Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

thạc sĩ triết học -Liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.55 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẨU

1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP VÀ TÍNH
TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH GIỮA CƠNG NHÂN, NƠNG
DÂN VÀ TRÍ THỨC Ở THANH HỐ

9

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai cấp
1.2. Vài nét khái quát về tỉnh Thanh Hoá và tính tất yếu của liên minh
giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh

9
25

Chương 2: THỰC TRẠNG LIÊN MINH GIỮA CƠNG NHÂN, NƠNG
DÂN VÀ TRÍ THỨC Ở TỈNH THANH HOÁ VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA

35

2.1. Thực trạng liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh
Thanh Hoá
2.2. Những vấn đề đặt ra từ việc thực hiện liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức ở tỉnh Thanh Hoá


35
58

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ
KHỐI LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ
TRÍ THỨC Ở TỈNH THANH HỐ HIỆN NAY

67

3.1. Quan điểm cơ bản bảo đảm tăng cường, củng cố khối liên minh
giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh Thanh Hoá
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường, củng cố khối liên minh

67

giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay
Một số kiến nghị

77
97

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99
102


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

HTX

:

Hợp tác xã

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, liên minh giữa
giai công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là động lực cách

mạng to lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, đây không chỉ là biện
pháp tăng cường lực lượng cách mạng, đảm bảo quyền lãnh đạo của giai cấp
công nhân với tồn xã hội, mà cịn là điều kiện để mỗi lực lượng trong khối
liên minh thực hiện được những lợi ích của mình, qua đó góp phần có ý nghĩa
quyết định vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, đồng thời thường xuyên tăng cường, củng cố khối
liên minh với những nội dung, hình thức và phương pháp cho phù hợp với
thực tiễn vận động của cách mạng nước ta.
Nhận thức đúng vai trị của khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước và hội nhập quốc tế, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta khẳng định:
“Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [25, tr.158].
Song, hiện nay q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước đang
diễn ra trong bối cảnh phức tạp. Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta gặp
khơng ít khó khăn, thách thức. Điều đó đang tác động mạnh mẽ và làm ảnh
hưởng đến tính bền vững của khối liên minh.
Thanh hoá là tỉnh nằm ở cực Bắc Miền Trung, diện tích tự nhiên tồn
tỉnh là 11.106 km2, chiếm 3,37% diện tích cả nước. Thanh Hố bao gồm cả 4
vùng đồng bằng, trung du, miền núi và miền biển, đó là điều kiện tự nhiên


2
thuận lợi. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc trong
tỉnh Thanh Hố đã đồn kết thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế, chính

trị, xã hội. Các chủ trương, chính sách đã tạo điều kiện phát triển sản xuất, cải
thiện đời sống nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức trên địa bàn tỉnh, điển hình như: Cơng ty cổ phần Mía
đường Lam Sơn, chìa khố thành cơng của cơng ty đó chính là dựa trên khối
liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức vững chắc. Cơng ty thường
xuyên cộng tác với Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, Trường
Đại học Nông nghiệp I, Trung tâm nghiên cứu mía Bến Cát để “cập nhật” kỹ
thuật và giống mía mới; phối hợp với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội để
cập nhật công nghệ chế biến đường; phối hợp với Đại học Thương mại, Học
viện Tài chính để nghiên cứu thị trường, đào tạo cán bộ quản lý cho công ty,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất, chế
biến và bao tiêu sản phẩm, bảo đảm lợi ích của nơng dân và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cùng với cả nước trong q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu
đạt được, mối quan hệ giữa các lực lượng trong khối liên minh cũng đã nảy
sinh những mâu thuẫn. Chẳng hạn, tình trạng người nơng dân mất đất sản
xuất; hiện tượng phá vỡ hay lạm dụng hợp đồng, thiếu gắn kết trong hợp tác
kinh tế; sự chênh lệch trong hưởng thụ phúc lợi xã hội; sự thiếu công bằng
trong việc tiếp cận sử dụng tư liệu sản xuất, nhất là sự chênh lệch giá cả hàng
hố cơng nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng lớn đã và đang tác
động đến mối liên kết trong chính nội bộ khối liên minh…Vì vậy, việc tăng
cường củng cố liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức trên địa bàn
tỉnh để tạo động lực thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế, chính trị, xã
hội mà Đảng bộ tỉnh đề ra là vấn đề cấp thiết hiện nay cần được nghiên cứu.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn vấn đề: “Liên minh giữa công nhân, nông dân và


