Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

chất lượng công tác tư tưởng của các đảng bộ huyện ở tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.32 KB, 115 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln
xác định công tác tư tưởng (CTTT) là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng, bởi CTTT là hoạt động có định hướng, nhằm
quán triệt, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng
và định hướng giá trị đúng đắn góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống, tri thức để đảm bảo cho nhân dân có
hành động tích cực, chủ động sáng tạo thực hiện thắng lợi lý tưởng mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi hồn tồn
vào năm 1975. Từ đó, cả nước bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn xây
dựng đất nước quá độ lên CNXH. Trong giai đoạn ấy, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng, song cũng đã vấp phải những sai lầm, khuyết
điểm. Một trong những nguyên nhân đưa đến những sai lầm là sự bất cập
trong CTTT - lý luận, chất lượng CTTT chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng.
C. Mác từng viết: “Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng” [40, tr.580]. Cơng tác tư tưởng giải quyết những
vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra, đồng thời biến lý luận cách mạng, đường lối
của Đảng thành ý chí, nhiệt tình cách mạng của quần chúng, hiện thực hóa
từng bước lý tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Cách mạng XHCN và sự nghiệp xây dựng CNXH là hoạt động tự giác
của nhân dân, do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên ý thức được tầm
quan trọng của tư tưởng lý luận và đặt hoạt động đó gắn liền với những


2


chuyển biến lớn lao của dân tộc. Ngay từ đầu, Người đã chỉ ra rằng, hoạt động
tư tưởng chính là một nội dung của cơng cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, CTTT (CTTT)
trở nên vô cùng quan trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương (BCHTƯ) Đảng khóa X tiếp tục khẳng định CTTT là lĩnh vực
quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Trước những đòi hỏi, yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng hiện nay, Đại hội X của Đảng đã đề ra những u
cầu mới đối với CTTT, địi hỏi tồn Đảng cần tiếp tục nắm vững, phát huy vai
trò to lớn của lĩnh vực công tác này, phải chủ động hơn trong CTTT, nghiên
cứu xây dựng chiến lược CTTT trong tình hình mới. Đổi mới mạnh mẽ nội
dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng
độc lập dân tộc và CNXH, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng
trong toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, chăm lo củng cố sự
đoàn kết thống nhất và tình đồng chí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội;
thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình, nâng cao
sức chiến đấu và sức thuyết phục của CTTT. Bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng cBộ Chính trị, đảng viên
(CB, ĐV) và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc phục
những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ
động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận
điểm phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hịa bình”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Đại hội XI của Đảng yêu cầu:
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính
chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của CTTT, tuyên truyền, học



3
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên
truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng...
Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng viên có trách nhiệm trực
tiếp làm CTTT [21, tr.256 - 257].
Trong những năm qua, các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An luôn coi
trọng và tăng cường CTTT, góp phần xây dựng đảng bộ vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, đóng góp xứng đáng vào q trình ổn định tư tưởng,
phát triển ảnh hưởng chính trị của Đảng vào trong đời sống xã hội, thiết thực
góp phần vào q trình phát triển toàn diện của địa phương, động viên phong
trào thi đua yêu nước, giải quyết những vướng mắc trong dân, tạo niềm tin
của nhân dân đối với Đảng. Tuy nhiên, CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh
Nghệ An trong những năm qua còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế là: chưa
huy động được sự tham gia của mọi thành viên trong hệ thống chính trị
(HTCT) vào làm CTTT; CTTT cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính
chiến đấu còn hạn chế; phạm vi tác động của CTTT còn chưa sâu đến tận từng
đối tượng, đơn vị; nội dung và hình thức tiến hành CTTT chậm đổi mới… Vì
vậy, nghiên cứu luận văn này để đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
CTTT là yêu cầu cấp thiết của đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
Xuất phát từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác
giả chọn đề tài “Chất lượng công tác tư tưởng của các đảng bộ huyện ở
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CTTT là vấn đề được nhiều cơ quan, cán bộ lãnh đạo, nhà khoa học,
các học viên quan tâm nghiên cứu với những cấp độ và cách tiếp cận khác
nhau như:



4
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1991), Tiếp tục đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng, văn hố trong tình hình mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Quang Nghị (1996): Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ CTTT,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hữu Thọ (2000): “Hồ Chí Minh về cơng tác tư tưởng văn hóa”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nông Đức Mạnh (2002): “Tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận và
dùng lý luận để hướng dẫn, cắt nghĩa những vấn đề do thực tiễn đặt ra”, Tạp
chí Thơng tin cơng tác tư tưởng, số 2.
- Đỗ Thị Thìn 2008 “Thái Nguyên với cơng tác tun giáo cơ sở”, Tạp
chí Tun giáo, số 5.
- Cao Văn Định (2000): Chất lượng CTTT của tổ chức cơ sở đảng
(TCCSĐ) (cấp xã) vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc Trung
bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Minh (1996): Đổi mới CTTT của TCCSĐ nông thôn
ngoại thành Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Tâm (2004): Chất lượng CTTT của đảng bộ tỉnh Sơn
La trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trịnh Thanh Tâm (2005): Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của
các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Thuần (2006): Chất lượng CTTT của các đảng bộ quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Xây



5
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
- Trịnh Ngọc Thắng (2008): Chất lượng CTTT của các đảng bộ huyện
đồng bằng ven biển tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên đều bàn luận đến vấn đề tư tưởng
và chất lượng CTTT ở các góc độ tiếp cận khác nhau tùy theo mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình khoa
học nào đề cập một cách trực tiếp, cụ thể và có hệ thống về chất lượng CTTT
của các đảng bộ huyện ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn liên quan đến chất lượng
CTTT của đảng bộ huyện, đánh giá đúng thực trạng và chỉ rõ nguyên nhân,
luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CTTT của
các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ đặc điểm các huyện, đảng bộ huyện và vai
trò của CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An.
- Xây dựng quan niệm về chất lượng CTTT của các đảng bộ huyện ở
tỉnh Nghệ An; phân tích, làm rõ các yếu tố cấu thành chất lượng CTTT của
các đảng bộ huyện và tiêu chí đánh giá.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng CTTT của các đảng bộ
huyện ở tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ rõ nguyên nhân của thực
trạng, rút ra những kinh nghiệm cần thiết.


