Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn thạc sĩ xây dựng đảng-liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức ở tỉnh thanh hoá hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.31 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, liên minh giữa giai
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức là động lực cách mạng to
lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì đây không chỉ là biện phap tăng
cường lực lượng cách mạng, đảm bảo quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân với
toàn xã hội, mà cũng là điều kiện để mỗi lực lượng trong khối liên minh thực
hiện được những lợi ích của mình, qua đó góp phần có ý nghĩa quyết định vào sự
nghiệp cách mạng chung của dân tộsc.
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo quan điểm mác xít về liên minh giai cấp vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam,
đồng thời thường xuyên đổi mới, củng cố khối liên minh với những nội dung,
hình thức và phương pháp cho phù hợp với thực tiễn vận động của cách mạng
nước ta.
Nhận thức đúng vai trò của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế, Đại hội lần thứ XI Đảng ta khẳng định: “ Khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng
và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” [tr. 158]
Song, hiện nay q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang diễn
ra trong bối cảnh phức tạp, bên cạnh những thuận lợi chúng ta gặp khơng ít khó
khăn, thách thức. Điều đó đang tác động mạnh mẽ và làm ảnh hưởng đến tính
bền vững của khối liên minh.
Thanh hố là tỉnh nằm ở cực Bắc Miền Trung, diện tích tự nhiên tồn tỉnh là
11.106 km2, chiếm 3,37% diện tích cả nước. Thanh Hoá bao gồm cả 4 vùng đồng
1


bằng, trung du, miền núi và miền biển, đó là điều kiện tự nhiên thuận lợi. Những


năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,
Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc trong tỉnh Thanh Hố đã đồn
kết thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - chính trị xã hội. Các chủ trương,
chính sách đã tạo điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, góp
phần củng cố khối liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức trên địa bàn
tỉnh, điển hình như: Cơng ty cổ phần Mía đường Lam Sơn, chìa khố thành cơng
của cơng ty đó chính là dựa trên khối liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí
thức vững chắc. Công ty thường xuyên cộng tác với Viện KHKT nông nghiệp
Việt Nam, Trường Đại học Nông nghiệp I, Trung tâm nghiên cứu mía Bến Cát để
“cập nhật” kỹ thuật và giống mía mới; phối hợp với Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội để cập nhật công nghệ chế biến đường; phối hợp với Đại học Thương
mại, Học viện Tài chính để nghiên cứu thị trường, đào tạo cán bộ quản lý cho
công ty, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp trong sản
xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm, bảo đảm lợi ích của nông dân và doanh
nghiệp, giải quyết việc làm…
Tuy nhiên, cùng với cả nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, mối quan hệ giữa các lực lượng trong khối liên minh cũng đã nảy sinh
những mâu thuẫn. Chẳng hạn, tình trạng người nông dân mất đất sản xuất; hiện
tượng phá vỡ hay lạm dụng hợp đồng, thiếu gắn kết trong hợp tác kinh tế; sự
chênh lệch trong hưởng thụ phúc lợi xã hội; sự thiếu công bằng trong việc tiếp
cận sử dụng tư liệu sản xuất, nhất là sự chênh lệch giá cả hàng hố cơng nghiệp,
dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng lớn đã và đang tác động đến mối liên kết
trong chính nội bộ khối liên minh…Vì vậy, việc tăng cường củng cố liên minh
giữa công nhân, nơng dân và trí thức, tạo động lực thực hiện thắng lợi những
mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà Đảng bộ tỉnh đề ra là vấn đề cấp thiết hiện
2


nay cần được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thanh Hố. Với ý nghĩa đó, tơi chọn

đề tài: “Liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh Thanh Hoá
hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa
học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thực tế cho thấy, trong các công trình nghiên cứu, các luận văn và các bài
viết trong những năm qua, nhiều nhà khoa học đã thường xuyên quan tâm bàn
đến vấn đề liên minh giai cấp trong cách mạng, tiêu biểu là các cơng trình sau :
- Đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường liên minh cơng nhân nơng dân - trí thức trong thời kỳ mới ở nước ta" (1992) do tiến sĩ Vũ Đình Hịe
chủ biên, trong đó, các tác giả đề cập đến thực trạng của liên minh và đề suất bốn
giải pháp xây dựng liên minh công nhân - nơng dân - trí thức trong tình hình
mới.
- Đề tài: "Một số điều kiện để tăng cường khối liên minh công nông trong
cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa" (1993- 1994),
TS Dương Văn Duyên chủ biên. Các tác giả bước đầu nghiên cứu với quan điểm
đổi mới quá trình xây dựng khối liên minh cơng nơng ở nước ta, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm; nghiên cứu sự thay đổi cơ cấu kinh tế -xã hội giai
cấp, sự phân hóa giàu nghèo của công nhân và nông dân do tác động của cơ chế
thị trường; nghiên cứu những điều kiện cần thiết nhằm tăng cường khối liên
minh công nông trong giai đoạn hiện nay.
- “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh cơng - nơng - trí thức”, Tạp chí
Nghiên cứu số 2 - 1993, của tác giả PTS. Đỗ Khánh Tặng, Ban Tư tưởng - Văn
hoá Trung ương. Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề liên minh
cơng, nơng, trí thức vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; làm rõ vai trị của cơng

3


nơng, trí thức trong khối liên minh, khẳng định tư tưởng của Người về vấn đề đoàn
kết trong khối liên minh là nhân tố quan trọng vượt qua mọi khó khăn trở ngại.

