi, góp phần vào việc đảm bảo
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu cán bộ ứng cử các
chức danh diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, cơ
quan làm công tác tổ chức cán bộ của Đảng và Nhà nước trong việc nâng cao
chất lượng công tác giới thiệu cán bộ ứng cử giai đoạn hiện nay. Kết quả
nghiên cứu của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên

cứu, học tập môn xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG GIỚI THIỆU CÁN BỘ ỨNG CỬ CÁC CHỨC DANH
DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY VÀ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG
VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Đảng bộ huyện và ban thường vụ huyện ủy ở thành phố Hồ
Chí Minh
1.1.1.1. Khái quát về các huyện và đảng bộ huyện ở thành phố Hồ
Chí Minh
- Khái quát về các huyện ở thành phố Hồ Chí Minh:
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong khu vực Đơng Nam Bộ, tiếp giáp
với vùng đồng bằng sơng Cửu Long; diện tích trải dài theo hướng Tây Bắc Đông Nam, từ tọa độ 10o22’33’’ đến 11o22’17’’ vĩ Bắc và từ 106o1’2’’ đến
107o1’10’’ kinh Đơng; phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây
Ninh , Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa
-Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang (Phụ lục 1).
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 2.095,01 km 2, dân số 7.165.398 người;
có 24 đơn vị hành chính cấp huyện (19 quận, 5 huyện), với 322 đơn vị hành
chính cấp xã (thuộc quận gọi là phường, thuộc huyện gọi là xã hoặc thị trấn)
(Phụ lục 2).

Các huyện ở thành phố Hồ Chí Minh nằm về phía Tây Bắc, Tây Nam
và Đông Nam của thành phố, tiếp giáp với các tỉnh: Tây Ninh, Bình Dương,
Long An, Tiền Giang, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu; là các vị trí cửa ngõ của
thành phố. Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh có 5 huyện là: Bình Chánh, Cần
Giờ, Củ Chi, Hóc Mơn, Nhà Bè. Trực thuộc 5 huyện có 58 xã và 5 thị trấn


11
(mỗi huyện có 1 thị trấn), với tổng diện tích là 1.601 km 2, chiếm 76,42% diện
tích tồn thành phố và dân số là 1.281.197 người, chiếm 17,88% dân số tồn
thành phố (Phụ lục 2).
Về giao thơng đường bộ, trừ huyện Cần Giờ nằm tách biệt với 4 bề là
sông và biển, các huyện cịn lại đều có những tuyến đường bộ quan trọng đi
qua, nối thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh lân cận trong vùng: Quốc lộ 1 đi
qua huyện Hóc Mơn và Bình Chánh để về các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long; đường Xuyên Á (Quốc lộ 22) đi qua huyện Hóc Mơn và Củ Chi đến
tỉnh Tây Ninh và đi tiếp sang Campuchia; Quốc lộ 50 đi qua huyện Bình
Chánh về Long An để đi tiếp xuống Tiền Giang; đường cao tốc Sài GònTrung Lương qua Bình Chánh xuống Long An đến Tiền Giang.
Về giao thơng đường thủy, các huyện đều có hệ thống sơng rạch dày
đặc, nên giao thơng đường thủy cũng có vai trị quan trọng trong mạng lưới
giao thơng chung của thành phố.
Đầu những năm 1990, các huyện ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn là
vùng nơng thơn, kinh tế chủ lực là nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng,
đánh bắt thủy sản. Nhưng từ cuối những năm 1990 đến nay, tốc độ đơ thị hóa
đã diễn ra rất nhanh ở các huyện Nhà Bè, Hóc Mơn, Bình Chánh, Củ Chi, cơ
cấu kinh tế của các huyện đã chuyển dần theo hướng ngành công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày càng giữ vai trò chủ lực. Do tốc
độ đơ thị hóa nhanh, vào tháng 4/1997 huyện Nhà Bè tách ra 5 xã để thành lập
quận mới (Quận 7), huyện Hóc Mơn tách ra 7 xã để thành lập quận mới
(Quận 12); đến tháng 12/2003 huyện Bình Chánh tách ra 3 xã và 1 thị trấn để

thành lập quận mới (quận Bình Tân). Hiện nay các huyện ở thành phố Hồ Chí
Minh kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng chung của các
ngành kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2005 – 2010 đạt khá cao: Nhà Bè
26,67%, Bình Chánh 21,03%, Củ Chi 20,26%, Hóc Mơn 17,8%, Cần Giờ
12%. Các ngành cơng nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày
càng giữ vị trí chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu ngành kinh tế
(Phụ lục 3).


