Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

NHỮNG vấn đề CÔNG tác tư TƯỞNG lý LUẬN của ĐẢNG ý NGHĨA TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG tác tư TƯỞNG lý LUẬN TRONG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.8 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CỦA
ĐẢNG. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY.
Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng
Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng tác động vào đội ngũ cán bộ đảng viên và
quần chúng nhân dân, định hướng nhận thức, giải quyết mâu thuẩn tư tưởng, phát
huy tiềm năng sáng tạo trên lĩnh vực tinh thần, nhằm xác lập thế giới quan và hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân, hình thành con người mới và xã hội mới. Công tác tư
tưởng, lý luận giữ một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, góp phần làm cho hệ tư tưởng vô sản ăn sâu
vào nhận thức của quần chúng nhân dân, khơi dậy và phát huy sức mạnh của cả dân
tộc và sức mạnh của cả thời đại, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X ''Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới'', Đảng ta xác định: ''Công tác tư tưởng, lý
luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ,
tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ
cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý
luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc''1.
Lịch sử 83 năm của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời, công tác tư
tưởng, lý luận đã góp phần quan trọng xây dựng thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cách mạng, xây dựng củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cổ vũ động viên quần chúng tự giác hành
động cách mạng, đẩy mạnh thi đua yêu nước vượt qua muôn trùng khó khăn
gian khổ giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ và
giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1


ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị TW5 – khóa X, Nxb CTQG, hà Nội, 2007, tr.42

1


Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh của xu hướng toàn cầu hóa
kinh tế, tác động sâu rộng đến giao lưu hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, nhất là sự phát triển nhảy vọt của công nghệ
sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ giải trí… Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo nhất là sự cạnh tranh gay gắt
thị trường kinh tế, cũng như cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu:
chạy đua vũ trang, cuộc chiến chống đói nghèo tật bệnh và vấn đề nóng lên của
trái đất…Đất nước ta qua 27 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã thu được
nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ chúng ta
cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là âm mưu diễn biến hoà
bình của các thế lực thù địch trong và ngoài nước…Do đó, nghiên cứu và làm
sáng tỏ những vấn đề cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình hiện nay không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn cấp thiết hơn bao giờ hết.
1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình hiện nay.
1.1. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của
tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và vai trò của lý luận cách mạng khoa học
đối với sự phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng
thời ý thức xã hội có vai trò to lớn tác động trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động trở
lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai chiều hướng kìm hãm
hoặc thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nếu ý thức xã hội lỗi thời lạc hậu thì kìm
hãm, ngược lại ý thức xã hội tiến bộ, cách mạng thì thúc đẩy sự phát triển của xã

hội. Đối với tư tưởng lý luận cách mạng lại càng có vai trò hết sức to lớn đối với
tiến trình phát triển của xã hội. Khi nói về vai trò của lý luận cách mạng C.Mác
đã chỉ rõ: “Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng”2. Đảng ta từ khi ra đời cho đến nay luôn khẳng định: chủ nghĩa
2

C.Mác-Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 580.

2


Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng,
đồng thời Đảng ta cũng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là tinh hoa trí tuệ của
loài người, là sản phẩm có tính quy luật của sự phát triển những tư tưởng tiên
tiến của nhân loại chỉ ra quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội loài
người là tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ
thống lý luận cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân, là sự khái quát
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, là hệ tư tưởng, là vũ khí
lý luận của giai cấp công nhân, chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới. Lý luận Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận,
là vũ khí lý luận sắc bén và hoàn bị nhất để giải phóng giai cấp, giải phóng con
người thoát khỏi ách áp bức bóc lột, bất công. Khi nói tới vai trò của lý luận
cách mạng trong tác phẩm Đường cách mệnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… chỉ có theo
lý luận cách mệnh tiền phong đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong”3.
1.2. Xuất phát từ vai trò của công tác tư tưởng, lý luận trong tổ chức
xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản.
Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò rất quan trọng trong tổ chức xây

dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản, là cơ sở để xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng, lý luận đã tuyên truyền lý
luận cho cán bộ, đảng viên quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, lý
giải những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đồng thời trang bị cho đảng
viên kiến thức lý luận, làm cho đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, nâng cao nhận thức cho Đảng, tổng kết đúc rút lý luận và đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái thù địch, góp phần xây dựng các tổ chức đảng từ
Trung ương đến địa phương vững mạnh. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ, giải quyết tốt mối quan hệ nội tại trong Đảng. Bởi vì, tổ chức đảng muốn

33

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 259.