3
trí thức ở tỉnh Thanh Hố hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học,
chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thực tế cho thấy, trong các cơng trình nghiên cứu, các luận văn và các bài
viết trong những năm qua, nhiều nhà khoa học đã thường xuyên quan tâm bàn
đến vấn đề liên minh giai cấp trong cách mạng, tiêu biểu là các cơng trình sau:
- Đề tài: "Một số điều kiện để tăng cường khối liên minh công nông
trong cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa" (19931994), TS Dương Văn Duyên chủ biên. Với quan điểm đổi mới, các tác giả
bước đầu nghiên cứu quá trình xây dựng khối liên minh cơng nơng ở nước ta,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm; nghiên cứu sự thay đổi cơ cấu kinh tế
-xã hội giai cấp; sự phân hóa giàu nghèo của công nhân và nông dân do tác
động của cơ chế thị trường; nghiên cứu những điều kiện cần thiết nhằm tăng
cường khối liên minh công - nông trong giai đoạn hiện nay.
- “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh cơng - nơng - trí thức”, Tạp chí
Nghiên cứu số 2 - 1993, của tác giả PTS. Đỗ Khánh Tặng, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Trong bài viết này, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin tác giả đã đi sâu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
liên minh cơng, nơng, trí thức vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; làm rõ vai trị
của cơng, nơng, trí thức trong khối liên minh, khẳng định tư tưởng của Người về
vấn đề đoàn kết trong khối liên minh là nhân tố quan trọng vượt qua mọi khó
khăn trở ngại.
- “Các nhà kinh điển Mác - Lênin bàn về liên minh công - nơng - trí
thức”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 7 - 1998 của tác giả Lê Khắc Thành.
Trong bài viết này, tác giả đã tập trung khai thác di sản kinh điển tư tưởng của
C.Mác, Ph. Ănghen và V.I. Lênin về vấn đề liên minh và khẳng định đây là
nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và là vấn đề có tính quy luật của
cách mạng vô sản và xây dựng CNXH; nêu lên một số nguyên tắc cơ bản của


4
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động trong tư tưởng các nhà kinh điển mác - xít.
- “Về sự liên minh cơng - nơng - trí thức trong kinh tế thị trường” Tạp

chí Cộng sản số 3, năm 1998 của tác giả Đan Tâm. Trong bài viết này, tác giả
đã luận giải sự tất yếu và khả năng thực hiện liên minh cơng - nơng - trí thức
trong nền kinh tế thị trường trên các lĩnh vực cơ bản; chính trị, kinh tế, văn
hố xã hội. Trên cơ sở đó, để tăng cường củng cố khối liên minh trong nền
kinh tế thị trường, theo tác giả giai cấp công nhân cần phải có sức mạnh kinh
tế, xây dựng tổ chức vững mạnh.
- Đề tài cấp bộ: "Những căn cứ lý luận và thực tiễn cấp thiết để thực hiện
tốt liên minh cơng- nơng- trí thức ở nước ta hiện nay" (2000), PGS,TS Nguyễn
Đức Bách chủ biên, trong đó nêu lên những căn cứ lý luận và thực tiễn chủ yếu
và cấp thiết của "Liên minh cơng- nơng- trí thức" theo tinh thần đổi mới ở nước
ta hiện nay, qua khảo sát một số tỉnh ở đồng Bằng Bắc Bộ và một số ngành, cơ
quan cơng nghiệp. Từ đó, đề tài đã khái quát những thành quả và hạn chế, sai
sót trong việc thực hiện liên minh ở nước ta từ khi đổi mới. Trên cơ sở đó, đề tài
đề xuất giải pháp khá tồn diện nhằm thực hiện có kết quả cao và vững chắc hơn
liên minh công, nông, trí thức ở nước ta hiện nay.
- “ Tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nơng dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới ”, Tạp chí Lý luận chính trị số
2- 2002 của tác giả TS Nguyễn Quang Du, Trung tâm Công tác lý luận Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong bài viết này, trên cơ sở
đánh giá những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện 15 năm đổi mới
ở nước ta, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trị của liên minh cơng nhân với
nơng dân và đội ngũ trí thức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
những vấn đề đặt ra trong liên minh sau 15 năm đổi mới, nguyên nhân hạn
chế. Từ đó, tác giả đưa ra năm giải pháp nhằm tăng cường khối liên minh
giữa giai cấp cơng nhân với nơng dân và đội ngũ trí thức ở nước ta.


5
- Luận án tiến sĩ “Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam - cái phổ biến và cái đặc thù” (2003) của tác giả Trương Quang

Khải, trong đó tác giả đã khái quát các quan điểm chủ yếu của C.Mác,
Ph.Ănghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về liên minh giai cấp, chỉ rõ tính phổ biến
của liên minh giai cấp. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến liên minh giai
cấp ở Việt Nam, nêu lên những nét đặc thù của liên minh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường khối liên minh giai cấp công nhân với nơng dân và đội ngũ trí thức ở Việt
Nam.
- “Hoạt động khuyến nơng Việt Nam. Ý nghĩa chính trị - xã hội”, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2006 do PGS, TS. Phan Thanh Khôi (chủ biên).
Tác giả đã tiếp cận vấn đề liên minh giữa giai cấp cơng nhân với nơng
dân và trí thức qua việc nghiên cứu hoạt động và vai trị của tổ chức
Khuyến nơng Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của tổ chức khuyến nông, coi tổ
chức này như là cầu nối giữa người nơng dân với trí thức, nơng dân với
cơng nhân và ngược lại, thông qua các lĩnh vực mà các giai tầng tham gia
như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học cơng nghệ, giáo dục.
Nhóm tác giả đã nêu một số mơ hình liên minh giữa cơng nhân, nơng dân
và trí thức hiện nay.
- “Bài học kinh nghiệm từ những điển hình thực hiện liên minh cơng nơng - trí thức ở nước ta hiện nay”, Thông tin chủ nghĩa xã hội - lý luận và
thực tiễn, số 16 (tháng 12/2007) của TS. Bùi Thị Ngọc Lan.
Trong bài viết này, tác giả đã khảo sát một số điển hình thực hiện tốt liên
minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức, từ đó rút ra một số bài học kinh
nghiệm cần thiết từ những điển hình đó.
- “Một số chun đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin”, TS. Phạm Công Nhất, PGS, TS Phan Thanh Khơi (đồng chủ biên)
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, Tập III, chuyên đề 3.