12
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các huyện ở thành
phố Hồ Chí Minh là những vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Do vị trí
địa lý của các huyện nằm trên các cửa ngõ, nối thành phố với các tỉnh lân cận
trong vùng, nên trong kháng chiến đây là những vùng căn cứ cách mạng hoặc
là nơi các cánh quân chủ lực tập kết lực lượng, vũ khí, lương thực làm bàn
đạp để tấn cơng vào nội thành Sài Gòn. Địch đã tập trung đánh phá những
vùng này vơ cùng ác liệt hịng xóa bỏ các căn cứ cách mạng và ngăn chặn các
mũi tấn công của cách mạng vào nội đô. Mặc dù vậy, quân và dân các huyện
vẫn một lòng theo cách mạng, kiên quyết bám trụ đánh địch bảo vệ cách
mạng. Nhiều địa danh ở các huyện đã đi vào lịch sử của hai cuộc kháng chiến
chống xâm lược như: Mười tám thôn vườn trầu (Hóc Mơn), Vườn Thơm – Bà
vụ, Láng Le – Bàu Cị (Bình Chánh), Địa đạo Củ Chi (Củ Chi), Rừng Sác
(Cần Giờ) . . .
Với những đóng góp to lớn cho cách mạng, sau ngày thống nhất đất
nước cả 5 huyện của thành phố Hồ Chí Minh đều được Đảng và Nhà nước
tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay,
đảng bộ và nhân dân các huyện đã tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng
cách mạng, nổ lực phấn đấu xây dựng huyện nhà không ngừng phát triển trên
mọi lĩnh vực.

Những năm tới, mục tiêu tổng quát của các huyện ở thành phố Hồ Chí
Minh là phát huy truyền thống cách mạng, tập trung xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh, mở rộng dân chủ; huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát
triển; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; giữ vững tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề an
sinh xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Khái quát về các đảng bộ huyện ở thành phố Hồ Chí Minh:
Sau ngày đất nước hồn tồn được giải phóng, các đảng bộ huyện ở
thành phố Hồ Chí Minh được củng cố về mặt tổ chức. Năm 1977 các đảng bộ
huyện tổ chức đại hội đại biểu lần thứ nhất, cho đến nay đã trải qua 10 kỳ đại


13
hội (đại hội lần thứ X là nhiệm kỳ 2010 – 2015). Những năm qua, các đảng bộ
huyện đã có sự phát triển hết sức nhanh chóng về số tổ chức cơ sở đảng và
đội ngũ đảng viên. Hiện nay 5 đảng bộ huyện có 295 tổ chức cơ sở đảng trực
thuộc, gồm 207 chi bộ cơ sở và 88 đảng bộ cơ sở với 1.004 chi bộ trực thuộc
đảng bộ cơ sở (Phụ lục 4).
1.1.1.2. Vị trí, vai trị, đặc điểm, trách nhiệm, quyền hạn của các
ban thường vụ huyện ủy ở thành phố Hồ Chí Minh
* Vị trí, vai trò, đặc điểm của các ban thường vụ huyện ủy:
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định “Cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là
đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đai hội, cơ quan lãnh đạo
của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ,
chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)” [14, tr. 17]. “Đại hội thảo luận văn kiện của cấp ủy
cấp trên; đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định
nhiệm vụ nhiệm kỳ tới; bầu cấp ủy” [14, tr. 31]. “Cấp ủy tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy), cấp ủy huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy) lãnh

đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên”
[14, tr. 32].
Điều lệ Đảng cũng quy định:
1. Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy bầu
ban thường vụ . . .
2. Số lượng ủy viên ban thường vụ . . . do cấp ủy quyết định
theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị
quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp
và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ;
quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy
[14, tr. 33 - 34].