3


vững mạnh phải thông qua công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao phẩm
chất năng lực cho cán bộ, đảng viên.
V.I.Lênin, Người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân khi nói về vai trò của
lý luận cách mạng đối với Đảng Cộng sản, Người chỉ rõ: “không có lý luận cách
mạng thì không có phong trào cách mạng”, “chỉ Đảng nào được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên
phong”4. Bởi vì, theo V.I.Lênin Đảng là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân
thì phải được trang bị lý luận cách mạng khoa học, có như vậy Đảng mới có khả
năng giáo dục, giác ngộ tuyên truyền cho giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động, mới có cơ sở tư tưởng lý luận để xây dựng đường lối, mới có
vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cơ hội xét lại. V.I.Lênin còn cho rằng:
“Không thể có một Đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh nếu không có lý luận
cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại để họ rút ra từ

trong lý luận đó tất cả những điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những
phương pháp đấu tranh và phương pháp hành động của họ” 5. Đồng thời, Người
còn chỉ rõ, về phương diện thực tiễn, chính quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
cũng đã toát lên vai trò to lớn của lý luận cách mạng khoa học. Kế thừa tư tưởng
đó Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng mà không có lý luận dẫn đường cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”6. Hồ Chí Minh coi lý luận
có vai trò hết sức to lớn đối với Đảng. Do đó, Đảng ta là phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo và không ngừng bổ sung phát triển hoàn thiện lý luận cách mạng. Bác căn
dặn, làm cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực
hành phải đi đôi với nhau, nội dung này được Người xếp thứ 2 trong 12 điều
thuộc tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh
coi lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với Đảng và trách nhiệm của Đảng. Khi
nói về vai trò của lý luận cách mạng khoa học đối với quá trình xây dựng và
hoạt động của Đảng Cộng sản.

V.I.Lênin toàn tâp, tập 6, Nxb tiến bộ Maxcơva, 1978, tr. 32.
V.I.Lênin toàn tâp, tập 4, Nxb tiến bộ Maxcơva, 1978, tr. 232.
6
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H 1995, tr.268.
4
5

4


Nhìn lại quá trình phát triển của xã hội loài người chúng ta thấy rằng: cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, công tác tư tưởng lý luận có vai trò
hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền giác ngộ, tập hợp và phát huy đông đảo
mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi phương tiện vật chất, lý giải và dự báo những vấn

đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Đối với Đảng ta, từ khi ra đời đến nay luôn xác định được tầm quan
trọng, ý nghĩa to lớn của công tác tư tưởng, lý luận, đặc biệt trong công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước hiện nay, nhất là trong xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, tại Đại hội XI, Đảng chỉ
rõ: ''Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm
tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.
Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ
chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn''7. Đồng thời, để phát
huy tốt vai trò, tác dụng của công tác tư tưởng trong tình hình mới, nhất là đối
với việc đấu tranh chống ''diễn biến hoà bình'' và ''tự diễn biến'', trong Văn kiện
Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: ''Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hoạt động ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch. Chủ động
phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện ''tự diễn biến'', ''tự chuyển
hoá'' trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”8.
1.3. Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch
đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Thời gian qua, các thế lực thù địch đã ra sức tấn công về tư tưởng, lý luận,
nhằm mục đích "đa nguyên, đa đảng", xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Đặc biệt, năm 2012 và những tháng
đầu năm 2013, nước ta tổ chức nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
7
8

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.256
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.257

5



quốc phòng, an ninh và đối ngoại sâu rộng, đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 4;
Quốc hội tổ chức nhiều kỳ họp quan trọng, tập trung vào chuẩn bị và lấy ý kiến
toàn dân về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Luật Đất đai (sửa đổi); các hoạt
động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta diễn ra sâu rộng trên mọi
bình diện quốc tế và khu vực... Cay cú trước những thành công đó, các thế lực
thù địch đã tìm mọi cách chống phá chúng ta, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận với các thủ đoạn: kích động, xuyên tạc sự thật, đưa ra vấn đề dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo, được chúng coi là bốn mũi xung kích để trọc thủng mặt
trận chính trị tư tưởng của nước ta. Về nội dung chống phá, chúng tập trung chủ
yếu vào các vấn đề sau:
Một là, chúng xuyên tạc, lật ngược, bác bỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Trong đó,
với học thuyết Mác - Lênin, chúng xuyên tạc, phủ nhận tới những lý luận căn
bản nhất, để từ đó bác bỏ hoàn toàn những tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, cùng những thành tựu
trong những năm đổi mới vừa qua.
Hai là, chúng xuyên tạc những chân lý, nguyên lý khoa học của chủ nghĩa
Mác, đối lập thực tiễn cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác; coi chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Trung Quốc và Việt Nam hiện nay chính là cái “thực thể” đã bị
chủ nghĩa Mác phủ định từ nền móng.
Ba là, chúng xúc phạm lòng tôn kính của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; kết hợp với xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí
Minh và những cố gắng, nỗ lực hết mình của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn đẩy
lùi những tiêu cực, tệ tham nhũng trong xã hội; xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh.
Bốn là, chúng phủ nhận sự nhận thức lý luận và thực tiễn về sự lựa chọn