6
Trong chuyên đề này, tác giả đã làm sáng tỏ lý luận về liên minh trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đã đưa ra
quan niệm về liên minh, vị trí, vai trò của liên minh trong thời kỳ quá độ; khái

quát quá trình thực hiện liên minh, khẳng định quan điểm của Đảng ta về xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa công nhân với
nơng dân và trí thức, từ đó đưa ra một số phương hướng cơ bản nhằm tiếp tục
tăng cường khối liên minh ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung bàn đến
vấn đề liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó, làm rõ những thành tựu, hạn chế của
liên minh qua một số mơ hình điển hình. Song, trong thực tế bên cạnh
những thành tựu đã đạt được thì việc tăng cường củng cố liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức trong giai
đoạn cách mạng hiện nay cịn khơng ít những bất cập, hạn chế. Do đó, việc
nhận thức cho đúng vị trí, vai trị và biện pháp tăng cường củng cố liên
minh này ở từng đơn vị địa phương khơng chỉ là vấn đề lý luận, mà cịn là
vấn đề thực tiễn cấp bách hiện nay.
Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, vấn đề liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí trong những năm gần đây chưa được quan
tâm nghiên cứu, mặc dù vấn đề này trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều thay
đổi và có nhiều nét đặc thù ở từng địa phương.
Ở Thanh Hố, tuy đã có nhiều đề tài, bài viết phản ánh đời sống kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội ở tỉnh…nhưng vấn đề liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức cịn là đề tài bỏ ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí
thức trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản


7
nhằm tăng cường, củng cố khối liên minh, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập ở tỉnh Thanh Hoá.

* Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai cấp trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực tiễn việc thực hiện liên minh qua một
số mơ hình trên địa bàn tỉnh Thanh Hố.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường, củng cố khối liên minh
giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức ở tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:
- Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ liên minh giữa cơng nhân,
nơng dân và trí thức ở Thanh Hoá.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu khối liên minh này trên địa bàn tỉnh Thanh Hố
qua một số mơ hình tiêu biểu từ đổi mới (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề liên minh.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp,
phương pháp điều tra, chọn mẫu, phương pháp lịch sử và lơgic…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về liên minh giữa
cơng nhân, nơng dân và trí thức trong giai đoạn hiện nay.


8
- Luận văn góp phần đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường củng cố
khối liên minh giữa công nhân, nơng dân và trí thức, trước hết trên địa bàn

tỉnh Thanh Hố và có thể tham khảo trên phạm vi cả nước.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể là cơ sở thực tiễn cung cấp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý trong việc nhận thức, hoạch định chính sách nhằm tăng cường củng
cố khối liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức; đồng thời có thể được
sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy về liên
minh công, nông, trí thức ở các trường chính trị, thành phố trên phạm vi cả
nước và địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP VÀ TÍNH TẤT YẾU
CỦA LIÊN MINH GIỮA CƠNG NHÂN, NƠNG DÂN VÀ TRÍ THỨC
Ở THANH HỐ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP

Liên minh giai cấp là một trong những nội dung quan trọng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta, đây là cách thức
nhằm tập hợp lực lượng cách mạng. Tư tưởng này được C.Mác đưa ra khi
phân tích những sự kiện chính trị ở Pháp vào những năm 1848 - 1849. Sau
này các Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,
phát triển và làm phong phú thêm nội dung, biện pháp và giá trị thực tiễn của
nó đối với cách mạng vô sản ở mỗi nước.
1.1.1. Quan niệm về liên minh giai cấp
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân, nơng dân và trí thức đã được

nhiều nhà khoa học, nhiều cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, để nhận thức
đúng nội dung và biện pháp nhằm tăng cường liên minh giai cấp giữa cơng
nhân, nơng dân và trí thức trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước ở Việt Nam nói
chung và trên địa bàn tỉnh Thanh Hố nói riêng, trước hết cần làm rõ khái
niệm liên minh giai cấp.
Khái niệm liên minh giai cấp có quan hệ với các khái niệm, như: “Liên
hiệp”, “Liên minh” , “Liên minh công - nơng”
“Liên hiệp” là q trình hợp lại với nhau, đoàn kết thống nhất theo
đường lối chung để tạo thành một sức mạnh nhằm đạt tới những mục tiêu
chung [1, tr.160].
“Liên minh” là sự liên kết giữa hai hay nhiều lực lượng về mặt chính
trị, kinh tế hay quân sự để nhằm một mục đích chung [66, tr.161].


