Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu là cần thiết và phù hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.33 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, quy định của pháp luật về chức năng đại diện
chủ sở hữu toàn dân của Nhà nước đối với đất đai đã từng bước được
hoàn thiện, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản
lý, sử dụng nguồn lực đất đai. Tuy nhiên, nội dung pháp lý về phương
diện chức năng này của Nhà nước vẫn tồn tại những bất cập, hạn
chế, khó khăn trong quá trình thực hiện, đặt ra yêu cầu cần thiết
phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện. Nhằm hiểu thêm về
vấn đề này, nhóm 3 lớp N01- TL1 xin được phép lựa chọn Đề bài số
3 trong đề cương bài tập nhóm làm đề tài nghiên cứu: "Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu là cần thiết và
phù hợp. Tuy nhiên, pháp luật cần phải tiếp tục có những chế
định mới được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
trên thực tế chế độ sở hữu này trong thời gian tới.”
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về chế độ sở hữu đất đai tại Việt Nam
hiện nay
1.1. Khái niệm đất đai
Đất đai là một loại tư liệu sản xuất có hạn và vơ giá chính bởi
con người khơng thể tạo ra hay tái tạo lại đất đai. Theo quan điểm
của luật học, đất đai là một khoảng không gian trải dài vô tận từ
trung tâm trái đất tới vô cực trên trời và liên quan đến nó là một loạt
các quyền lợi khác nhau quyết định những gì có thể thực hiện được
với đất. Với những đặc điểm riêng biệt về loại đất, độ dốc, độ dày
tầng đất mịn, lượng mưa, độ ẩm, điều kiện tưới tiêu nước, mỗi thửa
đất lại có sự khác nhau.
1.2. Khái niệm chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Để hồn thiện vai trị đại diện của chủ sở hữu và thống nhất
quản lí về đất đai của Nhà nước trong thời kì đầy mạnh hội nhập


quốc tế ngoài việc cần làm rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu toàn dân
và đại diện chủ sở hữu Nhà nước, xác định rõ cấu trúc, các chế định
về các quyền hạn, nhiệm vụ của đại diện chủ sở hữu..cần phải pháp
luật hóa quy định vai trị của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu
tồi cao, xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất
trong nền kinh tế thị trường hiện nay trong một chinh thể thống
1


nhất. Từ những chế định, lập luận trên ta có thể đưa ra khái niệm
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai như sau:
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm pháp lí
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ sở
hữu đất đai trong đó xác nhận, quy định và bảo vệ quyền đại diện
chủ sở hữu của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt đất đai”.1
1.3. Khái niệm cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà
Đảng Cộng Sản Việt Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được mô tả là một nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần với khu vực kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Là một sản phẩm của thời kì đổi mới, Kinh tế thị trường định hướng
XHCN là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng
thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh có sự điều tiết của
Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo 2.
1.4Sơ lược q trình phát triển, củng cố, hồn thiện chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai

Khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai ra đời lần đầu tiên với quy
định của Hiến pháp năm 1980: "Đất đai... là của Nhà nước đều thuộc
sở hữu toàn dân" (Điều 19). Với quy định này, Nhà nước chỉ thừa
nhận sự tồn tại một hình thức sở hữu duy nhất: Sở hữu toàn dân về
đất đai. Trong thời kỳ này, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua,
bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tơ dưới mọi hình thức. Việc sử
dụng đất đai bị “đóng khung" trong quan hệ giao đất - thu hồi đất
giữa người sử dụng đất với Nhà nước. Hậu quả là người nông dân
không thiết tha, gắn bó với mảnh đất họ đang sử dụng. Cơ chế giao
khốn ruộng đất cho hộ gia đình sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp theo Nghị quyết 10/NQ- TW của Bộ chính trị Ban chấp hành
trung ương Đảng ngày 05/4/1988 đã từng bước "cởi trói" và giải
phóng năng lực sản xuất cho người nơng dân.

1 Giáo trình Luật Đất Đai/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 72.
2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa/ owlapps

2


Tiếp đó, để phát huy mạnh mẽ thành quả mà cơ chế khoán 10
mang lại, Luật đất đai năm 1993 đã chính thức ghi nhận quyền sử
dụng đất ổn định, lâu dài của hộ gia đình, cá nhân và cho phép họ
được chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng. Mặc dù quy
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân song Luật đất đai năm 1993 vẫn
chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quan hệ sở hữu đất đai
mà chỉ quy định toàn dân là chủ sở hữu đất đai. Hơn nữa, Nhà nước
với tư cách là người đại diện cho tồn dân cũng khơng được pháp
luật xác định rõ có phải là người có quyền sở hữu đất hay không.
Khắc phục khiếm khuyết này, Luật đất đai 2003 sửa đổi, bổ