14
Như vậy ở cấp huyện, đại hội đại biểu đảng bộ huyện bầu ra ban chấp
hành đảng bộ huyện (huyện ủy); hội nghị huyện ủy bầu ra ban thường vụ
huyện ủy. Ban thường vụ huyện ủy lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị
quyết của đại hội đại biểu đảng bộ huyện, nghị quyết, chỉ thị của huyện ủy và
thành ủy; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định
triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của huyện ủy.
Thực trạng của các ban thường vụ huyện ủy ở thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay như sau:
- Về số lượng:
Sau Đại hội lần thứ X (nhiệm kỳ 2010 – 2015), các huyện ủy đã bầu
60 đồng chí vào các ban thường vụ huyện ủy (huyện Bình Chánh và huyện
Nhà Bè mỗi huyện bầu thiếu 1 ủy viên so với số lượng cần bầu). Trong đó ủy
viên là nữ có 11 đồng chí (chiếm 18,3%).
- Về độ tuổi:
+ Dưới 40 tuổi: 4 đồng chí (chiếm 6,7%)

+ Từ 40 đến 50 tuổi:
+ Trên 50 tuổi:

38 đồng chí (chiếm 63,3%)

18 đồng chí (chiếm 30,0%)

- Về trình độ chun mơn:
+ Trung cấp, cao đẳng: 2 đồng chí (chiếm 3,4%)
+ Đại học: 50 đồng chí (chiếm 83,3%)
+ Thạc sĩ: 8 đồng chí (chiếm 13,3%)
- Về trình độ lý luận chính trị:
+ Trung cấp:

2 đồng chí (chiếm 3,3%)

+ Cao cấp, cử nhân:

58 đồng chí (chiếm 86,7%) (Phụ lục 5).

* Trách nhiệm, quyền hạn của các ban thường vụ huyện ủy:
Quy chế làm việc của các huyện ủy và ban thường vụ huyện ủy quy
định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của huyện ủy và ban thường vụ huyện ủy;
trong đó xác định ban thường vụ huyện ủy là cơ quan thay mặt huyện ủy để
lãnh đạo, chỉ đạo mọi công tác của đảng bộ huyện giữa hai kỳ hội nghị huyện


15
ủy. Khái quát gồm một số trách nhiệm và quyền hạn như sau:
- Cụ thể hóa và xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện các nghị quyết,

chỉ thị của Trung ương, thành ủy và các nghị quyết của huyện ủy; quyết định
các biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết và báo cáo
với huyện ủy trong kỳ họp gần nhất.
- Triệu tập và tổ chức tốt các hội nghị của huyện ủy, báo cáo với
huyện ủy tình hình hoạt động của các lĩnh vực và tình hình xử lý, giải quyết
các cơng việc.
- Tổ chức chỉ đạo, điều hành, phối hợp hoạt động giữa các tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận và các đồn thể về các mặt công tác trên địa bàn
huyện. Chỉ đạo kiểm tra việc thi hành các nghị quyết của Trung ương, thành
ủy và huyện ủy. Tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc tổ chức thực
hiện những công tác quan trọng.
- Xây dựng kế hoạch quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và thực
hiện chính sách cán bộ phù hợp tình hình thực tế. Quyết định việc bố trí, đề
bạt, khen thưởng, thi hành kỷ luật, giải quyết nghỉ hưu đối với cán bộ, đảng
viên diện huyện ủy quản lý; quyết định việc thành lập mới, sát nhập hoặc giải
thể các tổ chức đảng, các đơn vị thuộc thẩm quyền của huyện ủy; quyết định
phân công cơng tác các đồng chí ủy viên ban thường vụ, huyện ủy viên (trừ
các chức danh thuộc quyền phân công của Ban Thường vụ Thành ủy).
- Quyết định quy chế làm việc của Văn phòng huyện ủy, các ban của
huyện ủy (trừ Ủy ban kiểm tra huyện ủy).
1.1.2. Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố
Hồ Chí Minh – quan niệm, vị trí, vai trị, đặc điểm
1.1.2.1. Quan niệm cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở
thành phố Hồ Chí Minh
+ Cán bộ:
Theo Từ điển Tiếng Việt do Vĩnh Tịnh chủ biên: “cán bộ dt. 1. Người