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Chúng thiết lập và giả tạo

6


những tư liệu, nhận định sai lầm, khó kiểm chứng về lịch sử; chúng reo rắc hoài
nghi về việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; chúng buông những lời cay nghiệt đối với “sự lựa chọn của lịch
sử” về con đường đi lên của dân tộc… hòng làm cho người đọc nhầm lẫn, thế hệ
trẻ hoài nghi, đặt ra những câu hỏi ngờ vực, dao động niềm tin trong nhân dân.
Năm là, chúng xóa nhòa ranh giới mọi giai cấp, tầng lớp, phủ nhận cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra đầy khó khăn, phức tạp hiện
nay; xuyên tạc bản chất, nguồn gốc giai cấp của Đảng, phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự
nghiệp cách mạng nước ta.
Sáu là, chúng tập trung xuyên tạc tinh thần, nội dung Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI), đặc biệt là phá hoại niềm tin về việc thực hiện thành công
Nghị quyết. Chúng tiến công trực diện, trực tuyến, trực tiếp và dày đặc vào việc
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; coi việc làm này là “không có hy
vọng” để lấy lại niềm tin trong nhân dân và cán bộ, đảng viên và đó là “Sự khốn
cùng của (phương pháp) cách mạng”.
Bảy là, chúng cổ súy, hô hào lẫn nhau tập trung phản bác các luận cứ,
phương pháp, quy trình, cách thức và thời gian tổ chức lấy ý kiến nhân dân về
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992; xuyên tạc tinh thần sửa đổi Hiến pháp; phủ
nhận lý luận và các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về lập hiến, lập pháp; tuyên
truyền các học thuyết, nguyên tắc tư sản về lập hiến. Cụ thể: Chúng phủ nhận
thể chế chính trị nước ta, đòi hiến định thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập; chúng phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa; phủ nhận công lao của Đảng đối
với đất nước và dân tộc, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chế độ xã hội,
Nhà nước, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; phủ nhận việc hiến định “Đất đai

thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý
theo quy định của pháp luật”, đòi hiến định “đất đai thuộc sở hữu tư nhân”; bác
bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi phi chính trị hóa quân
đội, quân đội phải trung lập, kêu gọi quốc gia hóa quân đội; đánh đồng công lao

7


của những người, gia đình đã chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội với những kẻ tử thương một thời theo chân ngoại xâm chống lại
độc lập, thống nhất dân tộc…
Tám là, kết hợp xuyên tạc tình hình khiếu kiện đất đai, hướng lái, kích
thích tư tưởng chống đối trong một bộ phận nông dân với nói xấu, vu cáo lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc bản chất, chia rẽ sự đoàn kết,
thống nhất giữa Công an, Quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân nhằm
tuyên truyền, kích động tư tưởng bạo loạn, lật đổ bằng ngôn từ mới.
1.4. Xuất phát từ thực trạng công tác tư tưởng, lý luận thời gian qua.
Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu có nhiều
nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do công tác tư tưởng lý luận
không được chú ý đúng mức, lý luận thường bị lạc hậu so với thực tiễn cuộc sống,
không dự báo và lý giải kịp thời những vấn đề mà thực tế đòi hỏi, lý luận không
được bổ sung phát triển kịp thời với tình hình thực tiễn dẫn tới bị khủng hoảng thoái
trào. Khủng hoảng về lý luận kéo theo khủng hoảng về chính trị. Đó là bài học
xương máu của các Đảng Cộng sản về việc hạ thấp vai trò công tác tư tưởng lý luận.
Đối với nước ta, hơn 27 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác tư
tưởng, lý luận đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bám sát thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến kịp thời
những quan điểm lý luận cũng như đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng,
thành tựu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; làm sáng

tỏ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta; đấu tranh chống thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, góp phần xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, khẳng định và bảo vệ đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ gìn, củng cố sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