- “Các nhà kinh điển Mác - Lênin bàn về liên minh cơng - nơng - trí thức”,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 7 - 1998 của tác giả Lê Khắc Thành. Trong bài
viết này, tác giả đã tập trung khai thác di sản kinh điển tư tưởng của C. Mác, Ph.
Ănghen và V.I. Lênin về vấn đề liên minh và khẳng định đây là nội dung cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin và là vấn đề có tính quy luật của cách mạng vơ sản và
xây dựng XHCN; nêu lên một số nguyên tắc cơ bản của liên minh giai cấp công
nhân với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động trong tư tưởng các nhà
kinh điển mác - xít.
- “Về sự liên minh cơng - nơng - trí thức trong kinh tế thị trường” Tạp chí
Cộng sản số 3, năm 1998 của tác giả Đan Tâm. Trong bài viết này, tác giả đã
luận giải sự tất yếu và khả năng thực hiện liên minh cơng - nơng - trí thức trong
nền kinh tế thị trường trên ba lĩnh vực cơ bản; chính trị, kinh tế, văn hố xã hội.
Trên cơ sở đó, để tăng cường củng cố khối liên minh trong nền kinh tế thị
trường, theo tác giả giai cấp công nhân cần phải có sức mạnh kinh tế, xây dựng
tổ chức vững mạnh.
- Đề tài: "Những căn cứ lý luận và thực tiễn cấp thiết để thực hiện tốt liên
minh công nơng trí thức ở nước ta hiện nay" (2000), PGS,TS Nguyễn Đức Bách
chủ biên, trong đó nêu lên những căn cứ lý luận và thực tiễn chủ yếu và cấp thiết
của "Liên minh cơng nơng trí thức" theo tinh thần đổi mới ở nước ta hiện nay,
qua khảo sát một số tỉnh ở đồng Bằng Bắc Bộ và một số ngành, cơ quan cơng
nghiệp. Từ đó, đề tài đã khái quát những thành quả và hạn chế, sai sót trong việc
thực hiện liên minh ở nước ta từ khi đổi mới. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất giải
pháp khá tồn diện nhằm thực hiện có kết quả cao và vững chắc hơn liên minh
cơng, nơng, trí thức ở nước ta hiện nay.

4


- “ Tăng cường khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới ”, Tạp chí Lý luận chính trị số 2- 2002

của tác giả TS Nguyễn Quang Du, Trung tâm Công tác lý luận Uỷ ban Trung
ương MTTQ Việt Nam. Trong bài viết này, trên cơ sở đánh giá những thành tựu
đạt được trong quá trình thực hiện 15 năm đổi mới ở nước ta, tác giả đã khẳng
định vị trí, vai trị của liên minh cơng nhân với nơng dân và đội ngũ trí thức trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những vấn đề đặt ra trong liên minh sau
15 năm đổi mới, nguyên nhân hạn chế. Từ đó, tác giả đưa ra năm giải pháp nhằm
tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí
thức ở nước ta.
- Luận án tiến sĩ “Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam - cái phổ biến và cái đặc thù” (2003) của tác giả Trương Quang
Khải, trong đó tác giả đã khái quát các quan điểm chủ yếu của C.Mác,
Ph.Ănghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về liên minh giai cấp, chỉ rõ tính phổ biến
của liên minh giai cấp. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến liên minh giai
cấp ở Việt Nam, nêu lên những nét đặc thù của liên minh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường khối liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt
Nam.
- “Hoạt động khuyến nơng Việt Nam. Ý nghĩa chính trị - xã hội”, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2006 do PGS, TS. Phan Thanh Khôi (chủ biên).
Tác giả đã tiếp cận vấn đề liên minh giữa giai cấp cơng nhân với nơng dân
và trí thức qua việc nghiên cứu hoạt động và vai trò của tổ chức Khuyến nơng
Việt Nam, nhấn mạnh vai trị của tổ chức khuyến nông, coi tổ chức này như là
cầu nối giữa người nơng dân với trí thức, nơng dân với công nhân và ngược lại,
thông qua các lĩnh vực mà các giai tầng tham gia như: công nghiệp, nông nghiệp,

5


dịch vụ, khoa học cơng nghệ, giáo dục. Nhóm tác giả đã nêu một số mơ hình liên
minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức hiện nay.

- “Bài học kinh nghiệm từ những điển hình thực hiện liên minh cơng - nơng
- trí thức ở nước ta hiện nay”, Thông tin chủ nghĩa xã hội - lý luận và thực tiễn,
số 16 (tháng 12/2007) của TS. Bùi Thị Ngọc Lan.
Trong bài viết này, tác giả đã khảo sát một số điển hình thực hiện tốt liên
minh cơng - nơng - trí thức, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cần thiết từ
những điển hình đó.
- “Một số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin” TS. Phạm Công Nhất, PGS, TS Phan Thanh Khơi (đồng chủ biên) Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, Tập III, chuyên đề 3.
Trong chuyên đề này, tác giả đã làm sáng tỏ lý luận về liên minh trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đã đưa ra quan
niệm về liên minh, vị trí, vai trị của liên minh trong thời kỳ quá độ; khái quát
quá trình thực hiện liên minh, khẳng định quan điểm của Đảng ta về xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức, từ đó đưa ra một số phương hướng cơ bản nhằm tiếp tục tăng cường
khối liên minh ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung bàn đến vấn
đề liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, trong đó, làm rõ những thành tựu, hạn chế của liên minh qua
một số mơ hình điển hình. Song, trong thực tế bên cạnh những thành tựu đã
đạt được thì việc tăng cường củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn cách mạng hiện nay cịn
khơng ít những bất cập, hạn chế. Do đó, việc nhận thức cho đúng vị trí, vai trị
và biện pháp tăng cường củng cố liên minh này ở từng đơn vị địa phương
không chỉ là vấn đề lý luận, mà còn là vấn đề thực tiễn cấp bách hiện nay.
6


Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, vấn đề liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí trong những năm gần đây chưa được quan tâm
nghiên cứu, mặc dù vấn đề này trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều thay đổi và

có nhiều nét đặc thù ở từng địa phương. Ở Thanh Hoá, tuy đã có nhiều đề tài, bài
viết phản ánh đời sống kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội…Nhưng vấn đề liên
minh cơng nhân - nơng dân - trí thức cịn là đề tài bỏ ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng liên minh công nhân - nông dân - trí thức
trên địa bàn tỉnh Thanh Hố, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường khối liên minh, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội
nhập ở tỉnh Thanh Hoá.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai cấp trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực tiễn việc thực hiện liên minh qua một số
mơ hình trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường, củng cố liên minh công nhân
- nông dân - trí thức ở tỉnh Thanh Hố.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:
- Luận văn tập trung nghiên cứu liên minh công nhân - nông dân - trí thức
Thanh Hố.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu khối liên minh này trên địa bàn tỉnh Thanh Hố qua
một số mơ hình tiêu biểu từ đổi mới (1986).
7


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề liên

minh.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp, phương
pháp điều tra, chọn mẫu, phương pháp lịch sử và lơgic…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về liên minh công
nhân - nông dân - trí thức trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn góp phần đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường củng cố
khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, trước hết trên địa bàn tỉnh Thanh
Hố và có thể tham khảo trên phạm vi cả nước.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể là cơ sở thực tiễn cung cấp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý trong việc nhận thức, hoạch định chính sách nhằm tăng cường củng cố
khối liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức; đồng thời có thể được sử dụng là
nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy về liên minh cơng,
nơng, trí thức ở các trường chính trị, thành phố trên phạm vi cả nước và địa bàn
tỉnh Thanh Hoá.
8. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
8


LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA
LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC Ở
THANH HỐ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP

Liên minh giai cấp là một trong những nội dung quan trọng của lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta, đây là cách thức
nhằm tập hợp lực lượng cách mạng. Tư tưởng này được C.Mác đưa ra khi phân
tích những sự kiện chính trị ở Pháp vào những năm 1848 – 1849. Sau này các
Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển
và làm phong phú thêm nội dung, biện pháp và giá trị thực tiễn của nó đối với
cách mạng vô sản ở mỗi nước.
1.1.1 Quan niệm về liên minh giai cấp
Vấn đề liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và trí thức đã được nhiều
nhà khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, để nhận thức đúng nội
dung và biện pháp nhằm tăng cường liên minh giai cấp giữa cơng nhân, nơng
dân và trí thức trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước ở Việt Nam nói chung và trên
địa bàn tỉnh Thanh Hố nói riêng, trước hết cần làm rõ khái niệm liên minh giai
cấp.
Khái niệm liên minh giai cấp có quan hệ với các khái niệm, như: “ Liên
hiệp”, “Liên minh” , “Liên minh cơng nơng”
“Liên hiệp” là q trình hợp lại với nhau, đoàn kết thống nhất theo đường
lối chung để tạo thành một sức mạnh nhằm đạt tới những mục tiêu chung. [1tr.
160- 162].

9


“Liên minh” là sự liên kết giữa hai hay nhiều lực lượng về mặt chính trị,
kinh tế hay quân sự để nhằm một mục đích chung.[2tr. 160-161]
“Liên minh cơng nơng” là khối đồn kết đặc biệt giữa giai cấp cơng nhân
và giai cấp nông dân lao động, là lực lượng nịng cốt của cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. [3 tr.200]

Trong lý luận của C. Mác, thuật ngữ liên minh lúc đầu được ông sử dụng
để chỉ sự “liên hợp” giữa những người công nhân với nhau trong cuộc đấu tranh
giành chính quyền. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã phân
tích cuộc đấu tranh của công nhân chống tư bản và cho rằng đững trước các nhà
tư bản luôn liên kết với nhau, việc giữ vững hội liên hiệp đối với người công
nhân trở nên cần thiết. Ông viết:“ Trong cuộc đấu tranh ấy - đó là một cuộc nội
chiến thực sự - tất cả những yếu tố cần thiết cho một cuộc chiến đấu sắp tới,
đang được tập hợp lại và đang phát triển. Khi đã đạt đến chỗ ấy, thì liên minh
mang một tính chất chính trị” [4.tr.256].
Cùng với q trình phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp, khái niệm
liên minh được dùng để chỉ sự liên kết cúa các giai cấp khác nhau. Khi tổng kết
các phong trào đấu tranh năm 1847 ở Châu Âu, Ph.Ăng – ghen cho rằng, sở dĩ
giai cấp tư sản ở đây giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp
quý tộc phong kiến là nhờ có sự ủng hộ của giai cấp nông dân. Điều kiện để thực
hiện sự liên minh ấy chính là họ có sự thống nhất những lợi ích căn bản.
Như vậy, liên minh ở đây là sự ủng hộ, sự phối hợp của giai cấp nông dân
với giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến vì những lợi ích chung
trong hồn cảnh lúc lịch sử lúc đó. Nhưng khi giai cấp tư sản đã quay lưng lạo
với người nông dân bằng việc cầm cố và cho vay nặng lãi thì liên minh này bị
phá vỡ. Vì thế, người nơng dân đã đứng lên chống lại giai cấp tư sản. Đồng thời,