16
làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước: Cán bộ nhà

nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị. 2. Người làm cơng tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có chức
vụ.” [63, tr. 134].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (Viết
năm 1947) xác định “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng” [48, tr. 269].
Trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, từ “cán bộ”
được sử dụng để chỉ người nắm giữ một chức trách, nhiệm vụ nào đó trong
các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở các cấp. Điều 4, Chương I Luật cán bộ,
công chức do Quốc hội nước ta ban hành năm 2008 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước [54, tr. 2].
Như vậy có hai cách hiểu:
- Thứ nhất, cán bộ là những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa
phương cơ sở.
- Thứ hai, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay
một tổ chức để phân biệt với người khơng có chức vụ (như cán bộ với chiến
sĩ, cán bộ với công nhân nhà máy, cán bộ với đồn viên thanh niên).
Trong cơng tác cán bộ, cán bộ được hiểu theo cách thứ hai, tức là



17
những người có chức vụ trong một cơ quan hay một tổ chức thuộc hệ thống
chính trị ở các cấp, phân biệt với người khơng có chức vụ.
+ Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí
Minh
Trong tập bài giảng nghiệp vụ cơng tác tổ chức do Ban Tổ chức Trung
ương biên soạn có định nghĩa:
Quản lý cán bộ là hoạt động chủ động, thường xun, có
mục đích của cơ quan quản lý cán bộ, cấp có thẩm quyền quyết
định, tác động có định hướng vào đội ngũ cán bộ và từng cán bộ
nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ
và từng cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao [3, tr. 97].
Theo Quy định về phân cấp quản lý cán bộ, ban hành kèm theo Quyết
định số 705-QĐ/TU ngày 24/3/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy thành phố
Hồ Chí Minh, quy định quản lý cán bộ bao gồm những nội dung chính sau:
1- Tuyển chọn, bố trí, phân cơng, điều động và ln chuyển
cán bộ, phân cấp quản lý cán bộ.
2- Đánh giá cán bộ.
3- Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
4- Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
5- Khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
6- Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
7- Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại,
tố cáo về cán bộ [59, tr. 2].
Khi nói đến cán bộ diện thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay, tức là nói đến những người giữ các chức vụ cao trong hệ
thống chính trị của huyện, có vai trị, trách nhiệm lớn. Do đó, ban thường vụ
huyện ủy hoặc trực tiếp quyết định đề cử, đề bạt, thuyên chuyển công tác,
thực hiện các chính sách khác, kể cả quyết định thi hành kỷ luật (trong diện
thuộc thẩm quyền thi hành kỷ luật), hoặc đề nghị ra ứng cử, đề nghị đề bạt



18
vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống tổ chức của chính quyền,
đồn thể phù hợp với chế độ bổ nhiệm hay bầu cử của từng cơ quan, đơn vị.
Với những quan niệm và quy định như trên, có thể hiểu rằng: Cán bộ
diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh là những cán
bộ giữ các chức vụ cao, có vai trò, trách nhiệm lớn trong các cơ quan, tổ
chức thuộc hệ thống tổ chức của Đảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đồn thể chính trị - xã hội ở cấp huyện và cơ sở, do ban thường vụ
huyện ủy quyết định hoặc tham gia ý kiến trong việc tuyển chọn, bố trí, điều
động, luân chuyển, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, thi hành kỷ luật và thực hiện các chính sách chế độ.
- Các chức danh cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành
phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ Quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Ban Thường vụ
Thành ủy, các ban thường vụ huyện ủy ở thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành
quy định về phân cấp quản lý cán bộ ở cấp mình. Theo các quy định nói trên,
cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay bao gồm những cán bộ đương nhiệm hoặc đã được quy hoạch các chức
danh cán bộ sau đây:
+ Các chức danh cán bộ ban thường vụ huyện ủy trực tiếp quản lý:
Ủy viên ban thường vụ huyện ủy (trừ bí thư, phó bí thư huyện ủy, chủ
tịch ủy ban nhân dân huyện), phó chủ tịch ủy ban nhân dân huyện; ủy viên
ban chấp hành đảng bộ huyện; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, ủy viên ủy ban
kiểm tra huyện ủy; trưởng, phó trưởng các ban thuộc huyện ủy (Tổ chức,
Tuyên giáo, Dân vận); chánh văn phòng, phó chánh văn phịng huyện ủy;
giám đốc, phó giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện; bí thư, phó bí
thư, ủy viên ban thường vụ đảng ủy cơ sở; bí thư, phó bí thư chi bộ cơ sở trực
thuộc huyện ủy; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ

tịch ủy ban nhân dân xã, thị trấn; bí thư, phó bí thư đồn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh huyện; chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, hội


