Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Trọng yếu trong kiểm toán và qui trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.75 KB, 39 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT………………………………………….. 3
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIẾU…………………………………………… 4
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………..... 5
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và quy trình đánh giá tính trọng yếu
trong kiểm toán BCTC………………………………………………………... 6
1.1. Lý luận chung về trọng yếu trong kiểm toán ………………………… 6
1.1.1. Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán……………………………………. 6
1.1.2. Các tiêu chuẩn đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán………………… 7
1.1.2.1. Tính trọng yếu biểu hiện qua quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ…..7
1.1.2.2. Tính trọng yếu biểu hiện qua bản chất của khoản mục, nghiệp vụ …….9
1.2. Quy trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC………………….. 11
1.2.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu…………………………………….11
1.2.2. Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục…………..13
1.2.3. Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục………………………..14
1.2.4. Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC……………………………...14
1.2.5. So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu (hoặc đã điều
chỉnh) về BCTC………………………………………………………………..14
Phần 2: Thực trạng về quy trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán
BCTC tại Việt Nam…………………………………………………….. 16
2.1. Thực tế hoạt động kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay………………16
2.2. Thực trạng quy trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC tại Việt
Nam hiện nay………………………………………………………………….. 17
2.2.1. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu……………………………………17
2.2.2. Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục…………..21
2.2.3. Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục………………………..25
2.2.4. Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC……………………………...30
2.2.5. So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu (hoặc đã điều
chỉnh) về tính trọng yếu………………………………………………………...30
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B


1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần 3: Nhận xét và ý kiến hoàn thiện quy trình đánh giá tính trọng yếu
trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam………………………………………...32
3.1. Đánh giá chung…………………………………………………………….32
3.1.1. Những ưu điểm trong đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC….32
3.1.2. Những tồn tại trong đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC………...33
3.2. Một số ý kiến hoàn thiện đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC tại
Việt Nam……………………………………………………………………….34
3.2.1. Xây dựng chiến lược đào tạo kiểm toán viên theo tiêu chuẩn quốc tế…..34
3.2.2. Hoàn thiện phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
trên BCTC………………………………………………………………………36
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………39
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIẾU
Sơ đồ 1.1 : Các bước trong qui trình đánh giá trọng yếu
Bảng 2.1
:
Bảng xác định mức trọng yếu theo doanh thu của Deloitte
Vietnam
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
BCTC : Báo cáo tài chính
KTV : Kiểm toán viên
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 2.2 : Bảng tính mức độ trọng yếu của công ty AASC

Bảng 2.3 : Bảng hướng dẫn tính giá trị chênh lệch có thể chấp nhận
được của Deloitte Vietnam
Bảng 2.4 : Bảng xác định tỷ lệ tính sai phạm có thể bỏ qua của ACPA
LỜI MỞ ĐẦU
Nếu như kế toán được coi là một công cụ rất quan trọng trong quản lý tài
chính của các công ty thì kiểm toán lại được coi là một công cụ để giám sát,
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kiểm tra với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác kế toán nói riêng, hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung.
Có thể nói kiểm toán là một công việc rất phức tạp. Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để có thể nâng cao được hiệu quả của cuộc kiểm toán nhằm đáp ứng được
yêu cầu của người sử dụng BCKT trong điều kiện thời gian và chi phí cho mỗi
cuộc kiểm toán là có hạn. Điều này chỉ được giải quyết khi kiểm toán viên nắm
rõ những lý luận cơ bản về kiểm toán và ứng dụng nó vào thực tiễn một cách
khoa học và linh hoạt nhất. Một trong những lý luận cơ bản trong kiểm toán đó
là khái niệm “trọng yếu”. Vậy “trọng yếu” là gì và những ứng dụng của khái
niệm này trong từng cuộc kiểm toán cụ thể ra sao? Vấn đề này sẽ được làm trình
bày trong đề án: “Trọng yếu trong kiểm toán và qui trình đánh giá tính trọng
yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính”.
Chuyên đề này sẽ gồm có ba phần sau:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và qui trình đánh giá trọng yếu trong kiểm
toán BCTC.
Phần 2: Thực trạng về quy trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC
tại Việt Nam.
Phần 3: Nhận xét và ý kiến hoàn thiện quy trình đánh giá tính trọng yếu trong
kiểm toán BCTC tại Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo ThS
Nguyễn Thị Mỹ. Do sự hạn chế về kiến thức cũng như thời gian nghiên cứu nên