10


trong cuộc đấu tranh ấy người nơng dân đã tìm được người bạn đồng minh,
người lãnh đạo là giai cấp vơ sản.
Đối với Lênin, khi nói về liên minh giai cấp và chun chính vơ sản,
Người xác định: “chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh
giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động với đông đảo các
tầng lớp lao động không phải là vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng dân, trí

thức…)” [ 5.tr.452]. Bởi vì theo ơng, việc thực hiện mối liên minh giữa giai cấp
công nhân và các giai tầng khác trong xã hội được thực hiện qua nhiều giai đọan
khác nhau, tuỳ vào điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Nếu như trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền, phải thực hiện liên minh về quân sự nhằm tạo ra sức
mạnh để giữ vững chính quyền cách mạng và đấu tranh chống lại các thế lực
phản cách mạng, thì trong giai đoạn cách mạng mới – cách mạng xã hội chủ
nghĩa khối liên minh ấy cần được củng cố trên cơ sở các hình thức khác, nhất là
liên minh về kinh tế, nhằm giải quyết hài hồ lợi ích của các giai tầng trong xã
hội.
Theo chúng tôi, các cách tiếp cận trên về liên minh giai cấp của các nhà
kinh điển đã bao quát tính tất yếu, vai trị và các nội dung kinh tế, chính trị, xã
hội của liên minh.
Theo Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học, liên minh giữa giai cấp công
nhân với nơng dân là hình thức hợp tác giai cấp đặc biệt giữa hai giai cấp lao
động trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng
thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Sự ra đời và củng cố khối liên
minh này bắt nguồn từ những lợi ích căn bản của những giai cấp kể trên và là
một quy luật lịch sử khách quan.[6.tr 200]
Như vậy, liên minh giai cấp hiểu theo nghĩa chung nhất là sự liên kết giữa
các lực lượng xã hội có lợi ích phải phối hợp hành động để thực hiện những mục
11


tiêu xác định những lợi ích chung; đồng thời là một hình thức đặc biệt của đấu
tranh giai cấp, chỉ sự liên kết giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội nhằm phối
hợp hành động để cùng thực hiện những mục tiêu chính trị chung trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
Cơ sở chủ yếu của liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là vấn
đề lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp. Ở đó, các giai cấp lấy mục tiêu đấu
tranh chung làm lợi ích thống nhất để hành động, củng cố và phát triển khối liên

minh.
Từ các quan niệm như đã nêu trên về liên minh giai cấp cho thấy, tuy được
diễn đạt bởi những cách thức khác nhau, nhưng đều đi đến thống nhất cho rằng:
liên minh giai cấp là sự liên kết, thống nhất hành động dựa trên cơ sở lợi ích giữa
các giai cấp, lực lượng trong xã hội. Do đó, liên minh giai cấp là một phạm trù
lịch sử, gắn với từng giai đoạn lịch sử. Bởi vì lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi lực
lượng trong khối liên minh, cũng như lợi ích của cả khối liên minh ln có
những biến động theo theo gian và khơng gian xác định. Mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử, do thực tiễn mâu thuẫn của xã hội luôn xuất hiện sự liên kết giữa các
giai cấp, các lực lượng xã hội để giải quyết mâu thuẫn đó và bảo vệ lợi ích
chung, do đó các giai cấp phải phối hợp hành động để thực hiện những mục tiêu
lợi ích đó.
Trong CNTB, dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì thân phận mọi
người lao động, kể cả trí thức, giai cấp nơng dân hay giai cấp vơ sản thì đều phải
chịu sự áp bức, bóc lột của các nhà tư bản. Để thoát khỏi sự áp bức, bất cơng
trong điều kiện trong tay khơng có tư liệu sản xuất, khơng cịn con đường nào
khác là phải thực hiện liên minh giữa các giai cấp vì mục tiêu lật đổ giai cấp tư
sản, giành chính quyền về tay giai cấp lao động. Do vậy, liên minh giai cấp giữa
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức thực chất là sự liên kết giữa
12


cơng nhân, nơng dân và trí thức để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng vô sản, xây dựng CNXH. Sự liên minh ấy là nhu cầu thực tiễn khách quan
của cách mạng vô sản.
Tiếp thu và kế thừa những nội dung về liên minh giai cấp như đã nêu,
Chúng tôi thống nhất với quan niệm của tác giả Phan Thanh Khôi cho rằng, liên
minh giai cấp công nhân, nơng dân và trí thức là sự đồn kết, hợp lực, hợp tác,
liên kết của công nhân, nông dân, trí thức nhằm thực hiện nhiệm vụ, giải quyết
một vấn đề nào đó vì lợi ích khơng chỉ cho một lực lượng, mà còn cho cả khối

liên minh, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung của chủ nghĩa xã hội
[6.tr114].
Với cách hiểu nêu trên về liên minh giữa công nhân với cấp nơng dân và
trí thức, nội dung khái niệm đó bao hàm các đặc trưng cơ bản sau là:
Thứ nhất, liên minh phải có mục đích xác thực, nhằm thực hiện một nhiệm
vụ. Trong liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và trí thức nhiệm vụ trực tiếp
là đấu tranh để xây dựng chế độ mới đó là xã hội XHCN, trong thời kỳ quá độ
lên CNXH là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát
huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc,
thống nhất vì dân giàu nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thứ hai, hình thức của liên minh là đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết.
Việc lựa chọn các hình thức liên kết phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xã hội
gắn với nhiệm vụ lịch sử của giai cấp công nhân để lựa chọn hình thức liên
minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam xét trên lĩnh vực kinh tế, hình
thức của liên minh là mơ hình hiệp hội, HTX kiểu mới, liên kết các nhà (phổ
biến là 4 nhà)…, trên lĩnh vực chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, là bộ phận của hệ