10
“Liên minh cơng nơng” là khối đồn kết đặc biệt giữa giai cấp công nhân
và giai cấp nông dân lao động, là lực lượng nòng cốt của cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng XHCN do giai cấp cơng nhân lãnh đạo
Trong lý luận của C.Mác, thuật ngữ liên minh lúc đầu được ông sử
dụng để chỉ sự “liên hợp” giữa những người công nhân với nhau trong cuộc
đấu tranh giành chính quyền. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học,
C.Mác đã phân tích cuộc đấu tranh của công nhân chống tư bản và cho rằng
đứng trước các nhà tư bản luôn liên kết với nhau, việc giữ vững hội liên hiệp
đối với người công nhân trở nên cần thiết. Ơng viết: “Trong cuộc đấu tranh ấy
- đó là một cuộc nội chiến thực sự - tất cả những yếu tố cần thiết cho một
cuộc chiến đấu sắp tới, đang được tập hợp lại và đang phát triển. Khi đã đạt
đến chỗ ấy, thì liên minh mang một tính chất chính trị” [47, tr.256].
Cùng với q trình phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp, khái
niệm liên minh được dùng để chỉ sự liên kết của các giai cấp khác nhau. Khi
tổng kết các phong trào đấu tranh vào năm 1847 ở Châu Âu, Ph.Ăng ghen cho

rằng, sở dĩ giai cấp tư sản ở đây giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp quý tộc phong kiến là nhờ có sự ủng hộ của giai cấp nông dân.
Điều kiện để thực hiện sự liên minh ấy chính là họ có sự thống nhất những lợi
ích căn bản.
Như vậy, liên minh ở đây là sự ủng hộ, sự phối hợp của giai cấp nông
dân với giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến vì những lợi
ích chung trong hồn cảnh lịch sử lúc đó. Nhưng khi giai cấp tư sản đã quay
lưng lại với người nông dân bằng việc cầm cố và cho vay nặng lãi thì liên
minh này bị phá vỡ. Vì thế, người nơng dân đã đứng lên chống lại giai cấp tư
sản. Đồng thời, trong cuộc đấu tranh ấy, người nơng dân đã tìm được người
bạn đồng minh, người lãnh đạo là giai cấp vô sản.
Đối với Lênin, khi nói về liên minh giai cấp và chun chính vơ sản,
Người xác định: “chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh


11
giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động với đông đảo
các tầng lớp lao động không phải là vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng dân, trí
thức…)” [39, tr.452]. Bởi vì theo ơng, việc thực hiện mối liên minh giữa giai
cấp công nhân và các tầng lớp khác trong xã hội được thực hiện qua nhiều
giai đoạn khác nhau, tuỳ vào điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Nếu như trong
thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, phải thực hiện liên minh về quân sự
nhằm tạo ra sức mạnh để giữ vững chính quyền cách mạng và đấu tranh
chống lại các thế lực phản cách mạng, thì trong giai đoạn cách mạng mới cách mạng xã hội chủ nghĩa, khối liên minh ấy cần được củng cố trên cơ sở
các hình thức khác, nhất là liên minh về kinh tế, nhằm giải quyết hài hồ lợi
ích của các giai tầng trong xã hội.
Theo chúng tôi, các cách tiếp cận trên về liên minh giai cấp của các nhà
kinh điển đã bao quát tính tất yếu, vai trị và các nội dung kinh tế, chính trị, xã
hội của liên minh.
Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, liên minh giữa giai cấp

công nhân với nơng dân là hình thức hợp tác giai cấp đặc biệt giữa hai giai
cấp lao động trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây
dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Sự ra đời và củng cố
khối liên minh này bắt nguồn từ những lợi ích căn bản của những giai cấp kể
trên và là một quy luật lịch sử khách quan [66, tr.200].
Như vậy, liên minh giai cấp hiểu theo nghĩa chung nhất là sự liên kết
giữa các lực lượng xã hội có lợi ích phải phối hợp hành động để thực hiện
những mục tiêu xác định, những lợi ích chung; đồng thời là một hình thức đặc
biệt của đấu tranh giai cấp, chỉ sự liên kết giữa các giai cấp, các tầng lớp xã
hội nhằm phối hợp hành động để cùng thực hiện những mục tiêu chính trị
chung trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Cơ sở chủ yếu của liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là
vấn đề lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp. Ở đó, các giai cấp lấy mục tiêu