đề án này sẽ không tránh khỏi nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của cô giáo để đề án này được hoàn thiện hơn.
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và quy trình đánh giá tính trọng yếu
trong kiểm toán BCTC
1.1. Lý luận chung về trọng yếu trong kiểm toán.
1.1.1. Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Theo Từ điển tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh được đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng”. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại mang một ý
nghĩa cụ thể riêng.
Từ điển thuật ngữ kế toán - kiểm toán Anh - Việt ghi: “Trọng yếu là một
phạm trù dùng để chỉ vai trò then chốt của các thông tin mà nếu bỏ qua hoặc
hiểu sai nó có thể gây ảnh hưởng đối với quyết định của người sử dụng báo cáo
tài chính. Tính trọng yếu thường được xem xét cả về mặt định tính và định
lượng của sai phạm”. Khái niệm này đã chỉ ra quá trình đánh giá tính trọng yếu
cần phải được xem xét toàn diện trên cả “mặt định lượng và định tính của sai
phạm”, tức là xem xét cả về quy mô và bản chất của sai phạm đó.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 – “mục tiêu và nguyên tắc cơ bản
chi phối kiểm toán BCTC”, tại mục 07 quy định về tính “đảm bảo hợp lý” như
sau: “trong một cuộc kiểm toán, KTV đưa ra một mức độ đảm bảo cao nhưng
không phải là tuyệt đối. Có nghĩa là báo cáo tài chính đã được kiểm toán không
còn chứa đựng những sai sót trọng yếu so với ý kiến của kiểm toán viên trong
báo cáo tài chính”. Như vậy, “trọng yếu” được đánh giá như một ngưỡng để xác
định KTV và những công ty kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước những sai
phạm còn tồn tại trên BCTC đã được kiểm toán nếu sai phạm đó vượt quá một
mức đã được xác định. KTV và công ty kiểm toán không phải chịu trách nhiệm
đối với toàn bộ các sai phạm còn tồn tại trên BCTC đã được kiểm toán nếu sai

phạm đó không mang tính trọng yếu.
Trong lĩnh vực kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng, thuật
ngữ “trọng yếu” được nhắc đến một cách thường xuyên trong suốt cuộc kiểm
toán. Tuy nhiên, mỗi tổ chức, công ty kiểm toán lại khái niệm về “trọng yếu”
theo nhiều cách khác nhau:
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 và chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
320 - “tính trọng yếu trong kiểm toán” định nghĩa như sau: “thông tin là trọng
yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế của người sử dụng BCTC”. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan
trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra
việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm
định tính cơ bản của một thông tin hữu ích cần phải có. Tính trọng yếu của
thông tin phải được xem xét cả về định lượng và định tính. Định nghĩa này đã
chỉ ra sự phụ thuộc của tính trọng yếu vào bản chất của các khoản mục và cũng
đã đề cập một phần tới mối quan hệ về mặt số lượng giữa tính trọng yếu với độ
lớn của điều bị bỏ sót.
Qua tất cả các cách định nghĩa trên có thể thấy “trọng yếu” là một phạm trù
để đánh giá vai trò then chốt của thông tin tài chính trong bối cảnh cụ thể. Nếu
thiếu thông tin hoặc thông tin đó không chính xác thì sẽ gây ảnh hưởng đến việc
ra quyết định của người sử dụng thông tin tài chính. Đối tượng kiểm toán nói
chung và BCTC nói riêng vốn dĩ rất đa dạng. Việc KTV quan tâm tới tất cả các
thông tin liên quan đến đối tượng kiểm toán là một điều không phù hợp với tính
hiệu quả của cuộc kiểm toán, với chi phí và thời gian kiểm toán. Mặt khác, điều
mà những người sử dụng BCTC chỉ yêu cầu đảm bảo những thông tin đó không
làm họ ra những quyết định sai lệch. Như vậy đánh giá tính trọng yếu là một thủ
tục không thể thiếu trong một cuộc kiểm toán. Để đánh giá tính trọng yếu, kiểm
toán viên xem xét trên cả hai mặt: quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và vị trí hay