6

- Dự báo những thuận lợi, khó khăn tác động và đề xuất mục tiêu,
phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CTTT của các
đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất
lượng CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng CTTT
của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An từ năm 2006 đến nay. Phương hướng
và giải pháp nâng cao chất lượng CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ
An đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời quán triệt nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTT và xây dựng Đảng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: lơgích và
lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về nâng cao chất lượng
CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng CTTT của các đảng bộ huyện ở
tỉnh Nghệ An từ năm 2006 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CTTT của
các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
Luận văn có thể được các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An sử dụng làm
tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ CTTT; đồng thời, luận văn cịn có thể làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng tại Trường
Chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện ở tỉnh Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn



7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA CÁC ĐẢNG BỘ HUYỆN
Ở TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC HUYỆN, ĐẢNG BỘ HUYỆN VÀ CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG CỦA CÁC ĐẢNG BỘ HUYỆN Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

1.1.1. Khái quát về các huyện, đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An
1.1.1.1. Khái quát về các huyện ở tỉnh Nghệ An
Nghệ An nằm ở 18°33′ đến 19°25′ vĩ bắc, 102°53′ đến 105°46′ kinh
đông; là một tỉnh ở vị trí trí trung tâm vùng Bắc Trung bộ, có diện tích tự
nhiên 16.480 km². Dân số Nghệ An (tính đến ngày 31-12-2010) có

2.936.042 người, trong đó có trên 43 vạn đồng bào dân tộc thiểu số
(chiếm 14% dân số toàn tỉnh) và gần 25 vạn đồng bào theo Cơng giáo
(chiếm 8,3% dân số tồn tỉnh). Phía Bắc Nghệ An giáp với tỉnh Thanh Hố;
phía Nam tỉnh tiếp giáp với tỉnh Hà Tĩnh; phía Đơng tỉnh có bờ biển dài 82
km thuận lợi cho xây dựng, phát triển kinh tế biển và kinh tế đối ngoại; phía
Tây tỉnh giáp nước bạn Lào, với đường biên giới dài 419 km, là điều kiện
thuận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế và khai thác những tiềm năng phát triển
nước Lào.
Nghệ An nằm trên trục giao thông xuyên Việt, gồm đường sắt dài 94
km và đường quốc lộ 1A dài 85 km. Đường quốc lộ 15 ở phía Tây cùng
hướng quốc lộ 1A dài 149 km. Từ Đơng sang Tây có quốc lộ 7 dài 225 km và

quốc lộ 48 dài 122 km. Cùng với các đường quốc lộ cịn có một hệ thống
đường tỉnh lộ, huyện lộ, xã lộ tạo nên mạng lưới giao thông quan trọng giao
lưu Bắc - Nam, vận tải quá cảnh và luân chuyển hàng hoá nội tỉnh.
Nghệ An nằm ở phía Đơng Bắc dãy Trường Sơn có độ dốc thoải dần
từ Tây Bắc xuống Đơng Nam, đồi núi chiếm 83% diện tích của tỉnh, bị chia


9
cắt mạnh bởi những dịng có độ dốc lớn và những dãy núi xen kẽ. Đây là một
trở ngại lớn cho việc phát triển mạng lưới giao thông, đặc biệt là các tuyến
giao thông liên lạc vùng trung du và miền núi. Các dịng sơng hẹp và dốc vừa
khơng thuận lợi cho phát triển vận tải đường sông, vừa hạn chế khả năng điều
hoà nguồn nước trong các mùa phục vụ canh tác nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên,
hệ thống sông ngịi có độ dốc lớn với 117 thác lớn nhỏ lại là nguồn thuỷ năng
rất lớn phục vụ cho phát triển kinh tế miền núi.
Vùng đồng bằng có diện tích nhỏ, có đồi núi xen kẽ hạn chế việc
mở rộng diện tích canh tác nơng nghiệp.
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt:
xuân, hạ, thu, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu
ảnh hưởng của gió phơn tây nam khơ và nóng. Vào mùa đơng, chịu ảnh
hưởng của gió mùa đơng bắc lạnh và ẩm ướt. Lượng mưa trung bình hàng
năm: 1.670 mm. Nhiệt độ trung bình: 25,2 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.420
giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 86-87%.
Nghệ An nằm trong vùng có nhiều đặc thù, phân dị rõ rệt trên toàn lãnh
thổ và theo các mùa, tạo điều kiện cho nhiều loại cây trồng phát triển. Song,
khí hậu lại khắc nghiệt nắng lắm, mưa nhiều, đặc biệt là lũ lụt, bão và gió Tây
- Nam. Nghệ An có quỹ đất tự nhiên là 1.636.021 ha, chiếm 4,95% diện tích
cả nước, trong đó đã sử dụng là 844.021 ha, chiếm 51,1% diện tích tự nhiên;
đất chưa sử dụng là 792.000 ha, chiếm 48,9% đất tự nhiên. Trong 844.021 ha
đất sử dụng, đất nông nghiệp là 178.000 ha, chiếm 11% đất tự nhiên; đất có

rừng là 58.400 ha, chiếm 35,7% đất tự nhiên. Nhìn chung, đất đai của tỉnh
Nghệ An đa dạng, thích hợp với các loại cây trồng chủ yếu: cây công nghiệp,
cây lương thực ngắn và dài ngày, cây ăn quả… Hải phận Nghệ An: 4.230 hải
lý vuông, bờ biển dài 82 km, có sáu cửa lạch có khả năng phát triển vận tải
biển, trong đó có cảng biển Cửa Lị và Cửa Hội thuận lợi cho việc phát triển
công nghiệp, du lịch, mở rộng giao lưu quốc tế. Ngoài việc khai thác tự nhiên,