sung quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu. Tuy nhiên, Luật đất đai năm 2003 cũng mới chỉ đề cập
vai trò của Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai và thống nhất quản lý đất đai. Luật Đất đai 2013 ra đời đã
góp phần khắc phục những hạn chế còn tồn đọng và giải quyết các
vấn đề về đất đai trong tình hình mới. 3
2. Nội dung của quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai
2.1. Quyền chiếm hữu đất đai
Quyền chiếm hữu đất đai là quyền của Nhà nước với tư cách đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai nắm giữ toàn bộ vốn đất đai
trong phạm vi cả nước. Quyền chiếm hữu đất đai có vai trị rất quan
trọng vì nó là cơ sở đầu tiên để xác lập quyền sử dụng và quyền định
đoạt đất đai.
Dưới góc độ pháp lí, quyền chiếm hữu đất đai có ý nghĩa rất
quan trọng bởi lẽ nó là cơ sở đầu tiên để xác lập quyền sử dụng và
quyền định đoạt đất đai .
Nhà nước lại không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất mà lại trao
quyền chiếm hữu , sử dụng đất cho các tổ chức , hộ gia đình và cá
nhân sử dụng ổn định , lâu dài thơng qua các hình thức giao đất, cho
thuê đất, cho phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công
nhận quyền sử dụng đất .Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu đất
đai một cách gián tiếp thơng qua các hoạt động vừa mang tính kỹ
thuật, nhiệp vụ, vừa mang tính pháp lý như đo đạc, khảo sát đánh
giá và phân hạng đất để nắm được hiện trạng, sử dụng đất đai trên
phạm vi cả nước và từng địa phương; hệ thống hồ sơ địa chính, bản
đồ địa chính, sổ sách địa chính và các tài liệu địa chính khác để nắm
3 Xem thêm Giáo trình Luật Đất Đai/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 68- 72.

3



được sự phân bố đất đai, kết cấu sử dụng đất ở các địa phương; hoạt
động đăng ký quyền sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất đai… để
nắm được biến động đất qua các thời kỳ. Người sử dụng đất tuy
cũng có quyền chiếm hữu nhưng là chiếm hữu để sử dụng theo quy
định của Nhà nước.
Việc phân biệt giữa quyền chiếm hữu đất đai của Nhà nước với
tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai với quyền chiếm
hữu đất đai của người sử dụng đất dưới đây sẽ làm rõ hơn nhận định
trên đây về việc Nhà nước không mất đi quyền chiếm hữu đất đai
cho dù Nhà nước có thực hiện việc giao đất , cho thuê đất cho người
sử dụng đất sử dụng ổn định , lâu dài . Cụ thể :
+ Thứ nhất , Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu đất đai trên
cơ sở là đại diện chủ sở hữu tồn dân về đất đai . Cịn người sử dụng
đất thực hiện quyền chiếm hữu đất đai trên cơ sở quyền sử dụng đất
của mình . Điều đó có nghĩa là họ chiếm hữu đất đai khi được Nhà
nước giao đất , cho thuê đất để sử dụng . Hơn nữa , sự chiếm hữu
đất đai này đi liền với yêu cầu bắt buộc phải sử dụng đất , nếu người
sử dụng đất chiếm hữu đất đai mà không sử dụng đất , không được
sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất , cho thuê
đất cho phép thì họ sẽ bị thu hồi đất ( quyền chiếm hữu đất đai của
họ bị chấm dứt ) .
+ Thứ hai , nếu như quyền chiếm hữu đất đai của Nhà nước
với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai là gián tiếp ,
mang tính khái qt thì quyền chiếm hữu đất đai của người sử dụng
đất lại mang tính trực tiếp , cụ thể đối với từng mảnh đất nhất định
được xác định rõ diện tích , thời hạn và mục đích sử dụng .
2.2 . Quyền sử dụng đất đai
Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của
đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước .
Xét về khía cạnh kinh tế, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan
trọng vì nó làm thoả mãn các nhu cầu và mang lại lợi ích vật chất
cho các chủ sử dụng trong quá trình sử dụng đất. Với tư cách đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước không trực tiếp sử
dụng đất mà giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài nhưng Nhà nước không mất đi quyền sử dụng đất đai
của mình. Bởi vì, Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất bằng các
4


hình thức chủ yếu sau: Thơng qua việc xây dựng, xét duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất để phân định mục đích sử dụng cho
từng loại đất cụ thể; Thông qua việc xây dựng, ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật về quản lí và sử dụng đất buộc các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân phải thực hiện trong q trình sử dụng đất.
Điều này có nghĩa là thơng qua q trình sử dụng đất của người sử
dụng mà các ý tưởng sử dụng đất của Nhà nước sẽ trở thành hiện
thực; đồng thời, người sử dụng đất trong q trình sử dụng phải
đóng góp một phần lợi ích mà họ thu được từ việc sử dụng đất đai
dưới dạng những nghĩa vụ vật chất cho Nhà nước thơng qua hình
thức như nộp thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản là nhà, đất, nộp lệ phí địa chính, lệ phí trước bạ, nộp tiền
sử dụng đất.
2.3 Quyền định đoạt đất đai
Quyền định đoạt đất đai là quyền quyết định số phận pháp lí
của đất đai. Đây là quyền rất quan trọng và chỉ có Nhà nước với tư
quyền định đoạt đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai mới được thực hiện quyền định đoạt đất đai.
Đất đai là tài sản đặc biệt khác với tài sản thông thường nên

Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực
hiện quyền định đoạt đất đai không giống với việc định đoạt tài sản
của các chủ sở hữu khác. Trong luật dân sự, các chủ sở hữu thường
chấm dứt quyền sở hữu chủ của mình đối với vật bằng việc quyết
định số phận pháp lí và số phận thực tế thơng qua các giao dịch dân
sự mà hình thức pháp lí là những hợp đồng dân sự như hợp đồng
mua bán, tặng cho tài sản vv .. Còn Nhà nước với tư cách là đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai chỉ được thực hiện việc quyết định số
phận pháp lí của đất thơng qua các hình thức pháp lí là quyết định
giao đất, cho th đất, cơng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất
v.v. chứ không có quyền định đoạt số phận thực tế của đất đai. Dù
đất đai đã được giao cho bất kì tổ chứ, cá nhân nào sử dụng thì trên
thực tế vẫn thuộc sở hữu của toàn dân và chịu sự quản lí của Nhà
nước. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai bằng các phương
thức chủ yếu như qua các hành vi giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất nhằm thực hiện việc phân chia một cách hợp lí vốn đất đai
đáp ứng các nhu cầu sử dụng đất của xã hội; quyết định mục đích sử
dụng của từng loại đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy
5


hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất và chỉ có cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mới được phép thay đổi mục đích sử dụng đất;
quy định về hạn mức sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất nhằm
đảm bảo cho việc sử dụng đất đai của các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân vừa có tính hợp lí và vừa mang tính ổn định, lâu dài….
Tóm lại, chi có Nhà nước với vai trị đại diện chủ sở hữu tồn
dân về đất đai mới có quyền định đoạt đất đai. Các tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân là người sử dụng đất được Nhà nước bảo hộ các

quyền và lợi ích hợp pháp nhưng khơng có quyền định đoạt đất đai.
Mọi hành vi xâm phạm đến quyền định đoạt đất đai của Nhà nước
thì sẽ căn cứ vào tính chất và mức độ vi phạm của hành vi mà Nhà
nước quyết định các biện pháp xử lí thích đáng, phù hợp quy định
của Luật đất đai năm 2013.
3. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu
tồn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu là
cần thiết và phù hợp.
3.1 Cơ sở của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn về đất đai ở Việt
Nam
Trước đây, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đều thừa
nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai. Sau khi
Hiến pháp năm 1980 ra đời với quy định đất đai là của Nhà nước
thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19), pháp luật chỉ thừa nhận một hình
thức sở hữu đất đai duy nhất: Sở hữu toàn dân về đất đai. Hình thức
sở hữu đất đai này tiếp tục được Hiến pháp năm 1992 khẳng định tại
Điều 17 và Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại Điều 53. Như vậy ở
Việt Nam, quan hệ đất đai mang những nét đặc thù nhất định. Vậy
dựa vào những cơ sở lý luận và thực tiễn nào mà Hiến pháp năm
1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 lại quy định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Việc
nghiên cứu một số luận điểm khoa học của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai thời gian qua cũng như tìm hiểu một số đặc trưng của chế
độ chiếm hữu ruộng đất ở Việt Nam thời phong kiến chính là cơ sở
của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn về đất đai ở Việt Nam. 4

4 Giáo trình Luật Đất Đai/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 32.


6


3.2. Vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai là hoàn toàn phù hợp.
Như đã phân tích ở phần trên, kể từ khi chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai ra đời, trong tất cả các văn bản pháp luật của Nhà nước
cũng như các văn kiện của Đảng trước khi Luật đất đai năm 2003
được ban hành đều không xác định rõ Nhà nước có phải là người đại
diện chủ sở hữu tồn dân về đất đai hay khơng. Các văn bản này
đều dừng lại ở việc quy định đất đai là của toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lí. Chính việc khơng xác định rõ vai trị của Nhà
nước trong quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai đã dẫn đến việc
bng lỏng cơng tác quản lí đất đai, dẫn đến việc đất đai bị sử dụng
không đúng mục đích, lãng phí; gây nên tình trạng bn bán đất đai
kiếm lời hoặc gây thiệt hại, thất thoát tài sản quốc gia và không đảm
bảo nguyên tắc công bằng xã hội trong sử dụng đất; giao, cho thuê
đất, thu hồi đất không đúng quy định của pháp luật... Để khắc phục
những hạn chế này, góp phần duy trì sự ổn định chính trị và làm
lành mạnh hố các quan hệ đất đai… Luật đất đai năm 2013 được
ban hành đã có các quy định cụ thể về vai trò của Nhà nước trong
lĩnh vực sở hữu đất đai. Những quy định này góp phần hồn thiện
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta. Cụ thể:
Thứ nhất, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm đất đai
thuộc sở hữu toàn dân được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 1987, Luật
đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 1998, năm 2001 và Luật đất đai năm 2003. Luật đất đai
năm 2013 đã kế thừa quy định của Luật đất đai năm 2003 “Đất đai

thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu" (khoản 1
Điều 5). Đồng thời, bổ sung quy định quyền đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai của Nhà nước với trách nhiệm quản lí đất đai của Nhà
nước.
Thứ hai, khơng chi xác định rð vai trò là người đại diện chủ sở
hữu, Luật đất đai năm 2013 còn quy định cụ thể cho Nhà nước thực
hiện quyền định đoạt đất đai thông qua các biện pháp như sau: i)
Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; ii) Quyết
định mục đích sử dụng đất; iii) Quy định hạn mức sử dụng đất, thời
hạn sử dụng đất; iv) Quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất; v)
Quyết định giá đất; vi) Quyết định trao quyền sử dụng đất cho người
7


sử dụng đất; vii) Quyết định chính sách tài chính về đất đai; viii) Quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Thứ ba, với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai,
Nhà nước quyết định chính sách tài chính về đất đai; cụ thể: - Quyết
định chính sách thu, chi tài chính. - Nhà nước điều tiết phần giá trị
tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang
lại thơng qua chính sách thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đầu tư
cơ sở hạ tầng và chính sách hỗ trợ cho người có đất thu hồi. Đây là
một chính sách tài chính mới về đất đai, lần đầu tiên được Luật đất
đai năm 2003 đề cập và được Luật đất đai năm 2013 kế thừa và bổ
sung. Chính sách này ra đời dựa trên những địi hỏi bức xúc về việc
thực hiện công bằng xã hội trong sử dụng đất đai và tham khảo kinh
nghiệm về quản lí đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường của một
số nước khác như: Đài Loan, Trung Quốc, Pháp. Bởi lẽ, mặc dù pháp
luật quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất
quản lý song trên thực tế, toàn dân với tư cách là cộng đồng chủ sở