tính hệ trọng (mặt chất) của thông tin tài chính.
1.1.2. Các tiêu chuẩn đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán.
1.1.2.1. Tính trọng yếu biểu hiện qua quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ.
Quy mô của một sai phạm trên khoản mục, nghiệp vụ là một nhân tố quan
trọng để xác định tính trọng yếu của sai sót. Trong lĩnh vực kiểm toán, KTV
luôn mong muốn có một chỉ dẫn ban hành để định rõ cụ thể về mặt lượng đối
với tính trọng yếu. Tuy nhiên, trong kiểm toán khó có thể ấn định con số cụ thể
về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm toán, đặc biệt khi có yếu
tố tiềm ẩn. Vì vậy, ranh giới của quy mô khác nhau của đối tượng kiểm toán
được xét chủ yếu trong quan hệ với mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, các
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán từ đó tới việc ra quyết định của người sử dụng
thông tin đã được kiểm toán. Quy mô của tính trọng yếu được xem xét trên hai
góc độ: quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối.
Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức quan trọng mà
không cần nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Chẳng hạn, một vài kiểm toán
viên có thể cho rằng: con số 500.000 USD là trọng yếu mà không cần xem xét
thêm bất cứ yếu tố nào khác. Tuy nhiên, trên thực tế một quy mô tuyệt đối
không phải là một con số trọng yếu đối với tất cả các khách hàng kiểm toán.
500.000 USD có thể là trọng yếu đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng sẽ
không thể coi chắc chắn là trọng yếu nếu như xét đối với các công ty có vốn
nước ngoài. Do đó trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một khái niệm
tuỵệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá
với một số gốc. Số gốc thường khác nhau đối với mỗi tình huống. Chẳng hạn,
với báo cáo kết quả kinh doanh, số gốc có thể là doanh thu, thu nhập thuần hoặc
bình quân thu nhập của mấy năm gần đây. Hoặc với bảng cân đối kế toán, số
gốc có thể là tài sản lưu động hoặc tổng tài sản, còn với bảng lưu chuyển tiền tệ,

số gốc có thể là doanh thu thô,…
Ngoài ra, khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, kiểm toán viên cần
phải chú ý không chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà còn phải cân
nhắc cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Theo đoạn 07, chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 320 về “tính trọng yếu trong kiểm toán”: “KTV cần xem
xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh
hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng
có thể trở thành một sai sót trọng yếu nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào
mỗi tháng”. Có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì chúng
không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Song nếu KTV cộng dồn tất cả những sai
phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó
phát hiện tính trọng yếu của chúng.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi xác định tính trọng yếu trên phương diện quy mô của khoản mục,
nghiệp vụ, để đạt được hiệu quả cao nhất KTV cần quán triệt các nguyên tắc cơ
bản sau:
Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Tuỳ đối tượng cụ thể (các
bảng BCTC hay toàn bộ hệ thống kế toán hay thực trạng tài chính nói chung) và
khách thể kiểm toán (đơn vị kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, xây lắp,
thương mại, sự nghiệp…) và cần có sự am hiểu về tài chính kế toán của khách
thể kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy mô
bằng con số tuyệt đối mà phải trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm
toán. Về định lượng đó là những tỉ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với một
cơ sở để tính toán như tổng số tài sản, tổng doanh thu, lợi tức chưa tính thuế…
tuỳ quan hệ cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm toán có thể tính riêng biệt hay
cộng dồn các nghiệp vụ, các khoản mục cụ thể hay những sai sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán có đối