12
đấu tranh chung làm lợi ích thống nhất để hành động, củng cố và phát triển
khối liên minh.
Từ các quan niệm như đã nêu trên về liên minh giai cấp cho thấy, tuy
được diễn đạt bởi những cách thức khác nhau, nhưng đều đi đến thống nhất
cho rằng: liên minh giai cấp là sự liên kết, thống nhất hành động dựa trên cơ
sở lợi ích giữa các giai cấp, lực lượng trong xã hội. Do đó, liên minh giai cấp
là một phạm trù lịch sử, gắn với từng giai đoạn lịch sử. Bởi vì lợi ích của mỗi
giai cấp, mỗi lực lượng trong khối liên minh, cũng như lợi ích của cả khối liên
minh ln có những biến động theo thời gian và không gian xác định. Mỗi
giai đoạn phát triển của lịch sử, do thực tiễn mâu thuẫn của xã hội luôn xuất
hiện sự liên kết giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội để giải quyết mâu
thuẫn đó và bảo vệ lợi ích chung, do đó các giai cấp phải phối hợp hành động
để thực hiện những mục tiêu lợi ích đó.
Trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản

xuất thân phận mọi người lao động, kể cả trí thức, giai cấp nơng dân hay giai
cấp vơ sản thì đều phải chịu sự áp bức, bóc lột của các nhà tư bản. Để thốt
khỏi sự áp bức, bất cơng trong điều kiện trong tay khơng có tư liệu sản xuất,
khơng còn con đường nào khác là phải thực hiện liên minh giữa các giai cấp
vì mục tiêu lật đổ giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp lao động.
Do vậy, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp
trí thức thực chất là sự liên kết giữa công nhân, nông dân và trí thức để thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng vô sản, xây dựng CNXH. Sự
liên minh ấy là nhu cầu thực tiễn khách quan của cách mạng vô sản.
Tiếp thu và kế thừa những nội dung về liên minh giai cấp như đã nêu,
Chúng tôi thống nhất với quan niệm cho rằng, liên minh giai cấp cơng nhân,
nơng dân và trí thức là sự đồn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết của công nhân,
nông dân, trí thức nhằm thực hiện nhiệm vụ xã hội, lợi ích của mỗi lực lượng,
và của cả khối liên minh, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung của đất
nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.


13
Với cách hiểu nêu trên, khái niệm đó bao hàm các đặc trưng cơ bản sau
là:
Thứ nhất, liên minh phải có mục đích xác thực, nhằm thực hiện một
nhiệm vụ. Trong liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức nhiệm vụ
trực tiếp là đấu tranh để xây dựng chế độ mới. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa
(XHCN); trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của cả cộng
đồng dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thứ hai, hình thức của liên minh là đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết.
Việc lựa chọn các hình thức liên kết phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xã hội
gắn với nhiệm vụ lịch sử của giai cấp công nhân để lựa chọn hình thức liên

minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam xét trên lĩnh vực kinh tế,
hình thức của liên minh là mơ hình hiệp hội, Hợp tác xã (HTX) kiểu mới, liên
kết các nhà (phổ biến là 4 nhà)…, trên lĩnh vực chính trị, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính
trị, là bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, liên minh giữa các giai cấp là nhằm đáp ứng nhu cầu lợi ích
của các lực lượng. Vì vậy, muốn kết hợp đúng đắn các lợi ích khi thực hiện
liên minh, chúng ta phải xác định đúng các nhu cầu về mọi mặt của công
nhân, nông dân, trí thức và của tồn xã hội ở từng thời điểm lịch sử cụ thể của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ đó giải quyết đúng đắn, hài hịa
mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội.
Thứ tư, điều kiện bảo đảm tính định hướng của liên minh. Đó chính là
nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng đối với khối liên minh trước hết thể hiện
ở việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, định hướng cho toàn bộ


14
hoạt động của giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Đường lối cách mạng đúng
đắn của Đảng là ngọn cờ tập hợp đông đảo quần chúng, gắn kết mọi giai
cấp, tầng lớp với nhau trên cơ sở lợi ích chính đáng của các giai cấp đều
được đáp ứng, tạo sự đồng thuận phù hợp với sự phát triển chung, góp phần
vào sự nghiệp của CNXH.
Trong thực tế, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức diễn ra trực tiếp hoặc thơng qua các tổ chức chính trị, các
đồn thể là đại biểu cho họ như: doanh nghiệp, viện nghiên cứu, hợp tác xã,
hội nơng dân, gia đình…
Từ các quan niệm nêu trên, liên minh giai cấp là một tất yếu khách
quan của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, là một nội dung quan trọng

của chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản trong việc phân tích mâu
thuẫn giai cấp, tầng lớp để nhận biết đúng tình thế, thời cơ. Qua đó, xác định
đúng đối tượng, nội dung, nhiệm vụ liên minh, trong từng giai đoạn lịch sử
của cách mạng.
1.1.2. Tính tất yếu và nội dung của liên minh giai cấp
1.1.2.1. Về tính tất yếu của liên minh
Như đã nêu, liên minh giai cấp chính là sự phối hợp của các giai cấp,
tầng lớp xã hội trong cuộc đấu tranh giai cấp, đây là tất yếu khách quan của
xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Lịch sử xã hội đã chỉ ra rằng, trong các cuộc đấu tranh giai cấp, liên
minh giai cấp có vai trị to lớn, nhân sức mạnh đấu tranh lên nhiều lần. Nó
vừa làm cho lực lượng trong khối liên minh được tăng cường, vừa cô lập lực
lượng của phe đối lập. Khẳng định điều đó, trước đây khi tổng kết các cuộc
cách mạng 1848 - 1852 ở Pháp và Đức, đặc biệt là sau Công xã Pari 1871,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra việc xây dựng khối liên minh công - nông và
các tầng lớp lao động là nhiệm vụ quan trọng để tập hợp sức mạnh trong cách