hữu lại không được hưởng các lợi ích do hình thức sở hữu tồn dân
về đất đai hoặc sự đầu tư của xã hội vào đất đai mang lại; những lợi
ích này lại rơi vào túi của một nhóm người. Điều này đang gây ra sự
phản ứng, bất bình trong xã hội.
Thứ tư, Luật đất đai năm 2013 đã phân biệt rõ ràng, rành
mạch quyền đại diện chủ sở hữu đất đai với trách nhiệm của Nhà
nước đối với đất đai.Việc phân biệt rõ nhằm tăng cường trách nhiệm,
vai trò của Nhà nước cũng nhu nâng cao hiệu quả công tác quản lý
Nhà ước về đất đai trong bối cảnh hiện nay.
4. Vấn đề xây dựng, củng cố và hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế chế độ sở hữu này
trong thời gian tới.
4.1 Thực tiễn việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở
nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta việc thể chế hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
trong Hiến pháp và Luật Đất đai đã nhận được sự đồng tình, nhất trí
cao trong nhân dân, thực hiện chế đọ tồn dân về đất đai đã tránh
được hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra nhất là trong
nền kinh tế thị trương định hướng xã hội chủ nghĩa5.
5 Bài viết: Chế độ sở hữu toàn dân là gì? Phân tích chế độ sở hữu tồn dân về đất đai- Luật Dương
Gia

8


Bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận của hình thức
sở hữu đất đai này mang lại, thực tiễn việc thực hiện chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cịn có những hạn chế và bất cập. Trong thời
gian qua, ở nước ta nảy sinh một số hạn chế trong quản lý, sử dụng

đất đai, song những hạn chế đó khơng phải do bản chất của chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai gây ra:
Mặc dù hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về
tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, song cũng khơng thể
thực hiện trọn vẹn đa hình thức sở hữu về đất đai.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường dẫn đến nhu cầu tư nhân
hóa về quyền sử dụng một bộ phận đất đai, điều này cũng tác động
làm biến dạng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Trong chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai và quá trình phát triển kinh tế thị trường,
chủ thể sở hữu đất đai luôn luôn tách rời khỏi người sử dụng đất.
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cố gắng duy trì quyền sở hữu của
mình bằng cách can thiệp vào quá trình sử dụng. định đoạt đất đai.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự can thiệp một cách chủ động của Nhà
nước đã và đang dần dần bị hạn chế bởi chính các yếu tố thị trường,
từ đó làm phá vỡ các quy hoạch và kế hoạch chủ động của Nhà nước
về đất đai, buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên
thay đổi các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã ban hành, làm cho
chính sách về đất đai bất ổn, gây khó khăn cho các đối tượng được
giao quyền sử dụng đất.
Việc lạm dụng quyền hạn trong quản lý đất đai tại các địa
phương thường xảy ra ở các lĩnh vực quy hoạch sử dụng đất; thu hồi
quyền sử dụng đất của người dân, đề xây dựng các dự án công
nghiệp và thương mại. Việc nhận thức và vận dụng khơng đúng chế
độ sở hữu tồn dân về đất đai trong thời gian qua đã dẫn đến sự
lãng phí về đất đai, gây thiệt hại cho người sử dụng đất, đồng thời
nảy sinh những tiêu cực, mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực này. Từ
đó dẫn đến sự hồi nghi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, nảy sinh
ý kiến đòi hỏi phải thay đổi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Trong thời gian qua, ở nước ta nảy sinh một số tiêu cực, hạn chế

trong quản lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực đó
khơng phải do bản chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây
ra. Những hạn chế, tiêu cực đó một mặt, do sự yếu kém trong quản
9


lý đất đai của Nhà nước ta, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều
thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai cịn
một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực
đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai cịn khơng ít hạn chế, yếu kém,
một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham
nhũng; mặt khác, do nước ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử
khác nhau, đất đai có nguồn gốc rất phức tạp.
Cơ chế, chính sách pháp luật về đất đai không ổn định và quá
nhiều mâu thuẫn, chồng chéo. Chế định sở hữu toàn dân về đất đai
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đất nước trong q trình thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện: Nước ta có hơn 70% là
nơng dân và nơng thôn. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao
trong nền kinh tế. Nhưng pháp luật đất đai nước ta mấy thập kỷ qua
có rất nhiều biến động dẫn đến khiếu nại, tranh chấp đất đai ngày
càng tăng, chiếm hơn 70% số vụ khiếu kiện, nhiều nơi trở thành
điểm nóng.
4.2 Sự cần thiết về vấn đề Pháp luật cần phải tiếp tục có những chế
định mới được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trên thực
tế chế độ sở hữu này trong thời gian tới.”
Vấn đề chế độ sở hữu đất đai toàn dân được coi như cốt lõi của
thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) mà Việt Nam đang xây dựng. Có những ý kiến, quan điểm
khác nhau và thậm chí trái chiều xung quanh vấn đề chế độ sở hữu
đất đai toàn dân. Tuy nhiên, dù là theo quan điểm nào thì chúng ta

cũng thấy được sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn
thiện sở hữu toàn dân đối với đất đai trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xét về mặt lí luận, trong tất cả các cuộc cách mạng thì vấn đề
chính quyền và vấn đề sở hữu ln ln chiếm vị trí trung tâm: “Từ
trước tới nay, tất cả mọi cuộc cách mạng đều là những cuộc cách
mạng nhằm bảo hộ một loại sở hữu” (Ph.Ăngghen ) Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề sở hữu, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật đề cập vấn đề sở
hữu nói chung và sở hữu đất đai nói riêng. Những chủ trương, chính
sách này được thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng, nghị
quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng, Hiến pháp và các đạo
luật đất đai ...6
6 Giáo trình Luật Đất Đai/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 51