tượng và mục tiêu khác nhau, chẳng hạn, kiểm toán tài chính hay kiểm toán hiệu
quả với chức năng xác minh hay tư vấn…
Khi đánh giá về trọng yếu, KTV không chỉ quan tâm đến quy mô mà còn
phải xem xét về bản chất của các khoản mục, nghiệp vụ để đưa ra những quyết
định đúng đắn nhất.
1.1.2.2. Tính trọng yếu biểu hiện qua bản chất của khoản mục, nghiệp vụ.
Khái niệm trọng yếu gắn liền với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Một
yếu tố định tính quan trọng cần được xem xét đó là bản chất của khoản mục hay
vấn đề đang được đánh giá. Đánh giá tính trọng yếu trong mối quan hệ với bản
chất của các khoản mục, nghiệp vụ thường xảy ra hai trường hợp:
Thứ nhất, các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận bao gồm:
- Các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, giao dịch không hợp pháp;
- Các nghiệp vụ về thanh lý tài sản;
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Các nghiệp vụ về tiền mặt;
- Các nghiệp vụ mua bán và thanh toán;
- Các nghiệp vụ bất thường;
- Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi;
- Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách;
- Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ kế toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới
phát sinh;
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa.
Thứ hai, các nghiệp vụ thường xảy ra các sai sót hệ trọng, bao gồm:
- Các khoản muc, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch
lớn so với kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần;

- Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng trọng yếu đến kỳ sau;
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc hậu quả liên quan đến nhiều
khoản mục, nghiệp vụ khác.
Tất cả khoản mục, nghiệp vụ mang tính bản chất của đối tượng kiểm toán
đều liên quan trực tiếp đến quá trình nhận thức đúng đắn và đầy đủ về đối tượng
kiểm toán, từ đó đưa ra ý kiến kiểm toán. Do đó, về nguyên tắc, KTV không
được bỏ sót khoản mục, nghiệp vụ nào. Bản thân khái niệm trọng yếu tự nó đã
đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với nguyên tắc không được bỏ sót
các khoản mục có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Nếu vi phạm nguyên tắc này
thì rủi ro kiểm toán sẽ xảy ra nhiều hơn và không thể kiểm soát.
1.2. Quy trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC.
Tính trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm
toán và thiết kế chương trình kiểm toán cũng như việc đưa ra kết luận kiểm toán.
Có thể khái quát qui trình đánh giá tính trọng yếu trong một cuộc kiểm toán qua
sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1.1: Các bước trong qui trình đánh giá trọng yếu
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bước 1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Lập kế hoạch phạm
vi của các thử
nghiệm kiểm toán
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đâù về tính trọng yếu cho
các khoản mục
Bước 3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Đánh giá các kết
quả
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng

ban đầu (hoặc đã điều chỉnh) về tính trọng yếu
Trong 5 bước thực hiện trên, bước 1 và bước 2 được thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch phạm vi của các thử nghiệm kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được
thực hiện trong giai đoạn thực hiện và kết thúc cuộc kiểm toán.
1.2.1. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng
ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết
định của người sử dụng thông tin tài chính. Nói cách khác, đó chính là những sai
sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho KTV lập kế hoạch thu
thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu KTV ước lượng mức trọng
yếu càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số
lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi
trong suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá
cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng
ban đầu về tính trọng yếu bị thay đối.
Khi xây dựng mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu, KTV cần xem xét
những yếu tố ảnh hưởng sau:
- Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một đối tượng tuyệt đối,
gắn liền với quy mô của công ty khách hàng.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: Quy mô sai sót là một yếu tố quan
trọng để xem xét liệụ yếu tố sai sót có trọng yếu hay không. Tuy nhiên do trọng
yếu mang tính chất tương đối nên việc có được các cơ sở để quyết định xem một
quy mô một sai phạm nào có là trọng yếu hay không là một điều cần thiết.
+ Yếu tố định tính của trọng yếu: Trong thực tế để đánh giá một sai sót có
là trọng yếu hay không, KTV phải xem xét đánh giá cả về mặt giá trị và bản