19
Liên hiệp Phụ nữ, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh, hội Chữ thập đỏ, Liên
đoàn Lao động huyện; chánh văn phịng, phó chánh văn phịng ủy ban nhân
dân huyện; trưởng, phó các phịng, ban thuộc ủy ban nhân dân huyện; chánh
thanh tra, phó chánh thanh tra huyện; chánh thanh tra, phó chánh thanh tra
xây dựng huyện; giám đốc, phó giám đốc các trung tâm, các đơn vị sự nghiệp,
các doanh nghiệp trực thuộc huyện;
+ Các chức danh cán bộ ban thường vụ huyện ủy phối hợp với ngành
dọc quản lý:
Trưởng, phó Cơng an huyện; trưởng, phó ban chỉ huy Quân sự huyện;
cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị theo ngành dọc công tác và sinh hoạt
đảng tại huyện: Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Thi hành án dân
sự, Bảo hiểm xã hội, Chi Cục thuế, Quản lý thị trường, Kho bạc nhà nước;
hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường trung học phổ thơng trên địa bàn
huyện.
1.1.2.2. Vị trí, vai trị của cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý
Từ rất sớm C.Mác và Ăng-ghen đã chỉ rõ vai trò quan trọng của cán
bộ, các ông khẳng định “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” [45, tr. 181], tức là phải có đội ngũ cán bộ hoạt
động thực tiễn để biến tư tưởng thành hiện thực.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, từ tổng kết thực tiễn,
V.I. Lênin càng khẳng định về vai trò quan trọng của cán bộ. V.I. Lênin cho
rằng muốn lật đổ được chế độ Nga hồng và giành chính quyền phải có một
đội ngũ “cán bộ chuyên nghiệp” và khảng định “Trong lịch sử, chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong

có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. [37, tr. 473]
Đến khi đã giành được chính quyền, trong điều kiện đảng cầm quyền,
lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin xác định: “Nghiên cứu con


20
người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu khơng thế
thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [41, tr. 449].
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã chỉ rõ vai trò quan
trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng, Người cho rằng “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc” [48, tr. 269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém” [48, tr. 273].
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vị trí, vai trị của cán bộ, Đảng ta luôn xác định ở mỗi giai đoạn, mỗi
thời kỳ cách mạng đều cần có một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và tài năng
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [9, tr. 66].
Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là những người nắm giữ
những vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp huyện và trong
bộ máy Đảng, chính quyền ở xã, thị trấn. Do đó đội ngũ cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý có vai trị hết sức quan trọng trong việc lãnh đạo,
tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của địa phương ở
cấp huyện và cơ sở. Vai trò quan trọng của cán bộ diện ban thường vụ huyện
ủy quản lý thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là những người
trực tiếp quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tại cơ sở; biến những chủ trương, chính

sách đó thành hiện thực và cung cấp những cơ sở thực tiễn để Đảng, Nhà
nước xây dựng, điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho dù có đúng
đắn đến đâu đi nữa thì hiệu quả của nó cũng phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất,
năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các phòng ban, đơn vị ở huyện và các


21
xã, thị trấn trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách đó ở cơ sở. Đồng thời đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản
lý công tác ở cơ sở là lực lượng lãnh đạo, tổ chức tuyên truyền, vận động
quần chúng, nhân dân tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, biến nó thành hiện thực trong đời sống xã hội. Mặt khác,
đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý còn có vai trị quan trọng
trong việc tổng kết thực tiễn, phản ánh những vấn đề thực tiễn từ cơ sở để góp
phần hồn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là những người
trực tiếp tham gia xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển
kinh tế, văn hóa – xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh của huyện và xã, thị
trấn. Đồng thời cũng là người lãnh đạo, triển khai, quán triệt, tổ chức thực
hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đó.
Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý bao gồm những đồng chí
huyện ủy viên; trưởng, phó các phịng-ban, cơ quan đơn vị cấp huyện; bí thư,
phó bí thư các đảng bộ, chi bộ cơ sở; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân xã thị trấn nên là những người trực tiếp tham gia thảo
luận, xây dựng các nghị quyết của huyện ủy; các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phịng – an ninh của huyện và cơ sở. Sau
khi nghị quyết, chương trình, kế hoạch đã ban hành, họ là những người trực
tiếp triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện ở cơ quan, đơn vị, địa phương
mình phụ trách; vận động quần chúng, nhân dân hưởng ứng tham gia thực

hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng đã đề ra trong các
nghị quyết, chương trình, kế hoạch đó.
Thứ ba, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý giữ vai trị chủ
yếu trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở huyện và cơ sở vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý hầu hết là người đứng
đầu, cấp phó của người đứng đầu của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
chính trị cấp huyện và cơ sở. Do đó là người trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc


22
xây dựng chương trình, kế hoạch, đề ra các phương hướng nhiệm vụ và giải
pháp để củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy; nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên vững mạnh cả về số lượng và chất lượng; phân
công, đôn đốc, kiểm tra hoạt động của cán bộ, đảng viên để đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, đây là lực lượng giữ vai trị quyết định
trong việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thứ tư, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý có vai trị quan
trọng trong việc xây dựng, giữ gìn sự đồn kết, thống nhất nội bộ và mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Với vị trí là người lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý giữ vai trò là hạt nhân tạo sự đoàn kết nội bộ,
trên cơ sở phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, và tình thương yêu
đồng chí. Đây cũng là những cán bộ thường xuyên làm việc, tiếp xúc với
quần chúng, nhân dân; là người đầu tiên có trách nhiệm giải quyết những bức
xúc của quần chúng, nhân dân; có trách nhiệm chăm lo, bảo vệ, đáp ứng
những lợi ích chính đáng của quần chúng, nhân dân ở cơ quan, đơn vị, địa
phương. Nếu làm tốt vai trị này sẽ tạo được sự đồn kết thống nhất cao trong
nôi bộ; củng cố và tạo được niềm tin rất lớn của quần chúng, nhân dân vào

chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; xây dựng và củng cố được mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Thứ năm, cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là nguồn quan
trọng để bổ sung vào các chức danh diện ban thường vụ thành ủy quản lý
cơng tác ở huyện (bí thư, phó bí thư huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện) và
cung cấp nguồn cán bộ cho các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan,
ban, ngành cấp thành phố.
Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý hầu hết đều được đào tạo
về chuyên môn nghiệp vụ từ đại học trở lên, lý luận chính trị đa số là cao cấp,
cử nhân; đã hoặc đang công tác ở cấp cơ sở. Đây là những người vừa có kiến
thức, năng lực chun mơn tốt, vừa có kinh nghiệm thực tiễn qua công tác ở


23
cơ sở, do đó có đầy đủ tiêu chuẩn, năng lực và phẩm chất để bố trí giữ các
chức vụ diện ban thường vụ thành ủy quản lý hoặc các chức danh lãnh đạo,
quản lý ở các cơ quan cấp thành phố. Hiện nay một số người trong đội ngũ
cán bộ này đã được quy hoạch dự bị các chức danh diện Ban Thường vụ
Thành ủy quản lý.
1.1.2.3. Đặc điểm của cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý
- Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí
Minh có nguồn gốc sinh trưởng, thành phần xuất thân, q trình cơng tác và
trưởng thành phong phú, đa dạng. Đa số sinh ra, lớn lên tại địa phương là
những vùng đất giàu truyền thống cách mạng; xuất thân từ những gia đình
nơng dân, cơng nhân yêu nước có nhiều đóng góp cho cách mạng trong hai
cuộc kháng chiến cứu nước; bản thân khi trưởng thành sớm giác ngộ lý tưởng
cách mạng, tham gia cách mạng từ sau tháng 4/1975 đến nay, có q trình
cơng tác và trưởng thành khá đa dạng, phong phú.
Phần lớn những cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý hiện nay
là những người bắt đầu tham gia công tác của chính quyền và mặt trận - đồn

thể ở xã, ấp sau đó từng bước trưởng thành, có nhiều thành tích nổi bậc trong
cơng tác, đồng thời tích cực học tập nâng cao trình độ về lý luận chính trị lẫn
chun mơn nghiệp vụ, có chiều hướng phát triển tốt nên được đề bạt giữ các
chức vụ chủ chốt ở xã, thị trấn hoặc được điều động để bố trí giữ các chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận – đồn thể
cấp huyện. Trong đó có một bộ phận khá lớn đã từng tham gia chiến tranh bảo
vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc tham gia thanh niên xung phong, sau
đó về lại địa phương tham gia cơng tác.
Một bộ phận khác là con em của địa phương, đi học và tốt nghiệp đại
học, cao đẳng về lại địa phương được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ
quan, đơn vị cấp huyện. Sau một thời gian công tác, nếu có kết quả cơng tác
tốt, có chiều hướng phát triển sẽ được quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ
huyện ủy quản lý, được cử đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị rồi luân
chuyển về xã, thị trấn bố trí giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý để rèn luyện,