15
mạng vô sản là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng vô sản. C.Mác
đã viết:
Công nhân Pháp không thể tiến thêm một bước nào và cũng không
thể đụng tới một sợi tóc nào của chế độ tư sản trước khi đông đảo
nhân dân đứng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản tức là nông
dân và giai cấp tiểu tư sản chưa nổi dậy chống lại sự thống trị của tư
sản, chưa bị tiến trình cách mạng buộc phải đi theo những người vô
sản như là đi theo đội tiên phong của mình [46, tr.26 - 27].
Luận điểm trên của C.Mác cho thấy, giai cấp công nhân nếu không liên
minh được với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động (trong đó
đặc biệt là tầng lớp trí thức) thì sẽ khơng thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của

mình. Bởi vì, cách mạng vơ sản để đi đến thành cơng, ngồi vai trị lãnh đạo
của giai cấp vơ sản thơng qua chính đảng của nó, cịn cần lực lượng cách
mạng để tạo nên sức mạnh to lớn. Do vậy, liên minh giữa cơng nhân, nơng
dân và trí thức là tất yếu khách quan của cách mạng vô sản, là nhiệm vụ quan
trọng của giai cấp công nhân trong cách mạng XHCN.
Lịch sử cho thấy, bất kỳ một xã hội có giai cấp nào cũng cần đến đội
ngũ trí thức, và trí thức có vai trị to lớn giúp giai cấp cầm quyền. Do đó, để
tập hợp lực lượng, giai cấp cơng nhân cần phải liên minh với đội ngũ trí thức.
Khẳng định điều này, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:
Sự nghiệp giải phóng giai cấp cơng nhân cần phải có những bác sỹ,
kỹ sư, nhà hố học, nơng học và các chun gia khác, vì vậy vấn đề
là phải nắm lấy quản lý khơng phải bộ máy chính trị mà cịn cả toàn
bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần nhiều đến kiến thức vững
chắc [50, tr.613-614].
Phát triển tư tưởng về liên minh giai cấp của C.Mác và Ph. Ăngghen,
V.I. Lênin coi liên minh giai cấp là nguyên tắc cơ bản của chun chính vơ
sản. Người chỉ rõ: Ngun tắc cao nhất của chun chính là duy trì khối liên


16
minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vơ sản có thể giữ được vai
trị lãnh đạo và chính quyền nhà nước. Theo V.I. Lênin, liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân không chỉ là nguyên tắc tối cao, quyết
định sự thành bại trong cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, mà
quan trọng hơn, đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng quyết định sự sống còn
để xây dựng và củng cố chính quyền, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Liên minh này khơng chỉ có vai trị to lớn trong thời kỳ
giành chính quyền mà cả trong thời kỳ cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Người chỉ rõ: “Chỉ khi nào nước ta đã điện khí hố, chỉ khi nào cơng nghiệp,
nơng nghiệp và vận tải đã đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại cơng nghiệp
hiện đại, thì lúc đó, chúng ta mới có thể đạt thắng lợi hồn tồn” [42, tr.195].

Theo Lênin, nền sản xuất đại cơng nghiệp tất yếu địi hỏi giai cấp cơng nhân
phải liên minh với trí thức, đó là “sự hợp tác của các đại biểu khoa học và
cơng nhân, chỉ có sự hợp tác như thế mới có thể thủ tiêu được tồn bộ nạn
nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu” và “Trước sự liên minh của các đại biểu
khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào
đứng vững được” [40, tr.218].
Trong điều kiện kinh tế - xã hội Nga sau Cách mạng tháng Mười năm
1917, V.I. Lênin đã đặc biệt coi trọng lợi ích của nơng dân, bởi đó là điều kiện thu
hút họ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố khối liên minh công nông.
Từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, và yêu cầu xây dựng lực lượng cách
mạng, đòi hỏi cần nhận thức đúng vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân, nơng
dân và trí thức. Điều đó địi hỏi, xây dựng và củng cố khối liên minh giữa
công nhân với nơng dân và trí thức là tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ
lên CNXH.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về liên minh giai cấp.
Tiếp thu chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam, từ thực tiễn cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln nhận thức rõ sức mạnh của nông dân, coi đây là lực


17
lượng cách mạng to lớn. Người khẳng định, cách mạng Việt Nam muốn đi
đến thắng lợi, phải biết lấy quần chúng công - nông làm gốc.
Một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, vấn đề dân tộc “thực
chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông
dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, và chính quyền nhân dân thực chất là
chính quyền của cơng - nơng” [55, tr.17-18]. Bởi vì, thời kỳ đó Việt Nam là
quốc gia với trên 90% số dân là nơng dân, nên việc giải phóng dân tộc về cơ
bản là giải phóng nơng dân; nền dân chủ nhân dân thực chất là chính quyền
của cơng - nơng, do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuẩn bị các tiền đề,