chất của sai sót đó. Một gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của
nó là bao nhiêu.
- Những yếu tố chất lượng cần phải được xam xét khi tiến hành ước lượng
ban đầu về tính trọng yếu:
+ Các gian lận thường được xem là quan trọng hơn các sai sót với cùng
một quy mô tiền tệ bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính trung
thực và độ tin cậy của Ban giám đốc hay những người có liên quan.
+ Các sai sót có quy mô nhỏ nhưng lại gây ra tác động dây truyền làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên BCTC thì luôn được xem là sai sót
trọng yếu. Đây là sai phạm có tính chất hệ thống.
+ Các sai sót làm ảnh hưởng đến thu nhập thì luôn là sai phạm trọng yếu.
1.2.2. Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục.
Sau khi KTV đã có được mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho
toàn bộ BCTC, KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên
BCTC. Đó cũng là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục là cần
thiết vì bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là theo toàn bộ
BCTC nói chung. Việc phân bổ này sẽ giúp KTV xác định được số lượng bằng
chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí
thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt
quá mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Do kế toán thực hiện ghi sổ theo nguyên tắc ghi sổ kép nên nếu một sai
phạm ảnh hưởng tới Báo cáo kết quả kinh doanh thì hầu như cũng có ảnh hưởng
tương tự như đối với Bảng cân đối kế toán. Vì thế, khi thực hiện phân bổ ước
lượng về tính trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC, KTV có thể phân bổ
hoặc cho các tài khoản trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, hoặc cho các
tài khoản trên bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, do hầu hết các thủ tục kiểm toán

tập trung vào các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán nên KTV thường phân bổ
mức ước lượng cho các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có
thể diễn ra: đó là tình trạng khai khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn thực tế) và
khai thiếu (số liệu trên sổ sách nhỏ hơn trên thực tế),
Cơ sở tiến hành phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các
khoản mục trên BCTC là:
- Bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được
đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục. Nếu khoản mục được đánh giá là có rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao thì mức trọng yếu được phân bổ cho khoản
mục đó sẽ thấp và ngược lại.
- Kinh nghiệm của KTV về các sai phạm của khoản mục.
- Chi phí kiểm toán đối với các khoản mục.
1.2.3. Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán đối với từng khoản mục, bộ phận của
BCTC, bằng các thủ tục kiểm toán áp dụng, KTV phát hiện ra các sai phạm. Các
sai phạm này được chia thành 2 loại:
- Sai phạm đã có bằng chứng chắc chắn và được đánh giá là trọng yếu (xét
về mặt định lượng và định tính), KTV đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu
khách hàng chấp nhận điều chỉnh, KTV sẽ không tổng hợp sai phạm này nữa .
Ngược lại, nếu khách hàng từ chối không điều chỉnh, KTV sẽ xem xét để đưa ý
kiến thích hợp về BCTC như “ý kiến chấp nhận từng phần” hoặc “ý kiến bác bỏ
hoàn toàn”.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Sai sót có bằng chứng chắc chắn nhưng với qui mô nhỏ, được đánh giá là
không trọng yếu, có thể bỏ qua. Các sai sót dự kiến (sai sót được suy rộng từ kết
quả kiểm tra chọn mẫu), kết hợp thêm việc xem xét sự ảnh hưởng của các sai sót
nhỏ được bỏ qua từ kỳ trước đến khoản mục đó trong kỳ này để ước tính ra tổng