10


Ở nước ta, khái niệm quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai lần
đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục được
khẳng định tại Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Cương
lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên CNXH
năm 2011, .... Tuy nhiên đứng trước nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc tiếp tục xây dựng,
củng cố và hoàn thiện sở hữu toàn dân đối với đất đai trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vô cùng
quan trọng
Thứ nhất, nội dung những quy định trên làm nảy sinh một số
mâu thuẫn:
i) Tồn dân là một khái niệm chính trị và theo Lý luận Nhà nước và

Pháp luật, toàn dân không phải là một chủ thể của quan hệ pháp
luật nhung lại là chủ thể của quyền sở hữu đất đai;
ii) Toàn dân là chủ sở hữu đất đai nhưng lại không thực hiện quyền
định đoạt đất đai với tư cách chủ sở hữu mà giao cho người đại diện
là Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai;
iii) Pháp luật nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai mà
chỉ cho phép người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất
trong thời hạn sử dụng đất song trong các quy định của Luật đất đai
năm 2013 khơng có quy định về giá chuyển nhượng quyền sử dụng
đất mà chỉ có quy định về giá đất v.v.
Vậy vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là toàn dân trao quyền
đại diện chủ sở hữu đất đai cho Nhà nước theo cơ chế nào (cơ chế
trực tiếp hay cơ chế gián tiếp); việc giám sát, kiểm soát việc thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện như thế nào để phòng chống
tham nhũng, tiêu cực hoặc vì lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong giao
đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; toàn dân bao gồm những đối tượng cụ
thể nào và cần phải hiểu Nhà nước như thế nào với vai trò đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai; cần xác lập cơ chế định giá đất như
thế nào để đảm bảo sự công bằng, khách quan và xác định đúng,
chính xác giá trị của đất đai...
Thứ hai, pháp luật đất đai mới tiếp cận vấn đề sở hữu toàn
dân đối với đất đai chủ yếu theo khía cạnh kinh tế, tức là xem xét
đất đai với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông
11


nghiệp, lâm nghiệp. Cũng đều xuất phát từ nhận thức đất đai là tư
liệu sản xuất đặc biệt song pháp luật ở mỗi giai đoạn lịch sử phát

triển đất nước khác nhau lại xử lí quan hệ đất đai theo những cách
thức khác nhau. Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, đất đai được quản lí rất chặt chẽ và pháp luật ở thời kì
đó nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai, phát cạnh
chức chính trị - quyền lực đại diện cho cộng đồng tồn xã hội thực
hiện quyền quản lí đất đai - tài sản quý giá nhất của cộng đồng; ở
nước ta, Nhà nước - người đại diện chân chính của nhân dân, của
cộng đồng, có đầy đủ tư cách để trở thành người đại diện chủ sở hữu
toàn dân đối với đất đai; đất đai còn là yếu tố cơ bản của môi trường
sống tự nhiên của con người nên việc quản lí đất đai cũng mang
những nét riêng biệt khơng giống với việc quản lí các tài sản khác.
Pháp luật đất đai dường như chưa làm rõ những nội dung cụ thể về
quyền của Nhà nước trên ba phương diện này.
Thứ ba, sở hữu toàn dân về đất đai được Hiến pháp năm 2013
và Luật đất đai năm 2013 ghi nhận. Tuy nhiên, quy định về các hình
thức sở hữu của Bộ luật dân sự năm 2005 lại khơng đề cập đến sở
hữu tồn dân về đất đai. Điều này dường như tồn tại sự bất tương
thích; bởi lẽ, đất đai trước hết là tài sản (cho dù là tài sản đặc biệt đi
chăng nữa), vì vậy, sở hữu đất đai phải nằm trong phạm trù khái
niệm các hình thức sở hữu tài sản mà Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định. Sự bất tương thích này đã được Bộ luật dân sự năm 2015 (sửa
đổi) quy định và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2017.
Thứ tư, với tính chất đặc biệt của quan hệ đất đai, có thể thấy
rằng trong tất cả các chế độ và hình thức quan hệ sở hữu đất đai
đều có những yếu tố phản ánh lợi ích chung của quốc gia, Nhà nước,
cộng đồng và của mọi người dân. Khi đề cập tới một chế độ (hay một
hình thức) sở hữu phải xem xét tổng hợp 3 phương diện sau:
i) Chủ thể sở hữu;
ii) Các quyền của chủ thể sở hữu;
iii) Hình thức thực hiện quan hệ sở hữu. Khi xác định chủ thể sở hữu

là “toàn dân”, nhưng “toàn dân” lại không phải là một pháp nhân
hay một thể nhân và do đó khơng pháp định, luật định được rõ
quyền của chủ sở hữu “toàn dân” là thế nào ? “toàn dân” (trong đó
có mỗi người dân) thực hiện các quyền của chủ thể sở hữu (trước hết
là các quyền định đoạt, quyền sử dụng, quyền hưởng lợi...) một cách
12