13


thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, liên minh giữa các giai cấp là nhằm đáp ứng nhu cầu lợi ích của
các lực lượng. Vì vậy, muốn kết hợp đúng đắn các lợi ích khi thực hiện liên
minh, chúng ta phải xác định đúng các nhu cầu về mọi mặt của cơng nhân, nơng
dân, trí thức và của tồn xã hội ở từng thời điểm lịch sử cụ thể của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ đó giải quyết đúng đắn, hài hịa mối quan hệ giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thứ tư, điều kiện bảo đảm tính định hướng của liên minh. Đó chính là

nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng đối với khối liên minh giai cấp trước hết thể
hiện ở việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, định hướng cho toàn bộ
hoạt động của giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Đường lối cách mạng đúng đắn
của Đảng là ngọn cờ tập hợp đông đảo quần chúng, gắn kết mọi giai cấp, tầng
lớp với nhau trên cơ sở lợi ích chính đáng của các giai cấp đều được đáp ứng, tạo
sự đồng thuận phù hợp với sự phát triển chung, góp phần vào sự nghiệp của
CNXH.
Trong thực tế, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức diễn ra trực tiếp hoặc thơng qua các tổ chức chính trị, các đồn
thể là đại biểu cho họ như: doanh nghiệp, viện nghiên cứu, hợp tác xã, hội nơng
dân, gia đình…
Từ các quan niệm nêu trên, liên minh giai cấp là một tất yếu khách quan
của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, là một nội dung quan trọng của
chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản trong việc phân tích mâu thuẫn giai
cấp, tầng lớp để nhận biết đúng tình thế, thời cơ. Qua đó, xác định đúng sđối
tượng, nội dung, nhiệm vụ liên minh, trong từng giai đoạn lịch sử của cách
mạng.
14


1.1.2. Tính tất yếu và nội dung của liên minh giai cấp
Như đã nêu, liên minh giai cấp chính là sự phối hợp của các giai cấp, tầng
lớp xã hội trong cuộc đấu tranh giai cấp, đây là tất yếu khách quan của xã hội có
giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Lịch sử xã hội đã chỉ ra rằng, trong các cuộc đấu tranh giai cấp, liên minh
giai cấp có vai trò to lớn, nhân sức mạnh đấu tranh lên nhiều lần. Nó vừa làm
cho lực lượng trong khối liên minh được tăng cường, vừa cô lập lực lượng của
phe đối lập. Khẳng định điều đó, trước đây khi tổng kết các cuộc cách mạng
1848 – 1852 ở Pháp và Đức, đặc biệt là sau Công xã Pari 1871, C. Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra việc xây dựng khối liên minh công - nông và các tầng lớp

lao động là nhiệm vụ quan trọng để tập hợp sức mạnh trong cách mạng vô sản; là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng vô sản. C. Mác đã viết: “Công
nhân Pháp không thể tiến thêm một bước nào và cũng khơng thể đụng tới một
sợi tóc nào của chế độ tư sản trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản chưa nổi dậy chống
lại sự thống trị của tư sản, chưa bị tiến trình cách mạng buộc phải đi theo những
người vô sản như là đi theo đội tiên phong của mình” [7, tr.26 - 27].
Luận điểm trên của C. Mác cho thấy, giai cấp công nhân nếu không liên
minh được với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động (trong đó
đặc biệt là tầng lớp trí thức) thì sẽ khơng thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Bởi vì, cách mạng vơ sản để đi đến thành cơng, ngồi vai trị lãnh đạo của
giai cấp vơ sản thơng qua chính đảng của nó, cịn cần lực lượng cách mạng để
tạo nên sức mạnh to lớn. Do vậy, liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức
là tất yếu khách quan của cách mạng vơ sản, là nhiệm vụ quan trọng của giai cấp
công nhân trong cách mạng XHCN.

15


Lịch sử cho thấy, bất kỳ một xã hội có giai cấp nào cũng cần đến đội ngũ
trí thức, và trí thức có vai trị to lớn giúp giai cấp cầm quyền . Do đó, để tập hợp
lực lượng, giai cấp công nhân cần phải liên minh với đội ngũ trí thức. Khẳng
định điều này, trước đây Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “Sự nghiệp giải phóng giai cấp
cơng nhân cần phải có những bác sỹ, kỹ sư, nhà hố học, nơng học và các
chun gia khác, vì vậy vấn đề là phải nắm lấy quản lý không phải bộ máy chính
trị mà cịn cả tồn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần nhiều đến kiến thức
vững chắc” [8, tr.613-614].
Phát triển tư tưởng về liên minh giai cấp của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin coi liên minh giai cấp là nguyên tắc cơ bản của chuyên chính vơ sản.
Người chỉ rõ: “Ngun tắc cao nhất của chun chính là duy trì khối liên minh

giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trị lãnh
đạo và chính quyền nhà nước” [44, tr.57]. Theo V.I. Lênin, liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân không chỉ là nguyên tắc tối cao, quyết định
sự thành bại trong cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, mà quan
trọng hơn, đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng quyết định sự sống còn để xây
dựng và củng cố chính quyền, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí
thức, theo V.I. Lênin khơng chỉ có vai trị to lớn trong thời kỳ giành chính quyền
mà cả trong thời kỳ cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Chỉ khi
nào nước ta đã điện khí hố, chỉ khi nào cơng nghiệp, nông nghiệp và vận tải đã
đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại cơng nghiệp hiện đại, thì lúc đó, chúng ta
mới có thể đạt thắng lợi hồn tồn” [10, tr.195]. Theo Lênin, nền sản xuất đại
công nghiệp tất yếu địi hỏi giai cấp cơng nhân phải liên minh với trí thức, đó là
“sự hợp tác của các đại biểu khoa học và cơng nhân, chỉ có sự hợp tác như thế
mới có thể thủ tiêu được tồn bộ nạn nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu” và “Trước

16


sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không
một thế lực đen tối nào đứng vững được” [11, tr.218].
Trong điều kiện kinh tế - xã hội Nga sau Cách mạng tháng Mười năm
1917, V.I. Lênin đã đặc biệt coi trọng lợi ích của nơng dân, bởi đó là điều kiện
thu hút họ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố khối liên minh công
nông. Bởi vậy, trước sự khủng hoảng kinh tế, xã hội ở nước Nga xô viết sau thời
kỳ nội chiến, cùng Đảng Bơn sê vích, Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới
(NEP) thay cho chính sách cộng sản thời chiến bắt đầu từ thuế lương thực. Sự ra
đời của NEP đã phản ánh biện pháp cốt lõi bảo đảm lợi ích cho giai cấp nơng dân
Nga. Nhờ đó nước Nga vượt qua được cuộc khủng hoảng, nội chiến và làm cơ sở
cho sự phát triển sau này.

Từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, và yêu cầu xây dựng lực lượng cách
mạng, đòi hỏi cần nhận thức đúng vai trị, vị trí của giai cấp cơng nhân, nơng dân
và trí thức. Điều đó đòi hỏi, xây dựng và củng cố khối liên minh giữa cơng nhân
với nơng dân và trí thức là tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về liên minh giai cấp.
Tiếp thu chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam, từ thực tiễn cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn nhận thức rõ sức mạnh của nông dân, coi đây là lực lượng
cách mạng to lớn. Người khẳng định, cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng
lợi, phải biết lấy quần chúng công nông làm gốc.
Một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, vấn đề dân tộc “thực chất là
vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do
giai cấp cơng nhân lãnh đạo, và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền
của cơng nơng” [12, tr.17-18]. Bởi vì, thời kỳ đó Việt Nam là quốc gia với trên
90% số dân là nơng dân, nên việc giải phóng dân tộc về cơ bản là giải phóng
nơng dân; nên dân chủ nhân dân thực chất là chính quyền của cơng – nông, do
17


giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuẩn bị các tiền đề, điều kiện để tiến lên
CNXH. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, động lực cơ bản của cách mạng
Việt Nam là công nhân và nông dân; công nông liên minh là trụ cột của mọi sự
tập hợp dân tộc, trong đó giai cấp cơng nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Vì vậy, phải thực hiện cho được liên minh cơng – nơng vì đó là sự đảm bảo chắc
chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công – nông, do
giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng Việt Nam mới có thể đánh đổ các thế lực
phản động, giành lấy chính quyền về tay nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm
vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân [13, tr.302].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam muốn thành cơng thì
nhất thiết phải tập hợp, đồn kết được giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

đến các lực lượng “bầu bạn” khác thành khối thống nhất. Do đó, Người đã chăm
lo xây dựng khối liên minh cơng nhâ, nơng dân và trí thức. Tuy nhiên, để xây
dựng khối liên minh thống nhất ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải có
một cương lĩnh cách mạng đúng đắn để thắt chặt khối liên minh công nhân nơng dân. Vì vậy, ngay từ “Chánh cương vắn tắt” được thông qua tại Đại hội
thành lập Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu hành động: “Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập”; “Dựng ra Chính phủ cơng nơng binh”; “Tổ chức ra qn đội công
nông”, “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo” [14, tr.1,2]. Đây là mục tiêu chung của các giai cấp làm cách mạng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh rằng, khối đại đoàn kết toàn
dân tộc chỉ được tập hợp và phát huy mạnh mẽ khi giai cấp công nhân nắm vai
trị lãnh đạo. Vì, trong khối đại đồn kết toàn dân ấy, mỗi tầng lớp, giai cấp tham
gia, đều mưu cầu cho mình những lợi ích riêng. Do đó chỉ bằng năng lực, uy tín