số sai sót đối với từng khoản mục.
Tổng sai sót đối với từng khoản mục được dùng để so sánh với sai sót có
thể bỏ qua (chính là mức trọng yếu được phân bổ cho từng khoản mục ở bước 2)
nhằm quyết định khả năng chấp nhận thông tin trên khoản mục đó hoặc phải tiếp
tục tiến hành thêm các thủ tục kiểm tra thích hợp.
1.2.4. Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC.
Trên cơ sở ước tính tổng số sai sót trong từng khoản mục, KTV tổng hợp
các sai sót của các khoản mục trên BCTC. Con số tổng hợp này sẽ được dùng để
so sánh với ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc ước lượng ban đầu đã được
điều chỉnh.
1.2.5. So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu (hoặc đã điều
chỉnh) về BCTC.
Sai sót tổng hợp của toàn bộ BCTC (kết quả của bước 4) sẽ được so sánh
với ước lượng ban đầu về mức trọng yếu của toàn bộ BCTC hoặc ước lượng ban
đầu về mức trọng yếu đã được điều chỉnh trong quá trình kiểm toán. Việc so
sánh này cho phép đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản mục có vượt quá
giới hạn về mức trọng yếu chung cho toàn bộ BCTC hay không. Nếu sai số kết
hợp lớn hơn mức ước lượng về trọng yếu chung thì BCTC không được chấp
nhận toàn phần. Trong quá trình này, KTV cần kết hợp với việc so sánh tổng số
sai sót trong từng khoản mục (kết quả của bước 3) với mức sai số được phân bổ
cho từng khoản mục đó (kết quả của bước 2).
Khi tiến hành công việc so sánh này sẽ có hai trường hợp xảy ra:
Trường hợp 1: Nếu sai số tổng hợp ước tính cho toàn bộ BCTC nhỏ hơn
mức ước lượng ban đầu (hoặc đã được điều chỉnh) về tính trọng yếu thì KTV sẽ
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không phải thực hiện thêm các thử nghiệm kiểm toán và có thể đưa ra ý kiến
chấp nhận toàn phần về BCTC.
Trường hợp 2: Nếu sai số tổng hợp ước tính cho toàn bộ BCTC gần bằng

(đảm bảo nguyên tắc thận trọng, hạn chế rủi ro kiểm toán) hoặc lớn hơn mức
ước lượng ban đầu (hoặc đã được điều chỉnh) về tính trọng yếu thì KTV sẽ xem
xét xem có những khoản mục nào có tổng số sai sót ước tính cao. Đối với những
khoản mục này, KTV sẽ tăng cường các thủ tục kiểm toán và mở rộng quy mô
mẫu chọn để phát hiện thêm các sai sót có bằng chứng chắc chắn để yêu cầu
khách hàng điều chỉnh và sau đó khẳng định lại ước tính về tổng số sai sót của
khoản mục đó. Nếu khách hàng không chấp nhận điều chỉnh và các thủ tục kiểm
toán bổ sung vẫn khẳng định có sai sót trọng yếu trong các khoản mục này thì
KTV sẽ đưa ra kết luận kiểm toán thuộc loại “ý kiến chấp nhận từng phần” hoặc
“ý kiến bác bỏ”.
Như vậy, để quá trình đánh giá trọng yếu được hiệu quả, KTV phải có đủ
kinh nghiệm, trình độ và óc xét đoán nghề nghiệp. Quá trình đánh giá này phải
được thực hiện một cách linh hoạt mỗi khi có những thông tin thay đổi từ phía
khách hàng để tiết kiệm chi phí kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cuộc
kiểm toán. Thông thường các công ty kiểm toán thường đưa ra những hướng dẫn
cụ thể cho qui trình đánh giá tính trọng yếu trên cơ sở các qui định của chuẩn
mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành.
Phần 2: Thực trạng về quy trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán
BCTC tại Việt Nam
2.1. Thực tế hoạt động kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
Theo Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), đến tháng4/2010
đã có 148 công ty đã đăng ký hành nghề, bao gồm 137 công ty trách nghiệm hữu
hạn, 5 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài là Ernt and Young, Price
Waterhouse coopers, KPMG, G.T, Logos, 2 công ty có vốn đầu tư nước ngoài là
E Jung, Mazars và 4 công ty hợp danh.
Họ và tên: Bế Thị Bích Phương – Lớp: Kiểm toán 49B
15

×