10
khả năng ni trồng thuỷ sản ở đây cũng có nhiều triển vọng. Tồn tỉnh có
khoảng 2.000 ha có thể ni tơm, cua. Nước biển có độ mặn cao tạo cơ sở cho
nghề muối phát triển.
Bên cạnh tài nguyên đất, rừng, biển…, Nghệ An là tỉnh có tài ngun
khống sản đa dạng về chủng loại, phân bố rộng khắp, nhưng đa số trữ lượng
nhỏ, rất khó khăn trong khai thác ở quy mô công nghiệp. Riêng tài nguyên về
đá vôi để sản xuất vật liệu xây dựng rất phong phú, chất lượng tốt và trữ
lượng lớn.
Ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung phát triển ở ba khu vực là
Vinh - Cửa Lị gắn với Khu kinh tế Đơng Nam, khu vực Hồng Mai và khu
vực Phủ Quỳ. Cơng nghiệp Nghệ An đang phấn đấu phát triển nhiều ngành
công nghiệp có thế mạnh như các ngành chế biến thực phẩm - đồ uống, chế
biến thuỷ hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ cơng mỹ
nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy... Hiện nay,
trên địa bàn tỉnh Nghệ An có các khu kinh tế và khu cơng nghiệp sau: Khu
kinh tế Đông Nam, Khu công nghiệp Bắc Vinh, Khu công nghiệp Nam Cấm,
Khu công nghiệp Nghi Phú, Khu cơng nghiệp Hưng Đơng, Khu cơng nghiệp
Cửa Lị, Khu cơng nghiệp Hồng Mai, Khu cơng nghiệp Đơng Hồi, Khu cơng
nghiệp Phủ Quỳ, Khu cơng nghiệp Tân Thắng.
Nghệ An có nhiều dân tộc cùng sinh sống như người Thái, người
Mường bên cạnh dân tộc chính là người Việt (Kinh).

Tỉnh có 10 huyện miền núi, trong số đó 5 huyện là miền núi cao. Các
huyện miền núi này tạo thành miền Tây Nghệ An. Có 9 huyện trong số trên
nằm trong Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An đã được UNESCO công
nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Các huyện, thị còn lại là trung du và
ven biển, trong đó Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và Cửa Lò giáp biển.
Nghệ An là xứ sở của những lễ hội cổ truyền diễn ra trên sông nước
như các lễ hội Cầu Ngư, Rước hến, Đua thuyền... Lễ hội làm sống lại những


11
kỳ tích lịch sử được nâng lên thành huyền thoại, giàu chất sử thi, đậm đà tính
nhân văn như lễ hội đền Cuông, lễ hội làng Vạn Lộc, lễ hội làng Sen. Miền
núi có các lễ hội như Hang Bua, lễ hội Xàng Khan, lễ Mừng nhà mới, lễ Uống
rượu cần.
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An
và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa
gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sơng Lam. Hai
tỉnh này có cùng phương ngữ - tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân gian,
cùng ca câu hị ví dặm, cùng uống chung dịng nước sơng Lam
Nghệ An cịn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử - văn hố, nhiều danh
lam thắng cảnh, lễ hội văn hố truyền thống - đó là những yếu tố thuận lợi
giúp cho du lịch Nghệ An phát triển.
Về du lịch biển, Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp, hấp dẫn khách du lịch
quốc tế như bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội, Nghi Thiết, Bãi Lữ (Nghi Lộc),
Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương, Quỳnh Nghĩa (Quỳnh Lưu), Diễn Thành (Diễn
Châu). Đồng thời, Nghệ An rất có lợi thế phát triển du lịch văn hóa. Hiện nay
Nghệ An có trên 1.000 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có gần 200 di tích lịch sử
văn hố được xếp hạng, đặc biệt là Khu di tích Kim Liên - quê hương của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, hàng năm đón xấp xỉ 2 triệu lượt nhân dân và du khách đến
tham quan nghiên cứu. Khu di tích lịch sử Kim Liên cách trung tâm thành phố

Vinh 12 km về phía Tây Nam, là khu di tích tưởng niệm Hồ Chí Minh tại xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn. Nơi đây gắn với thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và cịn lưu giữ những kỷ niệm thuở ấu thơ của cậu bé Nguyễn Sinh Cung,
những dấu tích và những kỷ vật của gia đình. Cách làng Sen 2km là làng Chùa
(tên chữ là Hồng Trù) - q ngoại của Hồ Chí Minh - và cũng là nơi Người cất
tiếng khóc chào đời, được mẹ nuôi dạy những năm ấu thơ.
Khu du lịch thành phố Vinh nằm ở vị trí giao thơng thuận tiện, có quốc
lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua, có sân bay Vinh nằm cách