cơng bằng và bình đẳng như thế nào? Ở đây, quyền của “toàn dân”
bảo vệ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước;
chứ không phải nhằm xác lập các hình thức sở hữu nặng về hình
thức nhưng kém hiệu quả thực tế.
Thứ năm, với các quy định hiện hành, quyền sử dụng đất được
thừa nhận có giá và tham gia giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên,
pháp luật lại chưa chính thức ghi nhận quyền sử dụng đất là tài sản
được Nhà nước bảo hộ7.
5. Kiến nghị hoàn thiện đổi mới quy định của pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai trong thời gian tới.
Trong thời gian qua, quy định của pháp luật về chế độ sở hữu
toàn dân của Nhà nước đối với đất đai đã từng bước được hoàn
thiện, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thực thi
chế độ sở hữu toàn dân. Tuy nhiên, nội dung pháp lý về phương diện
này của Nhà nước vẫn tồn tại một số bất cập, hạn chế, khó khăn
trong quá trình thực hiện, đặt ra yêu cầu cần thiết phải tiếp tục sửa
đổi, bổ sung để hoàn thiện.
Trong thực tế vận hành của sở hữu đất đai toàn dân ở nước ta
thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế và tiêu cực, nhất là tình
trạng lạm quyền, tham nhũng, sử dụng kém hiệu quả và lãng phí về
đất đai. Điều này chủ yếu là do chưa xác định rõ nội dung kinh tế

của các quyền và cơ cấu chủ thể sử dụng cũng như cơ chế vận hành
phù hợp với chế độ sở hữu đất đai toàn dân.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chưa làm tốt một số vấn đề của
chủ thể sở hữu và chủ thể quản lý nền kinh tế, mà buông lỏng để
cho “cá nhân” hay “nhóm lợi ích” chi phối sở hữu đất đai tồn dân.
Điều đó khiến sở hữu đất đai tồn dân trong một số trường hợp chỉ
còn là khái niệm pháp lý tượng trưng mà mất đi ý nghĩa, bản chất
của nó.
Để hồn thiện các quy định về chế độ sở hữu toàn dân cần tuân theo các quy định
của Hiến pháp và kế thừa những quy định tích cực trong hệ thống văn bản pháp luật
đất đai. Đồng thời sửa đổi pháp luật theo hướng đáp ứng các nhu cầu trong giai đoạn
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiếp thu những điểm tiến bộ trong pháp luật
thế giới.

7 Giáo trình Luật Đất Đai/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr. 53-57.

13


Thứ nhất, còn một số quy định chung về chức năng đại điện chủ sở hữu của nhà
nước đối với đất đai chưa được rõ ràng, gây khó hiểu cho người dân. Tại Điều 1 Luật
Đất đai năm năm 2013 quy định: “Luật này quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền
hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống
nhất quản lý về đất đai…”. Việc sử dụng thuật ngữ “chế độ sở hữu” trong quy định
này tạo ra sự không thống nhất với các quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến pháp
và Bộ luật Dân sự hiện hành. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện
nay khơng có quy định về “ chế độ sở hữu” mà chỉ có quy định về “ hình thức sở hữu”.
Hơn nữa, khái niệm “chế độ sở hữu” là một nội dung khái quát và trừu tượng, khó xác
định về mặt nội hàm, chính vì vậy việc chuyển hóa nó vào các văn bản pháp luật gần
như là bài tốn khó có lời giải đúng 8. Qua những nội dung phân tích trên, trong quy

định về phạm vi điều chỉnh, cần có sự thống nhất giữa Luật Đất đai năm 2013 với các
pháp luật khác.
Ngoài ra, việc quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai năm 2013 gồm đồng
thời các nội dung “chế độ sở hữu đất đai” và “quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai…” đã vơ tình
dẫn đến sự trùng lặp khơng cần thiết, bởi vì nội dung “quyền hạn và trách nhiệm của
Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai” là
một bộ phận trong nội hàm của “chế độ sở hữu đất đai” ở nước ta hiện nay 9.
Thứ hai, kiến nghị về phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai và các luật khác có liên
quan đến đất đai. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai phải được cụ thể hóa chủ yếu
trong Luật đất đai, ngồi ra cịn thể hiện trong các luật khác có liên quan, cụ thể là:
Luật khoáng sản, Luật thủy sản, Luật biển điều chỉnh phần đất có mặt nước biển thuộc
chủ quyền, thềm lục địa thuộc phần có đặc quyền kinh tế v.v...Phần thực hiện quyền
địa dịch và phần quyền của người sử dụng đất nghiên cứu quy định thuộc phạm vi
điều chỉnh của Bộ luật dân sự như một loại tài sản đặc biệt v.v...
Thứ ba, Quy định “Quyết định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất”
trong Luật Đất đai năm 2013 là chưa hồn tồn chính xác, không phù hợp với quy
định của Hiến pháp năm 2013. Luật Đất đai năm 2013 sử dụng thuật ngữ “trao quyền
sử dụng đất” để bao hàm cả ba hình thức là giao quyền sử dụng đất, cho thuê quyền sử
dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất là chưa chính xác. Bởi lẽ, thuật ngữ “trao”
chỉ đúng với trường hợp Nhà nước giao đất và cho thuê đất, cịn trường hợp Nhà nước
cơng nhận quyền sử dụng đất mà sử dụng thuật ngữ “trao quyền sử dụng” thì khơng
chính xác cả về nội dung, bản chất cũng như hình thức pháp lý. Từ những phân tích
trên, chúng tơi cho rằng, cần bổ sung quy định để chi tiết hóa, làm rõ hơn quyền
8 Lê Hồng Hạnh, Mục đích chính sách của Bộ luật Dân sự và ảnh hưởng của nó tới những nguyên
tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự, Tạp chí Luật học, số 9/2014, tr. 16-24.
9 Phạm Thị Hương Lan (Chủ biên), Bình luận khoa học Luật Đất đai (năm 2013), Nxb. Lao động, Tp.
Hồ Chí Minh, 2018, tr.05.