điều kiện để tiến lên CNXH. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, động lực
cơ bản của cách mạng Việt Nam là công nhân và nông dân; công - nông liên
minh là trụ cột của mọi sự tập hợp dân tộc, trong đó giai cấp cơng nhân là lực
lượng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, phải thực hiện cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ
có khối liên minh cơng - nơng, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo cách mạng
Việt Nam mới có thể đánh đổ các thế lực phản động, giành lấy chính quyền về
tay nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam muốn thành cơng thì
nhất thiết phải tập hợp, đồn kết được giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân đến các lực lượng “bầu bạn” khác thành khối thống nhất. Do đó, Người
đã chăm lo xây dựng khối liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức. Tuy
nhiên, để xây dựng khối liên minh thống nhất ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
trước hết phải có một cương lĩnh cách mạng đúng đắn để thắt chặt khối liên
minh công nhân - nơng dân. Vì vậy, ngay từ “Chánh cương vắn tắt” được
thông qua tại Đại hội thành lập Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã nêu khẩu
hiệu hành động: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “Làm


18
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”; “Dựng ra Chính phủ cơng nơng
binh”; “Tổ chức ra qn đội cơng nông”, “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo” [52, tr.553 - 554]. Đây là mục
tiêu chung của các giai cấp làm cách mạng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh rằng, khối đại đoàn kết
toàn dân tộc chỉ được tập hợp và phát huy mạnh mẽ khi giai cấp công nhân
nắm vai trị lãnh đạo. Vì, trong khối đại đồn kết toàn dân ấy, mỗi tầng lớp,
giai cấp tham gia, đều mưu cầu cho mình những lợi ích riêng. Do đó chỉ bằng
năng lực, uy tín của Đảng mới đủ khả năng thống nhất được lợi ích của các
giai cấp và lợi ích chung của tồn xã hội; Chỉ có chính Đảng cách mạng mới

tìm ra biện pháp, con đường đấu tranh để biến mục tiêu ấy thành hiện thực.
Khi đó, sức mạnh đồn kết của dân tộc được nhân lên, đủ sức đánh đổ kẻ thù,
giải phóng và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Công nhân và nông dân bao giờ cũng
là “gốc”, là “nền” của cách mạng. Nên, để có nền vững, gốc tốt cịn phải đồn
kết các tầng lớp nhân dân, đoàn kết tất cả những người thực sự u Tổ quốc,
u hồ bình, khơng phân biệt đảng phái, tôn giáo.
1.1.2.2. Về nội dung cơ bản của liên minh
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh về kinh tế là nội
dung hàng đầu trong liên minh giai cấp. Nên phải đẩy mạnh phát triển kinh tế,
từng bước gắn kết giữa công nghiệp với nông nghiệp, làm cho nông nghiệp
thực sự trở thành cơ sở để phát triển công nghiệp. Trước đây Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết:
Cơng nghiệp và nơng nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Nông
nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân
dân, cung cấp đủ ngun liệu (như bơng, mía, chè..) cho nhà máy.
Cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay…) để xuất khẩu đổi lấy
máy móc. Cơng nghiệp phải phát triển để cung cấp đủ hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy


19
bơm nước, phân hoá học, máy bừa cho các hợp tác xã nơng nghiệp.
Cơng nghiệp phát triển thì nơng nghiệp mới phát triển. Cho nên
công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát
triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và
nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là, thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung
sướng cho nhân dân [55, tr.544-545].
Không chỉ yêu cầu liên minh giữa công nhân và nơng dân, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong lực lượng cách mạng còn chú ý liên minh với trí
thức, đây là điều kiện để đảm bảo sự vững chắc cho khối liên minh. Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã viết:
Cách mạng cũng cần có trí thức…, trong sự nghiệp cách mạng,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một
vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí thức cần phải đồn
kết chặt chẽ thành một khối [54, tr.214 - 215]. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển
văn hoá của nhân dân. Những người trí thức của chúng ta đã đóng góp
một phần xứng đáng trong kháng chiến. Họ đã được Đảng luôn luôn
giúp đỡ để tiến bộ. Cho nên họ đi theo chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công
nhân đồn kết chặt chẽ với trí thức để giúp họ phục vụ cách mạng,
phục vụ chủ nghĩa xã hội [31, tr.165].
Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về liên minh giữa giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ khi nắm quyền lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta đã quyết tâm xây dựng và củng cố khối liên minh cơng
nhân, nơng dân và trí thức, coi đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã đưa ra quan điểm nhất quán rằng, lực
lượng cách mạng, ngoài hai giai cấp cơ bản là công nhân và nông dân cần đặc