24
thử thách về năng lực lãnh đạo, quản lý và bồi dưỡng về kinh nghiệm thực
tiễn. Đa số những cán bộ này sau đó đều trưởng thành rất tốt, được đề bạt, bố
trí giữ các chức vụ cao hơn ở xã thị trấn hoặc điều động, bố trí, bổ nhiệm giữ
các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị cấp huyện.
Một bộ phận không lớn lắm là những người đã từng tham gia kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, sau ngày giải phóng về lại địa phương tham gia
công tác cho đến nay. Hiện nay hầu hết cán bộ này đã sắp đến tuổi nghỉ hưu.
Ngoài ra có một bộ phận nhỏ là các cán bộ do Thành phố điều động,
luân chuyển về các huyện công tác. Đa số cán bộ này là nguồn quy hoạch cán
bộ diện ban thường vụ Thành ủy quản lý.
- Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí
Minh là những người năng động, sáng tạo, có trình độ chun mơn, nghiệp
vụ và lý luận chính trị vững vàng, có hiểu biết về chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có kinh nghiệm thực tiễn phong
phú. Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh
đa số sinh ra và lớn lên ở thành phố Hồ Chí Minh, được kế thừa truyền thống
năng động, sáng tạo của địa phương trong chiến đấu và lao động xây dựng đất
nước, do đó là những người rất năng động, sáng tạo, tích cực học tập, rèn
luyện để nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt. Hiện nay trừ một số cán bộ
lớn tuổi, không đủ khả năng học tập nâng cao trình độ nhưng có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn, đang nắm giữ các chức vụ lãnh đạo của mặt trận – đồn thể,
cịn lại đa số cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí
Minh đều có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học về chuyên môn nghiệp
vụ và trình độ cử nhân, cao cấp về lý luận chính trị.
Hầu hết cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có thời gian tham gia cơng tác trong các cơ quan
Đảng, đoàn thể, bộ máy nhà nước nhiều năm nên có hiểu biết về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đều đã có
thời gian cơng tác ở cấp cơ sở nên có nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong phú.


25
Vì vậy có thể nói cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay là những người có đầy đủ năng lực, trình độ để
hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao, giữ vai trò quan
trọng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đưa
các huyện phát triển nhanh và bền vững trên mọi lĩnh vực.
- Một bộ phận khá lớn cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay kiêm nhiệm cơng tác đảng cùng với công
tác quản lý nhà nước hoặc công tác chun mơn, nghiệp vụ. Thực hiện chủ
trương thí điểm nhất thể hóa hai chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X,
hiện nay cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý có khá nhiều đồng chí

vừa giữ chức vụ trưởng, phó của cơ quan, tổ chức, đơn vị đồng thời là bí thư
cấp ủy của cơ quan, đơn vị; một số đồng chí là bí thư đảng ủy đồng thời là
chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thị trấn. Với những trường hợp này, sự thống
nhất lãnh đạo của cấp ủy đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, đơn vị, địa phương luôn được đảm bảo; việc triển khai, tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của
huyện ủy gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa
phương có nhiều thuận lợi.
Tuy nhiên việc kiêm nhiệm hai chức danh cán bộ như trên cũng có
những hạn chế nhất định. Đó là, nếu trình độ, năng lực của cán bộ không đảm
bảo hoặc do phân bổ thời gian cho từng nhiệm vụ khơng hợp lý thì hiệu quả
công tác của cán bộ sẽ không cao. Thực tế thời gian qua cho thấy có một số
đồng chí được phân công kiêm nhiệm, thường chỉ tập trung vào công tác
chuyên môn, nghiệp vụ, công tác quản lý mà thiếu đầu tư, quan tâm đúng
mức cho công tác đảng, dẫn đến chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
ở cơ quan, đơn vị đó bị hạn chế rất nhiều.
- Cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở thành phố Hồ Chí
Minh hoạt động trên địa bàn ven đơ, đang đơ thị hóa rất nhanh, tốc độ phát


×