12
trung tâm thành phố khơng xa. Thành phố Vinh cịn là đầu mối giao thông
quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam. Khách đi du lịch theo tuyến quốc lộ
1A ngày càng tăng, lượng du khách đến với Nghệ An theo đó cũng tăng.
Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với
những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố
Vinh, du khách có thể tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: du lịch
nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.
Cách thành phố Vinh 120 km về phía Tây Nam, Vườn quốc gia Pù Mát
thuộc huyện Con Cuông nằm trên sườn Đông của dải Trường Sơn, dọc theo
biên giới Việt Lào. Nơi đây có một số lồi động vật, thực vật q hiếm cần phải
được bảo tồn nghiêm ngặt như: sao la, thỏ vằn, niệc cổ hung và một số loài thực
vật như pơ-mu, sa-mu, sao hải nam... Nơi đây đã được UNESCO đưa vào danh
sách các khu dự trữ sinh quyển thế giới với tên gọi Khu dự trữ sinh quyển miền
Tây Nghệ An. Hiện nay, nhiều tổ chức bảo vệ môi trường thế giới cũng như
trong nước đang có các dự án để bảo tồn và phát triển vườn quốc gia Pù Mát,
khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống tạo thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn.
Khu du lịch Cửa Lò là điểm du lịch biển hấp dẫn với bãi cát trắng mịn
chạy dài gần 10 km, thơng ra Hịn Ngư, Hòn Mắt, đảo Lan Châu e ấp ven
bờ như một nét chấm phá của bức tranh thuỷ mạc. Tất cả đã tạo ra cho Cửa

Lị có một sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách thập phương.
Nghệ An còn là nơi có nhiều món ăn ngon, đặc sản nổi tiếng: cháo lươn
Vinh, cơm lam, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, cam xã Đồi... - những
sản phẩm du lịch có sức cuốn hút khách du lịch quốc tế và trong nước.
Với nhiều danh lam thắng cảnh, hệ thống di tích, văn hoá, phong phú
về số lượng, độc đáo về nội dung, đa dạng về loại hình, Nghệ An đang là
miền đất hứa, là địa chỉ du lịch hấp dẫn đối với du khách.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, tỉnh Nghệ An có 11 phủ,
huyện và 1 thành phố: phủ Hưng Nguyên, phủ Diễn Châu, phủ Anh Sơn,


13
huyện Nam Đàn, huyện Thanh Chương, huyện Nghi Lộc, huyện Quỳnh Lưu,
huyện Yên Thành, huyện Nghĩa Đàn và thành phố Vinh ở miền xuôi và trung
du; phủ Quỳ Châu và phủ Tương Dương (trước là Trà Lân) ở miền thượng du.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hồ
ra đời, các tỉnh đều bình đẳng, khơng cịn tình trạng tỉnh nhỏ thì bị tỉnh lớn
kiêm lý, hay tỉnh lớn thì có tổng đốc, tỉnh nhỏ thì đặt tuần phủ như Nghệ An
và Hà Tĩnh trước đây. Các phủ cũng đều đổi thành huyện, tỉnh nào có châu
cũng đổi thành huyện, giữa các huyện đều bình đẳng.
Hiện nay (năm 2011) Nghệ An có 20 đơn vị hành chính gồm: thành phố
Vinh; thị xã Cửa Lị; thị xã Thái Hoà; 10 huyện miền núi (Thanh Chương, Kỳ
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu,
Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn), trong số đó 5 huyện là miền núi cao, tạo thành miền
Tây Nghệ An; 7 huyện, thị trung du và ven biển (Đô Lương, Nam Đàn, Hưng
Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành), trong đó Quỳnh
Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và Cửa Lị nằm giáp biển.
1.1.1.2. Khái quát về các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An
Năm 1930, đảng bộ tỉnh Nghệ An có 117 chi bộ, 1.172 đảng viên, đến
nay có 20 đảng bộ huyện, thành, thị và 8 đảng bộ trực thuộc (6 đảng bộ cấp

trên cơ sở và 2 đảng bộ cơ sở giao quyền cấp trên cơ sở), với 1.569 TCCSĐ
(808 đảng bộ, 761 chi bộ cơ sở, 10.170 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở) và
165.783 đảng viên.
Các đảng bộ cấp huyện ở Nghệ An có số lượng lớn, gồm 20 đảng bộ
huyện, thành, thị (1 đảng bộ thành phố, 2 đảng bộ thị xã và 17 đảng bộ
huyện), trong đó có 10 đảng bộ huyện trung du và ven biển, 10 đảng bộ huyện
miền núi. Đảng bộ huyện có số lượng TCCSĐ nhiều nhất là đảng bộ huyện
Quỳnh Lưu, với 89 TCCSĐ trực thuộc, 11.507 đảng viên. Để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ, các đảng bộ huyện có Huyện uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và 4 ban xây dựng Đảng


14
(Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Uỷ ban Kiểm tra) và 1 Văn
phòng Huyện uỷ. Đảng bộ huyện trực tiếp quản lý các TCCSĐ cấp xã,
phường, thị trấn và các đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
Hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, các đảng bộ huyện của tỉnh
Nghệ An đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu nổi bật:
Phong trào Xô - viết Nghệ Tĩnh; giành chính quyền sớm trong cách mạng
tháng Tám năm 1945; tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, góp phần vào thắng lợi to lớn của sự nghiệp giải phóng dân tộc; phát triển
kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đổi
mới quê hương; phát triển sự nghiệp văn hố, giáo dục, an ninh - quốc phịng.
Với nhận thức sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn, từ khi ra đời đến nay, công
tác xây dựng Đảng ở các đảng bộ huyện luôn được coi trọng. Vì vậy, các đảng
bộ huyện đã khơng ngừng trưởng thành và lớn mạnh về tư tưởng, chính trị và
tổ chức. Đội ngũ CB, ĐV các đảng bộ huyện cơ bản hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử của các chặng đường cách mạng.
Quá trình xây dựng đảng bộ về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức

cũng là quá trình đấu tranh chống các biểu hiện lệch lạc, sai trái trong tư
tưởng CB, ĐV, nhằm không ngừng nâng cao sức chiến đấu, chất lượng đảng
viên và chất lượng hoạt động của các TCCS đảng. Đảng viên trong các đảng
bộ ln rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu
cao tinh thần tiên phong gương mẫu trong mọi nhiệm vụ, kiên định về lý
tưởng, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đảng viên đi trước,
làng nước theo sau".
Số lượng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, đảng viên được xếp loại
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngày càng tăng; số đảng bộ cơ sở, đảng viên yếu
kém ngày càng giảm. Các cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh thực sự đã trở
thành hạt nhân chính trị, lãnh đạo mọi phong trào cách mạng của quần chúng.


15
Trong bối cảnh thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN ở Đông Âu
(1989 - 1991), nhất là cuộc khủng hoảng của nền kinh tế trong nước ở những
năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các đảng bộ huyện tỉnh Nghệ An cùng với
đảng bộ tỉnh vẫn vững vàng, kiên định về lập trường cách mạng, tuyên truyền,
giáo dục, ổn định tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, con đường đi lên
CNXH của đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các đảng
bộ huyện ở Nghệ An đã tập trung xây dựng chính quyền các cấp trong sạch,
vững mạnh, thực sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Các đồn thể
quần chúng phấn đấu thực hiện tốt tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh "Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; thành công, thành công, đại thành
công". Tin dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, thông qua công tác lãnh đạo
các đoàn thể quần chúng, các đảng bộ huyện đã tích cực tuyên truyền, giác
ngộ cách mạng cho họ, qua đó phát động được nhiều phong trào cách mạng
của quần chúng, tạo ra sức mạnh đoàn kết để chiến thắng kẻ thù, chiến thắng

đói nghèo, lạc hậu.
Đội ngũ CB, ĐV các đảng bộ huyện ở Nghệ An có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên trung, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao.
Trong quá trình đổi mới, các cấp uỷ và đội ngũ CB, ĐV đã thể hiện tâm
huyết, trách nhiệm, có nhiều cố gắng tìm tịi, thử nghiệm, tiếp cận và nắm bắt
cái mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo.
Các đảng bộ huyện đã hình thành và được xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ. Chức năng của các đảng bộ huyện là hạt nhân chính trị lãnh đạo tất
cả các lĩnh vực của huyện. Để thực hiện tốt chức năng, các đảng bộ huyện có
các nhiệm vụ chính sau:
- Tổ chức quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước và cấp trên, căn cứ đặc


16
điểm của các huyện để đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương,
giải pháp thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, thực hiện các chính
sách xã hội, xây dựng đời sống văn hoá, làm tốt cơng tác an ninh - quốc
phịng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu chính đáng của nhân
dân để định ra chủ trương, đúng đắn, kịp thời.
- Định hướng xây dựng tổ chức và hoạt động của chính quyền, các
đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội ở huyện theo quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên
và của đảng bộ huyện.
- Khẳng định và ủng hộ những nhân tố mới, ngăn chặn những tiêu cực,
uốn nắn những lệch lạc trong hoạt động của các tổ chức trong HTCT, trong
các tổ chức xã hội tại huyện.
- Tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng của đảng bộ nhằm
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ. Củng
cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao chất

lượng đội ngũ CB, ĐV, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, giữ gìn
kỷ luật và sự đồn kết thống nhất trong Đảng; trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các
cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng; tham gia xây dựng đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ
đảng, đồng thời tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng tổ chức đảng, xây
dựng đội ngũ CB, ĐV.
1.1.2. Công tác tư tưởng của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An quan niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc, phương châm
1.1.2.1 Quan niệm về công tác tư tưởng của các đảng bộ huyện
- Khái niệm “tư tưởng”
Theo Từ điển Triết học, “tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan
trong ý thức, là biểu hiện của quan hệ giữa con người với thế giới chung


17
quanh. Như vậy, tư tưởng - hiểu theo nghĩa chung nhất - là một hình thức tồn
tại của ý thức xã hội, kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan,
trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí mỗi con người. Là kết quả
của quá trình nhận thức của mỗi người, tư tưởng trước hết là tư tưởng của mỗi
cá nhân; là chủ kiến, chương trình hành động, chi phối hành động tự giác vì
lợi ích của mình, nên trong xã hội, những người cùng giai cấp, tầng lớp xã hội
có lợi ích giống nhau thường có tư tưởng giống nhau, được thể hiện ở tư
tưởng của giai cấp, tầng lớp hay nhóm xã hội.
Tư tưởng có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Là phạm trù thuộc ý thức xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội. Thực tiễn xã hội thay đổi, tư tưởng cũng bị thay đổi theo.
- Do con người ln hoạt động có mục đích, trước hết là vì lợi ích, nên
tư tưởng con người gắn liền với lợi ích.
- Thuộc ý thức xã hội, phụ thuộc vào trình độ và kết quả nhận thức, nên
con người có khả năng nắm bắt quy luật vận động của xã hội, định hướng

được tương lai, hình thành nên tư tưởng tiên tiến, vượt trước so với tồn tại xã
hội. Tư tưởng tiên tiến sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội và ngược lại tư
tưởng bảo thủ, lạc hậu kìm hãm sự phát triển của xã hội.
- Thông qua các quan hệ tư tưởng, các khâu cơ bản của quá trình tư
tưởng được thực hiện, gồm: một là, khâu sản xuất hệ tư tưởng (nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển các quan điểm thành hệ thống lý
luận); hai là, khâu tái sản xuất hệ tư tưởng (truyền bá tư tưởng); ba là,
khâu biến hệ tư tưởng thành sức mạnh vật chất, thúc đẩy con người đến
hành động, chỉ đạo hành vi của con người (vật chất hoá hệ tư tưởng). Mác
viết: “Vĩ khí của sự phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí. Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật
chất. Nhưng lý luận cũng sẽ trở thành vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng" [40, tr.580].