20
biệt chú trọng tầng lớp trí thức. Đảng nêu rõ “… chính quyền dân chủ của
nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nơng
dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp cơng nhân lãnh đạo” [2,
tr.121]. Từ đó, Đảng ta luôn giải quyết nhiều vấn đề thực tiễn cách mạng
trong các giai đoạn một cách khoa học trên nền tảng lý luận về liên minh công
nhân, nông dân và trí thức của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn đất nước; luôn nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề,
củng cố được liên khối minh cơng nhân, nơng dân và trí thức. Do đó, Đảng đã
quy tụ và đồn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu

nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp.
Có thể khẳng định, với đường lối chính trị xây dựng và phát huy vai trò
của khối liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức, Đảng ta đã huy động
được sức mạnh đoàn kết toàn dân, vượt qua mn vàn khó khăn đánh thắng
hai kẻ thực dân lớn là Pháp và Mỹ. Thắng lợi đó làm sáng tỏ chân lý, một dân
tộc dù nhỏ, nhưng khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh
đạo của một chính Đảng cách mạng hồn tồn có thể giành độc lập. Thắng lợi
đó cũng đã chứng tỏ rằng, chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mới có thể
tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân đồn kết một lịng, cùng chung chí
hướng để đánh bại quân thù giành tự do, độc lập.
Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, một lần nữa, Đảng ta đã khẳng
định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết
hợp hài hịa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội” [19, tr.86].
Quan điểm trên của Đảng là bước phát triển tư duy lý luận về liên minh
công nhân, nơng dân và trí thức; là tìm thấy cơ sở nền tảng để xây dựng khối
liên minh công nhân, nông dân và trí thức; là giải quyết hài hồ quan hệ lợi
ích giữa các giai cấp.


21
Trên phương diện chính trị, để xây dựng và củng cố khối liên minh
cơng nhân, nơng dân và trí thức, Đảng ta xác định, mục tiêu: Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung cốt lõi để tạo sự thống nhất
giữa các giai cấp và tầng lớp; là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Để củng cố liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức trên lĩnh
vực chính trị, vấn đề cốt lõi là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dựa trên nền

tảng khối liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đảng nhấn mạnh: “… Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo” [16, tr.9]. Từ đó, Đảng ln quan tâm đổi mới biện pháp
quản lý của bộ máy nhà nước và Hệ thống chính trị nhằm mở rộng quyền
dân chủ của nhân dân.
Để bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở, Đảng
ta đã lãnh đạo nhà nước ban hành “Quy chế dân chủ ở cơ sở” (nay là Pháp
lệnh dân chủ ở cơ sở); phát huy vai trị của hệ thống chính trị để vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Đây là cơ sở quan trọng để củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng và phát huy sức mạnh của khối
liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức trong giai đoạn cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, lạc
hậu, vấn đề liên minh kinh tế giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức là một
“mắt khâu” xuyên suốt và là nền tảng củng cố khối đoàn kết thống nhất. Do
vậy, đòi hỏi phải kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế.


22
Trên thực tế, do nóng vội muốn đến sớm chủ nghĩa xã hội, trong cơ chế
cũ, chúng ta đã vấp phải một số sai lầm, nhất là sai lầm trong định hướng phát
triển ngành kinh tế, như chưa tạo ra cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý; chưa
tập trung đúng mức cho phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất
lương thực, thực phẩm; chưa kết hợp chặt chẽ nông, lâm, ngư nghiệp; chưa
gắn công nghiệp với nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến; chưa đầu tư
thỏa đáng cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nơng
nghiệp, và cơng nghiệp…Chính điều đó làm cho trình độ kỹ thuật của sản

xuất nơng nghiệp cịn rất thấp, chưa cung ứng đủ cơng cụ, vật tư cần thiết cho
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Sự hạn chế trên đã ảnh hưởng lớn đến đời
sống của đơng đảo nơng dân, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến khối liên minh
giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Khắc phục sai lầm chủ quan trên, Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi
mới, với việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Đó là giải pháp để mọi tầng lớp dân cư được mở rộng sản xuất
kinh doanh, từ đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khơi dậy khả năng
sáng tạo trong nhân dân; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đưa kỹ thuật
tiến bộ vào sản xuất nơng nghiệp. Chính đường lối đổi mới đúng đắn này đã
đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và tạo bước phát triển mới cho
đất nước. Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế, trong đó
trước hết là thực hiện CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn, với mục tiêu hiện
đại hố kinh tế nông nghiệp. Đây là biện pháp nhằm thực hiện tốt liên minh
kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức. Đảng ta đã đưa ra các quan điểm
chỉ đạo cơ bản, trong đó đặc biệt nhấn mạnh:
- Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phát triển cơng nghiệp, dịch vụ phải
gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.


23
- Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực
con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ; thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị
trường để sản xuất hàng hoá quy mơ lớn.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực
từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng

vững chắc.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn nhằm giải quyết việc làm,
xố đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển xã hội; nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hoá và thuần
phong mỹ tục.
- Kết hợp chặt chẽ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông
thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh
nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành và địa phương.
Các quan điểm trên thể hiện một cách toàn diện đường lối của Đảng về
liên minh kinh tế giữa các giai cấp; là tiền đề quan trọng để thực hiện mục
tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, biện pháp quan trọng nhằm thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các giai cấp, các khu vực trên con đường phát triển.
Thực tiễn chỉ rõ, các nội dung kinh tế, chính trị của liên minh giữa cơng
nhân, nơng dân và trí thức đều nhằm thực hiện các mục tiêu là đáp ứng ngày
càng tốt hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân; từng bước nâng
cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho các giai cấp cơng nhân, nơng dân
và trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác.


×