18


của Đảng mới đủ khả năng thống nhất được lợi ích của các giai cấp và lợi ích
chung của toàn xã hội; Chỉ có chính Đảng cách mạng mới tìm ra biện pháp, con
đường đấu tranh để biến mục tiêu ấy thành hiện thực. Khi đó, sức mạnh đồn kết
của dân tộc được nhân lên, đủ sức đánh đổ kẻ thù, giải phóng và bảo vệ vững
chắc tổ quốc. Cơng nhân và nông dân bao giờ cũng là “gốc”, là “nền” của cách
mạng. Nên, để có nền vững, gốc tốt cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân,
đồn kết tất cả những người thực sự yêu Tổ quốc, yêu hồ bình, khơng phân biệt
đảng phái, tơn giáo.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh về kinh tế là nội
dung hàng đầu trong liên minh giai cấp. Nên phải đẩy mạnh phát triển kinh tế,
từng bước gắn kết giữa công nghiệp với nông nghiệp, làm cho nông nghiệp thực
sự trở thành cơ sở để phát triển cơng nghiệp. Trước đây Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “Cơng nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Nông nghiệp

phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ
nguyên liệu (như bơng, mía, chè..) cho nhà máy. Cung cấp đủ nơng sản (như lạc,
đỗ, đay…) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Cơng nghiệp phải phát triển để cung
cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nơng dân; cung cấp
máy bơm nước, phân hố học, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công
nghiệp phát triển thì nơng nghiệp mới phát triển. Cho nên cơng nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là, thực hiện liên
minh cơng - nơng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung
sướng cho nhân dân” [15, tr.544-545].
Không chỉ yêu cầu liên minh giữa công nhân và nông dân, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, trong lực lượng cách mạng cịn chú ý liên minh với trí thức, đây là
điều kiện để đảm bảo sự vững chắc cho khối liên minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

19


viết: “Cách mạng cũng cần có trí thức… thí dụ: cần có thầy thuốc để săn sóc sức
khoẻ cho nhân dân, cần có thầy giáo để dạy văn hố và đào tạo cán bộ; cần có kỹ
sư để xây dựng kinh tế… Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ vang;
và cơng, nơng, trí thức cần phải đồn kết chặt chẽ thành một khối” [16,tr.214 215], “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật,
với sự phát triển văn hoá của nhân dân. Những người trí thức của chúng ta đã
đóng góp một phần xứng đáng trong kháng chiến. Họ đã được Đảng luôn luôn
giúp đỡ để tiến bộ. Cho nên họ đi theo chủ nghĩa xã hội. Giai cấp cơng nhân
đồn kết chặt chẽ với trí thức để giúp họ phục vụ cách mạng, phục vụ chủ nghĩa
xã hội” [17, tr.165].
Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về
liên minh giữa giai cấp công nhân, nơng dân và trí thức. Dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ khi nắm quyền lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã

quyết tâm xây dựng và củng cố khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức,
coi đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta đã đưa ra quan điểm nhất quán rằng, lực lượng cách mạng, ngồi hai
giai cấp cơ bản là cơng nhân và nơng dân cần đặc biệt chú trọng tầng lớp trí thức.
Đảng nêu rõ “… chính quyền dân chủ của nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc
thống nhất, lấy liên minh cơng nhân, nơng dân và lao động trí thức làm nền tảng
và do giai cấp công nhân lãnh đạo”[ 18, tr 121]. Từ đó, Đảng ta ln giải quyết
nhiều vấn đề thực tiễn cách mạng trong các giai đoạn một cách khoa học trên
nền tảng lý luận về liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức của chủ nghĩa Mác
– Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước; luôn nắm vững và
giải quyết đúng đắn vấn đề, củng cố được liên khối minh công nhân, nơng dân và
trí thức. Do đó, Đảng đã quy tụ và đoàn kết xung quanh minh tất cả các giai cấp,
các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp.
20


Có thể khẳng định, với đường lối chính trị xây dựng và phát huy vai trị
của khối liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức, Đảng ta đã huy động được
sức mạnh đồn kết tồn dân, vượt qua mn vàn khó khăn đánh thắng hai kẻ
thực dân lớn là Pháp và Mỹ. Thắng lợi đó làm sáng tỏ chân lý, một dân tộc dù là
nhỏ yếu, nhưng khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo
của một chính Đảng cách mạng hồn tồn có thể giành độc lập. Thắng lợi đó
cũng đã chứng tỏ rằng, chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mới có thể tạo
điều kiện cho các tầng lớp nhân dân đồn kết một lịng, cùng chung chí hướng để
đánh bại quân thù giành tự do, độc lập.
Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, một lần nữa, Đảng ta đã khẳng định:
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế của toàn xã hội” [19, tr.86].

Quan điểm trên của Đảng ta là bước phát triển tư duy lý luận về liên minh
công nhân, nơng dân và trí thức là tìm thấy cơ sở nền tảng để xây dựng khối liên
minh công nhân, nơng dân và trí thức là giải quyết hài hồ quan hệ lợi ích giữa
các giai cấp.
Trên phương diện chính trị, để xây dựng và củng cố khối liên minh cơng
nhân, nơng dân và trí thức, Đảng ta xác định, cách mạng vì mục tiêu: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung cốt lõi để tạo sự thống
nhất giữa các giai cấp và tầng lớp; là cơ sở để xây dựng khối đại đồn kết tồn
dân tộc.
Chính nhờ có sự thống nhất chung về chính trị là “Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã thu hút được sức mạnh của cả dân tộc vào quá
trình xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, nhân dân ta trở thành
21


người chủ thực sự của đất nước và tham gia hoạt động ngày càng nhiều vào các
lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Để củng
cố liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức trên lĩnh vực chính trị, vấn đề
cốt lõi là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh cơng, nơng,
trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng nhấn mạnh: “… Xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy
liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. [ 20, tr.9]. Từ đó, Đảng ln quan tâm đổi
mới biện pháp quản lý của bộ máy nhà nước và Hệ thống chính trị nhằm mở
rộng quyền dân chủ của nhân dân.
Để bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở, Đảng ta
đã lãnh đạo nhà nước ban hành “Quy chế dân chủ ở cơ sở” (nay là Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở); phát huy vai trò của hệ thống chính trị để vận động nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tăng cường đại