18
Các khâu của quá trình tư tưởng quy định các khâu của CTTT. Lý luận
về quá trình tư tưởng do C.Mác và Ph.Ăngghen đề xướng đã trở thành cơ sở
lý luận của CTTT.
Khái niệm chung về “CTTT”
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm xây dựng, xác lập, phát triển, hồn thiện hệ tư tưởng; phổ
biến, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng; định hướng giá trị, tạo niềm
tin và thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của mình.
Quá trình sản xuất vật chất và sự vận động của các quan hệ xã hội hình
thành tư tưởng. Tư tưởng của người này, giai cấp này - tự phát hay tự giác tác động vào tư tưởng của người khác, giai cấp khác và ngược lại. Sự tồn tại
quan hệ tư tưởng trong xã hội là một tất yếu khách quan. Khi xã hội phân chia
thành giai cấp, các giai cấp đối kháng nhau về lợi ích căn bản có yêu cầu sản
xuất ra hệ tư tưởng riêng để luận chứng cho sự tồn tại và lợi ích giai cấp của
mình, truyền bá hệ tư tưởng đó trong xã hội để gây ảnh hưởng, lôi cuốn, thúc

đẩy quần chúng hành động theo mình. Giai cấp thống trị - thơng qua đội ngũ
các nhà tư tưởng và hệ thống các thiết chế tư tưởng - ln tìm mọi cách tác
động, chi phối các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng nhằm biến hệ tư
tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Ngược lại,
các giai cấp bị trị cũng có thể thơng qua các nhà tư tưởng của giai cấp mình
hình thành nên hệ tư tưởng và truyền bá hệ tư tưởng đó qua nhiều con đường
khác nhau đến quần chúng, đấu tranh để giành chính quyền. Vì vậy, CTTT là
hoạt động mang tính khách quan trong xã hội.
Như vậy, trong lịch sử, hoạt động tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài
người phân chia thành giai cấp và phát triển trong q trình lịch sử lồi người,
do u cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp thống trị,
biến hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thành hệ tư tưởng thống trị trong đời
sống tinh thần của xã hội. Mọi chính đảng, nhà nước đều tiến hành CTTT, coi


19
đó là hoạt động quan trọng bậc nhất của mình, sử dụng mọi tinh hoa văn hoá,
mọi phát minh khoa học mới nhất, kể cả những thành tựu công nghệ tiên tiến
nhất, cho CTTT. Khi đảng cộng sản giành được chính quyền thì CTTT thành
một bộ phận cấu thành của hoạt động nhà nước, hoạt động của HTCT. C. Mác
đã khởi xướng CTTT bằng nghiên cứu lý luận, truyền bá lý luận trong phong
trào công nhân quốc tế và bằng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội cuối
thế kỷ XIX.
Trong lịch sử, CTTT xuất hiện và tồn tại khi có các điều kiện sau: có hệ
tư tưởng của các giai cấp và có sự truyền bá, đấu tranh tư tưởng; có các thiết
chế tư tưởng, bao gồm thiết chế nghiên cứu, sáng tạo, truyền bá, lưu giữ hệ tư
tưởng và thiết chế đào tạo các nhà tư tưởng; có đội ngũ những nhà tư tưởng
lấy hoạt động nghiên cứu, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng cho một giai cấp
nhất định làm nghề nghiệp của mình. Vì vậy, để tăng cường hoạt động tư
tưởng, thúc đẩy q trình hồn thiện, phổ biến rộng rãi hệ tư tưởng trong xã

hội, các giai cấp thống trị, các đảng chính trị và nhà nước rất quan tâm chăm
lo tạo lập, củng cố các điều kiện trên.
Kế thừa tư tưởng của C. Mác, V.I. Lênin đã phát triển lý luận CTTT của
đảng cộng sản. Người cho rằng: CTTT của đảng cộng sản là hoạt động đa
dạng và có chủ đích nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng XHCN,
hình thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới
quan khoa học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng
tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của CNXH. CTTT còn là một
trong những phương thức lãnh đạo chủ yếu của đảng cầm quyền.
Đối với Đảng ta, để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng,
Đảng phải tiến hành CTTT. CTTT của Đảng được tiến hành trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động nhằm tác động vào tồn bộ ý thức con người.
Có thể quan niệm: Cơng tác tư tưởng là toàn bộ các hoạt động của Đảng
nhằm truyền bá, phát triển hệ tư tưởng, đường lối của Đảng; nghiên cứu lý