14



“Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước”. Đồng thời,
để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai một cách hữu hiệu, cần xây dựng cơ chế
hướng tới việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai chủ yếu bằng con đường
Tịa án, thơng qua các thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Thứ tư, Nhà nước cần có kế hoạch sử dụng đất lâu dài, cụ thể và công tác quy
hoạch việc sử dụng đất phải được thực hiện có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Quy
hoạch phải được công khai. Trong việc quy hoạch phải có q trình tham gia ý kiến
của nhân dân, tránh tình trạng thiếu cơng khai là một trong những nguyên nhân của tệ
nạn tham nhũng, hối lộ gây nhiều bức xúc trong suốt thời gian vừa qua.
Thứ năm, Nhà nước cần quy định rõ ràng hơn các hình thức sử dụng và thời hạn
sử dụng đất đai, tạo thủ tục pháp lý thuận lợi để các cá nhân và tổ chức được mua bán
quyền sử dụng đất đai. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai và về
tài sản gắn liền với đất để làm cho các quyền sử dụng về đất đai và quyền sở hữu bất
động sản được vận động theo cơ chế thị trường, làm cho việc vốn hóa quyền sử dụng
đất đai trở nên thuận lợi, kích thích việc tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hóa lớn.
Thứ sáu, có những bất cập trong quy định về các cơ quan nhà nước thực hiện
chức năng đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai cần xem xét và sửa đổi.
Một trong những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng của Luật Đất đai năm
2013 là quy định rõ hơn vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy
nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chưa quy định thực sự rõ ràng, thống nhất và khoa học
về chủ thể thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Cụ thể
như sau:
Một là, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thực hiện quyền của chủ sở hữu
đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu
toàn dân”10 và “Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích,
hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân”. Quy định này sẽ dẫn đến cách

hiểu: Chính phủ cũng chính là cơ quan thực hiện trách nhiệm của Nhà nước với tư
cách đại diện chủ sở hữu trong việc thống nhất quản lý đất đai. Điều này là chưa chính
xác bởi vì hệ thống cơ quan quyền lực từ trung ương đến địa phương (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp) cũng có trách nhiệm và đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong
quản lý đất đai. Ngoài ra, việc quy định về trách nhiệm “thống nhất quản lý” của đại
diện chủ sở hữu trong nội dung “thực hiện quyền của chủ sở hữu” như trên là khơng
phù hợp. Cách quy định đó khiến cho vai trò của Nhà nước trong quản lý đất đai
không được thể hiện rõ ràng, đầy đủ ở cả hai phương diện: (1) Nhà nước quản lý đất
10 Điều 198 Bộ luật Dân sự năm 2015

15


đai với tư cách là người đại diện của chủ sở hữu về đất đai; (2) Nhà nước thực hiện vai
trò quản lý đất đai xuất phát từ chức năng của một tổ chức quyền lực và quan hệ đất
đai là một lĩnh vực xã hội mà nó phải điều tiết .
Hai là, Mục 2 Chương 2 (từ Điều 22 đến Điều 28) Luật Đất đai năm 2013 quy
định về trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai chưa hợp lý vì chỉ mới đề cập đến
chủ thể thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai là Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp và cơ quan quản lý chuyên ngành đất đai thực hiện mà chưa có quy định
rõ ràng, cụ thể về những cơ quan trực tiếp thực thi trách nhiệm của Nhà nước đối với
đất đai ở cả hai khía cạnh: trách nhiệm của Nhà nước với chủ sở hữu “toàn dân” và
trách nhiệm của Nhà nước với người sử dụng đất (bên thứ ba trong quan hệ đại diện
chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai).
Ba là, khoản 3 Điều 21 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy
định tại Luật này”. Quy định này mới xác định một cách chung nhất về thẩm quyền
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đất đai của Chính phủ và Ủy ban nhân dân
các cấp mà chưa rõ về nội dung, phạm vi thẩm quyền của từng cơ quan này. Bên cạnh
đó, việc xác định thẩm quyền của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp “theo quy định

tại Luật này” là thiếu hợp lý bởi vì thẩm quyền của Chính phủ, Ủy ban nhân dân trong
lĩnh vực đất đai còn được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Do vậy, nếu
chỉ giới hạn phạm vi thẩm quyền đại diện của các cơ quan này trong Luật Đất đai năm
2013 thì khơng đảm bảo sự khái qt, tồn diện cũng như dẫn đến sự không thống
nhất với quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác 11.
Từ những bất cập, hạn chế trên, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi Điều 198 Bộ luật
Dân sự năm 2015, theo hướng bỏ khoản 2, đồng thời bổ sung quy định cụ thể trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện trách nhiệm của Nhà nước với vai trò
đại diện chủ sở hữu đất đai; bổ sung quy định cụ thể thẩm quyền đại diện chủ sở hữu
đất đai của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; sửa đổi khoản 3 Điều 21 theo
hướng bổ sung cụm từ “và pháp luật liên quan’ vào cụm từ ‘theo quy định tại Luật
này” để đảm bảo sự khái quát, toàn diện và thống nhất trong các quy định của pháp
luật 12.
Không những thế, để khắc phục những bất cập hiện có, chúng tơi cho rằng, các
quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai trong Luật Đất đai năm 2013
cần được sửa đổi theo hướng, quy định tách bạch hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước
11 Nguyễn Quang Tuyến, Bàn về vấn đề SHTD đối với đất đai ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, Số 9, tháng 9/2013, tr. 44-49.
12 Khoản 6 Điều 8 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ trong thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với các tài sản công thuộc SHTD sử dụng
cụm từ “…theo quy định pháp luật”; khoản 3 Điều 28 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 quy định về trách nhiệm, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong liên quan đến lĩnh
vực đất đai cũng sử dụng cụm từ “…theo quy định pháp luật”.