đoàn kết toàn dân. Đây là cơ sở quan trọng để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, nâng cao chất lượng và phát huy sức mạnh của khối liên minh giữa công
nhân, nông dân và trí thức trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, lạc hậu,
vấn đề liên minh kinh tế giữa cơng, nơng, trí thức là một “mắt khâu” xuyên suốt
là nền tảng củng cố khối đoàn kết thống nhất. Do vậy, đòi hỏi phải kết hợp đúng
đắn các lợi ích kinh tế.
Trên thực tế, do nóng vội muốn đến sớm chủ nghĩa xã hội, trong cơ chế
cũ, chúng ta đã vấp phải một số sai lầm, nhất là sai lầm trong định hướng phát
triển ngành kinh tế, như chưa tạo ra cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý; chưa tập
22


trung đúng mức cho phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương
thực, thực phẩm; chưa kết hợp chặt chẽ nông, lâm, ngư nghiệp. Quan trọng hơn,
chưa gắn công nghiệp với nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến; chưa đầu
tư thỏa đáng cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp, và cơng nghiệp…Chính điều đó làm cho trình độ kỹ thuật của sản xuất
nơng nghiệp cịn rất thấp, chưa cung ứng đủ công cụ, vật tư cần thiết cho sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Sự hạn chế trên đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của
đông đảo nông dân, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến khối liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức.
Khắc phục sai lầm chủ quan trên, Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi
mới, với việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Đó là giải pháp để mọi tầng lớp dân cư được mở rộng sản xuất kinh doanh,
từ đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khơi dậy khả năng sáng tạo trong
nhân dân; tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản
xuất nơng nghiệp. Chính đường lối đổi mới đúng đắn này đã đưa nước ta ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế và tạo bước phát triển mới cho đất nước. Đảng ta đã

chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế, trong đó trước hết là thực hiện
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, với mục tiêu hiện đại hố kinh tế nơng
nghiệp. Đây là biện pháp nhằm thực hiện tốt liên minh kinh tế giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức. Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo cơ bản, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh:
- Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn
bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nơng nghiệp, nông thôn.

23


- Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con
người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để
sản xuất hàng hoá quy mơ lớn.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên
ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn nhằm giải quyết việc làm, xố
đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển xã hội; nâng cao đời sống vật chất
và văn hố của người dân nơng thơn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hoá và thuần phong mỹ tục.
- Kết hợp chặt chẽ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn
với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân
dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước, của các ngành và địa phương.
Các quan điểm trên thể hiện một cách toàn diện đường lối của Đảng về

liên minh kinh tế giữa các giai cấp; là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, biện pháp quan trọng nhằm thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các giai cấp, các khu vực trên con đường phát triển.
Thực tiễn chỉ rõ, các nội dung kinh tế, chính trị của liên minh cơng, nơng,
trí thức đều nhằm thực hiện các mục tiêu là đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu
cầu vật chất và tinh thần của nhân dân; từng bước nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá tinh thần cho các giai cấp cơng nhân, nơng dân và trí thức và các tầng
lớp nhân dân lao động khác.

24


Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm văn hoá, xã hội ở nước ta là nước nông
nghiệp lạc hậu và chịu hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề, nên tình trạng nghèo
đói, những tiêu cực, tệ nạn xã hội nảy sinh…còn diễn ra phổ biến, trên diện rộng.
Khắc phục tình trạng trên, địi hỏi chúng ta phải giải quyết từng bước tình trạng
đói nghèo cho nơng dân, cơng nhân, trí thức. Thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng và
Nhà nước ta đã có những chính sách xã hội, chương trình phát triển kinh tế nhằm
giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh, từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, trước hết cần phải phát huy vai trò nhân tố con người, phát triển khoa
học và công nghệ, phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là giải pháp nhằm khắc
phục hạn chế để tạo nên sức mạnh nội sinh của đất nước.
Hiện nay, khi nhân loại đang hướng tới nền kinh tế tri thức thì việc tăng
cường đồn kết thống nhất trong liên minh cơng, nơng trí thức trên lĩnh vực xã
hội càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn bao giờ hết. Trên lĩnh vực văn hố,
xã hội, đội ngũ trí thức có vai trị đặc biệt quan trọng, vì họ là đại diện cho nguồn
lực trí tuệ của đất nước, là lực lượng nòng cốt chuyển tải các giá trị văn hoá đến
các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động. Hơn thế, có sự hợp tác giữa trí thức với
công nhân, nông dân mới tạo ra được đội ngũ “cơng, nơng, trí thức” hùng hậu

đáp ứng địi hỏi của sự phát triển của nền sản xuất hiện đại. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục đề ra những biện pháp cụ thể nhấn
mạnh vai trị của trí thức. Đồng thời chú trọng giải quyết lợi ích thiết thực của
các giai cấp và tầng lớp như: vấn đề việc làm, nâng cao dân trí, đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ, bảo đảm sức khoẻ, tạo môi trường làm việc thuận lợi, ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Thông qua việc giải quyết các
nhu cầu, lợi ích của mỗi giai cấp và tầng lớp trong xã hội, Đảng và Nhà nước đã

25


×