20
luận, tổng kết thực tiễn, góp phần hình thành quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp luận khoa học
trong CB, ĐV và các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng,
sự đồng thuận của nhân dân; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, củng cố
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu, con đường cách mạng; cổ vũ,
động viên tinh thần, nâng cao ý chí, phát huy tính tự giác, tích cực, sáng tạo
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng; góp phần xây dựng nền văn hoá mới,
con người mới XHCN; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư
tưởng; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước và con người Việt Nam, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nước ta ra cộng đồng quốc tế.
CTTT của Đảng gồm các bộ phận sau: công tác lý luận (hoạt động
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn); cơng tác tun truyền, giáo dục lý
luận chính trị; công tác cổ động; giải quyết các vấn đề tư tưởng phát sinh; đấu

tranh tư tưởng.
Nghiên cứu lý luận tạo ra nội dung cho việc tuyên truyền, giáo dục lý
luận và tạo cơ sở khoa học cho việc đấu tranh tư tưởng. Sản phẩm của công
tác nghiên cứu lý luận là sự kết tinh trí tuệ của các nhà tư tưởng, của một
đảng. Với Đảng ta, đó là sự nghiên cứu để nhận thức ngày một đúng đắn và
đầy đủ hơn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực
tiễn, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh và những điều kiện lịch sử - cụ thể của
nước ta, đáp ứng những yêu cầu mới của đất nước và thời đại.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn cho cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc của nước ta và ngày nay xác định được đường lối đổi mới sáng tạo
với tầm chiến lược nhìn xa, trơng rộng. Thành tựu của tư duy lý luận gắn chặt
với hoạt động tổng kết thực tiễn của Đảng ta. Đó cũng là những định hướng
lớn về nội dung cho CTTT.


21
Công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận gồm: truyền bá, giáo dục lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phổ biến các quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; thơng tin có định hướng các thành tựu của
khoa học xã hội và nhân văn, các thơng tin chính trị, xã hội và văn hố, nhằm
giúp CB, ĐV và nhân dân quán triệt, vận dụng sáng tạo, thực hiện thắng lợi
các chủ trương, nghị quyết, đẩy mạnh các phong trào cách mạng (lao động,
sản xuất, công tác, học tập...).
Công tác cổ động nhằm thúc đẩy và lơi cuốn con người vào hành động
tự giác có định hướng. Cơng tác cổ động có vai trị to lớn trong việc tổ chức,
cổ vũ động viên quần chúng tự giác hành động cách mạng. Trong cổ động,
“khẩu hiệu” là yếu tố quan trọng nhất diễn đạt được xu thế phát triển, định
hướng của đảng lãnh đạo phù hợp với ý nguyện và quyết tâm của quần chúng.

Nó có sức lôi cuốn mạnh mẽ và gây được ấn tượng, tạo ra tính biểu cảm trực
tiếp để hình thành dư luận xã hội tích cực.
Việc giải quyết các vấn đề, các mâu thuẫn tư tưởng nảy sinh (CTTT
theo nghĩa hẹp) là hoạt động thường xuyên của các tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị, cộng đồng dân cư. Khi có các sự kiện chính trị, kinh tế mới; có các
chủ trương, chính sách mới thường có các khuynh hướng tư tưởng, các luồng
dư luận khác nhau, trong đó có khuynh hướng nhận thức lệch lạc dẫn tới có
thái độ sai trái, thậm chí cực đoan. Trong một tập thể ln có đa số có tư
tưởng tích cực, tiến bộ và một thiểu số có tư tưởng tiêu cực, có thể đó chỉ là
nhận thức, nhưng thông thường đều gắn với lợi ích, bất đồng ý kiến xuất phát
và xét đến cùng là do mẫu thuẫn về lợi ích. Vì vậy, các cấp lãnh đạo và quản
lý phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt, phân tích và có biện pháp xử lý đúng
đối với các khuynh hướng tư tưởng nảy sinh.
Đấu tranh tư tưởng là một bộ phận cấu thành CTTT, là động lực cho sự
phát triển của tư tưởng tiến bộ, tích cực và đẩy lùi các tư tưởng phản động,
tiêu cực. Đối với các quan điểm lý luận sai trái, các luận điệu thù địch, các tư


22
tưởng lệch lạc, sự thối hóa về tư tưởng chính trị, Đảng phải kiên quyết đấu
tranh, ngăn chặn bằng những phương thức thích hợp.
Văn hóa, nghệ thuật là một lĩnh vực gắn rất chặt với tư tưởng và có độ
nhạy cảm đặc biệt, là phương tiện sắc bén, tinh tế, hữu hiệu, tạo ra những
nhận thức đa dạng, nhiều mặt về hiện thực đời sống, về những cái hay, cái dở
trong xã hội và trong bản thân con người để đấu tranh, xây dựng hướng tới cái
đúng, cái tốt, cái đẹp (chân, thiện, mỹ). Chỗ mạnh nhất của văn hóa - nghệ
thuật chân chính là tìm hiểu, đi sâu phát hiện thế giới tâm hồn, những tư
tưởng, tình cảm con người trước những biến thiên xã hội, hướng con người
đến những vẻ đẹp nhân văn, tác động mạnh mẽ đến sự tự hoàn thiện nhân
cách. Với đặc trưng phản ánh bằng hình tượng nghệ thuật, văn hóa - nghệ

thuật rất dễ đi vào lòng người, lay động trái tim, khối óc con người, khắc sâu
vào tâm khảm họ, thôi thúc họ đi tới hành động. Đây vừa là đặc thù, vừa là lợi
thế của văn hóa - nghệ thuật so với các bộ phận CTTT khác.
Văn hóa - nghệ thuật lành mạnh có vai trị cực kỳ quan trọng trong xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bồi đắp phát huy nội lực bảo vệ, xây dựng phát triển đất nước. Ngun
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã từng nói:
Khơng có vũ khí nào tốt hơn những sản phẩm văn học, nghệ thuật
có giá trị, những cơng trình văn hóa mang nội dung sâu sắc chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ tự lực,
tự cường, xây dựng bản lĩnh chính trị trong q trình mở cửa hội
nhập quốc tế. Khơng có phương thức nào tốt hơn là sử dụng văn hóa
- văn nghệ để nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cách mạng,
kiên định đường lối của Đảng, lập trường của giai cấp công nhân và
nguyên tắc tổ chức của Đảng [49].
Hiện nay, nước ta có một hệ thống thiết chế văn hóa khá hồn chỉnh,
với một đội ngũ đơng đảo các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, văn nghệ sĩ, nhạc sĩ,