16


đối với đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai và tư cách quản lý nhà nước
về đất đai; nghiên cứu thiết kế mỗi nội dung ở một điều luật khác nhau; rà soát để loại
bỏ những nội dung còn trùng giẫm trong quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối

với đất đai; bổ sung các quy định: trách nhiệm của Nhà nước lấy ý kiến đóng góp của
nhân dân đối với chính sách, pháp luật đất đai; trách nhiệm của Nhà nước chịu sự
giám sát, đánh giá của nhân dân; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi trưng dụng
đất.
Hơn nữa, cần hoàn thiện các quy định pháp luật và cơ chế thực
hiện, bảo vệ trên thực tế QSDĐ trao cho hộ gia đình, cá nhân, các tổ
chức kinh tế theo hướng: Mở rộng hạn mức sử dụng đất, hạn mức
nhận chuyển nhượng QSDĐ và thời hạn sử dụng đất nhằm thúc đẩy
tích tụ ruộng đất - có thể nâng thời hạn giao đất nông nghiệp cho
nông dân lên 50-100 năm; với đất trồng cây lâu năm, cây công
nghiệp, đất khai hoang không hạn chế quy mô và thời hạn sử dụng
đất. Đồng thời mở rộng quyền của người sử dụng đất về thực chất,
quyền này được pháp luật bảo hộ như một thứ quyền tài sản cơng
dân, để làm tăng tính pháp lý trong các hoạt động giao dịch đất đai,
tạo điều kiện thuận lợi phát triển thị trường QSDĐ. Quy định nghĩa
vụ của người sử dụng đất chỉ phải tuân theo pháp luật, quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước và được bảo hộ trong mọi
trường hợp, đảm bảo rằng các giao dịch chuyển nhượng hoặc thu hồi
QSDĐ đã được giao cho các chủ sử dụng đất hợp pháp (người dân, tổ
chức và doanh nghiệp) là các giao dịch dân sự và tuân theo nguyên
tắc thị trường, thỏa thuận giữa các bên về giá.

C. KẾT LUẬN
Nếu pháp luật về đất đai ở nước ta được củng cố và hoàn thiện thì
chế độ sở hữu đất đai tồn dân sẽ được kiện toàn, củng cố một bước
quan trọng trong thực tế, phù hợp hơn với thể chế KTTT thế giới
trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Xét về phía Nhà nước sẽ đảm bảo
thực quyền và lợi ích của chủ thể sở hữu và quản lý đất đai toàn
dân; về phía người dân, tổ chức và doanh nghiệp cũng sẽ có được
thực quyền và lợi ích của chủ thể sử dụng đất. Khi đó, đất đai sẽ có

chủ sở hữu và chủ sử dụng xác định, hạn chế đáng kể tệ tham
nhũng, lãng phí, kém hiệu quả sử dụng đất, đồng thời cũng làm lành

17


mạnh hóa quan hệ đất đai và giảm bớt các khiếu kiện bức xúc hiện
nay trong lĩnh vực quản lý đất đai - tài nguyên ở nước ta.
Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức thực thi chế định sở hữu tồn dân
về đất đai cịn bộc lộ một số bất cập và hạn chế nhất định. Bên cạnh
đó, yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những nội
dung mới cho chế định sở hữu đất đai, để đảm bảo tính kế thừa và
duy trì sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện
nay, chúng ta cần đánh giá những thành tựu và nhận diện một số
hạn chế, bất cập của chế định sở hữu toàn dân về đất đai để từ đó
có những giải pháp khắc phục. Từ đó tiến đến xây dựng hệ thống
pháp luật về đất đai hợp lý, nghiêm ngặt, có thế giải quyết được
những vấn đề thực tiễn, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất
nước trong thời kỳ đổi mới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật đất đai, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an
nhân dân.
2. Luật Đất Đai 2013
3. Bộ Luật Dân sự 2015.
4. Phạm Thị Hương Lan (Chủ biên), Bình luận khoa học Luật Đất đai
(năm 2013), Nxb. Lao động, Tp. Hồ Chí Minh, 2018, tr.05.

18



5. Lê Hồng Hạnh, Mục đích chính sách của Bộ luật Dân sự và ảnh
hưởng của nó tới những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự, Tạp
chí Luật học, số 9/2014, tr. 16-24.
6. Bài viết Tạp chí: “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai - Một vấn đề
cần kiên quyết thực hiện” / Nguyễn Minh Tuấn , Cộng sản.Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam,Số 4/2013, tr. 58 - 62.
7. Bài viết Tạp chí: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai ở Việt Nam”/ Nguyễn Đình Kháng, Cộng
sản.Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số 11/2013, tr. 51 - 55.
8. Bài viết Tạp chí: “Cấu trúc sở hữu toàn dân về đất đai và vấn đề
giám sát quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai ở Việt Nam”/
Nguyễn Quang Tuyến, Hà Văn Hòa, Nhà nước và Pháp luật.Viện Nhà
nước và Pháp luật,Số 6/2016, tr. 70 - 76.
9. Bài viết Tạp chí: “Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo Hiến pháp năm
2013”/ Nguyễn Cảnh Quý, Dân chủ và Pháp luật.Bộ Tư pháp, 2019. Số chuyên đề 5, tr. 3-8, 15.
10. Bài viết Tạp chí: “Hồn thiện qui định về chức năng đại diện chủ
sở hữu của nhà nước đối với đất đai”/ Phạm Xuân Thắng Nghiên cứu
lập pháp.Viện Nghiên cứu lập pháp,2019. - Số 20, tr. 27-33.
Một số đường link trang web:
1. />2. />ontent/1/LDD.%20Text%20B2.pdf
3. />4. />3. />
19



×