23
nhà nghiên cứu lý luận, phê bình và những người sáng tạo nghiệp dư, bán
chuyên trách; hàng trăm đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, ca múa nhạc, sân
khấu; các hãng phim, hệ thống viện bảo tàng, nhà bảo tàng, hệ thống thư viện,
nhà văn hóa, nhà truyền thống, nhà triển lãm, nhà hát, rạp chiếu bóng; hệ
thống xuất bản, báo chí với hàng chục nhà xuất bản, hàng trăm tờ báo, hệ
thống phát thanh, truyền hình; các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; các
khu vui chơi giải trí... Nếu tất cả đội ngũ, thiết chế và sản phẩm văn hóa đó
được huy động đầy đủ, tổ chức tốt, sẽ tạo nên sức mạnh chính trị tinh thần,
văn hóa to lớn, đóng góp tích cực vào hoạt động CTTT, góp phần làm cho đời
sống tinh thần, văn hóa của xã hội phát triển phong phú, lành mạnh, đẩy mạnh

sự nghiệp xây dựng con người mới XHCN.
Quan niệm về CTTT của Đảng:
CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành rất quan
trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động nghiên cứu, truyền
bá và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây
dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, tư tưởng chính trị đúng
đắn, xây dựng niềm tin và đạo đức, lối sống, tạo nên sự đồng thuận trong nhân
dân, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", làm thất bại
mọi âm mưu phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch.
CTTT là sự nghiệp của tồn Đảng. Trong điều kiện có chính quyền,
CTTT là cơng việc của tồn bộ HTCT dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng vừa
tiến hành CTTT trong Đảng, vừa lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội tiến hành CTTT.
Quan niệm về CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An:
CTTT của các đảng bộ huyện ở tỉnh Nghệ An là toàn bộ các hoạt động
của các đảng bộ nhằm truyền bá quan điểm, đường lối của Đảng; nghiên cứu


24
lý luận, tổng kết thực tiễn, góp phần hình thành chủ trương, nghị quyết của
các đảng bộ và cấp ủy cấp trên; xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan cộng
sản, phương pháp luận khoa học trong CB, ĐV và các tầng lớp nhân dân, tạo
sự thống nhất tư tưởng trong đảng bộ và sự đồng thuận của nhân dân; xây
dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, mục tiêu, con đường cách mạng; cổ vũ, động viên tinh thần, nâng cao
ý chí, phát huy tính tự giác, tích cực, sáng tạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ;
góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN; đấu tranh chống

các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của
quê hương, đất nước và con người Việt Nam, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của nước ta ra cộng đồng quốc tế.
Nội dung lãnh đạo và tiến hành CTTT của các đảng bộ huyện gồm:
Thứ nhất: Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận góp phần hồn thiện
đường lối của Đảng, các nghị quyết của đảng bộ huyện. Huyện ủy, Ban Tuyên
giáo và Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện chỉ đạo và phối hợp thực hiện
các nội dung này.
Thứ hai: giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho CB, ĐV; kiên
quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa ảnh
hưởng của các tư tưởng phản động, tiêu cực. Tiến hành công tác tuyên truyền,
giáo dục theo sự chỉ đạo của cấp uỷ và sự hướng dẫn của cấp trên phù hợp với
điều kiện của địa phương.
Thứ ba: nắm bắt, phân tích kịp thời và chính xác diễn biến nhận thức,
tư tưởng chính trị, tâm trạng xã hội của CB, ĐV và nhân dân trên địa bàn để
xử lý, giúp mọi người hiểu đúng, hiểu rõ các vấn đề, tạo sự nhất trí cao về
quan điểm, đường lối của Đảng; kịp thời uốn nắn những nhận thức, tư tưởng
mơ hồ, lệch lạc; phê phán và xử lý nghiêm minh những đảng viên vi phạm
nguyên tắc tổ chức và kỷ luật phát ngôn. Giáo dục CB, ĐV và nhân dân nâng


25
cao cảnh giác, chống "diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra
khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, không có “điểm nóng” ở cơ sở.
Thứ tư: chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, coi
trọng việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới, tạo nên các
phong trào thi đua sơi nổi hồn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa
phương trong từng giai đoạn.

Thứ năm: chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra CTTT ở các đảng bộ, chi bộ
trực thuộc; gắn liền với các hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
(KT-XH) của các cơ sở trên địa bàn huyện, kể cả các cơ quan, đơn vị của tỉnh
và Trung ương đóng trên địa bàn.
Phương thức lãnh đạo và tiến hành CTTT của các đảng bộ huyện
Hội nghị lần thứ năm BCHTƯ khoá X khẳng định:
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HTCT là
cách thức, phương pháp Đảng tác động lên hoạt động của hệ thống
đó nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong điều kiện ở nước ta một đảng duy
nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, phương thức lãnh đạo
của Đảng tác động trực tiếp đến hoạt động của tất cả các tổ chức
trong HTCT. Phương thức lãnh đạo tốt sẽ tạo động lực cho các tổ
chức trong HTCT phát huy vai trị, vị trí của mình. Ngược lại, nếu
phương thức lãnh đạo của Đảng khơng tốt, sẽ kìm hãm sự phát huy
năng lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị [20].
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định:
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng cơng tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có


×