8


Bên cạnh những thành tựu trên, công tác tư tưởng, lý luận thời gian qua vẫn
còn những yếu kém, khuyết điểm. Nghị quyết TW5 – khóa X đã nhận định: “Công
tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn
chế, chưa sát thực tiễn, phương pháp chưa linh hoạt, chưa làm tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thiếu quan tâm
giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống... Công tác lý luận còn lạc hậu trên một số
mặt, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn; chưa giải đáp được nhiều vấn đề do
thực tiễn đặt ra... Công tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động lý luận, chương
trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận, chính trị trong nhà trường chậm
đổi mới, chưa theo kịp trình độ phát triển và yêu cầu của xã hội”9.
Nghị quyết Đại hội XI cũng nhận định: “Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến
đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc
bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực
và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức
tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành
của nhiều cấp, ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở
một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu
cầu”10.
Nguyên nhân của những yếu kém khuyết điểm trên được Đại hội XI nhận
định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới
còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu.
9

ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị TW5 – khóa X, Nxb CTQG, hà Nội, 2007, tr.41
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.172, 173

10

9


Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số
lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ
cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất
của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập”11.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn thực tiễn trên, dựa trên việc nghiên
cứu, đúc rút những kinh nghiệm, những bài học về công tác tư tưởng, lý luận mà
Đảng ta đã tích lũy được trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, có thể thấy,
để phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận xã hội, đưa đất nước
vượt qua những khó khăn, thách thức, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nâng cao hiệu quả công
tác tư tưởng, lý luận là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp về công tác tư tưởng,

lý luận trong tình hình mới.
Trên cơ sở dự báo tình hình, Nghị quyết Trung ương 5 – khóa X đã xác
định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp về công tác tư tưởng,
lý luận trong tình hình mới là.
2.1. Về mục tiêu
Công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần tích cực vào việc thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng cụ thể là: củng cố, tăng cường sự
thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh
thần trong nhân dân; giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao ý chí
phấn đấu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Công tác tư tưởng, lý luận góp phần tích cực và thực hiện có hiệu quả
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
11

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.173

10


chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng lãng
phí, khắc phục một bước quan trọng tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Công tác tư tưởng, lý luận phải vượt qua tình trạng lạc hậu, yếu kém, khắc
phục được những khuyết điểm kéo dài; đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả
hoạt động, góp phần củng cố tư tưởng, phát triển trình độ lý luận, chính trị của

toàn Đảng và hệ thống chính trị, khẳng định vai trò tiên phong của Đảng.
2.2. Quan điểm chỉ đạo
Một là, công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Công tác tư tưởng, lý luận là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền
tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong
của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; Công tác tư tưởng, lý
luận phải thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc.
Hai là, công tác tư tưởng, lý luận, phải đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những
giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế
giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Ba là, công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên.
Trước hết là cấp ủy các cấp và đồng chí bí thư cấp uỷ; Công tác tư tưởng
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, với sự tham gia, đóng góp của nhân dân,
trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý
luận của Đảng; Phải phát huy dân chủ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo của
toàn Đảng, toàn xã hội, tạo bước phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, báo chí.

11


Bốn là, công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người.
Đây là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững những
quy luật riêng của tư tưởng, có thái độ, phương pháp khoa học; Kết hợp chặt chẽ
giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí và tình cảm, giữa

lời nói và việc làm, giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính, lấy cái đẹp dẹp
cái xấu, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực; Phải gắn bó mật thiết và phục vụ hiệu quả
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
2.3. Những nhiệm vụ và giải pháp
2.3.1. Đối với công tác tư tưởng
Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác tư tưởng; tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng. Xây dựng và thực thi quy chế,
quy định toàn Đảng từ Trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên có trách nhiệm
trực tiếp làm công tác tư tưởng, tham gia tổng kết thực tiễn; Cải tiến, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình tuyên truyền, đặc biệt chú trọng
công tác tuyên truyền miệng phù hợp với trình độ, nhu cầu từng đối tượng; Triển
khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức đối với các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Tổ chức thực hiện rộng khắp, có chiều
sâu, thiết thực, hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; Xây dựng và thực hiện chiến lược, các kế hoạch cụ thể về phát
triển văn học - nghệ thuật. Đưa cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả chính trị - kinh tế - xã hội của
cuộc vận động; Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng,
Nhà nước ta, làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình”; Thường xuyên cảnh
giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả Trung ương và các
ngành, các cấp; Củng cố tổ chức, tăng cường cán bộ và phương tiện để mở rộng
phạm vi và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại; Xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho

12


công tác tư tưởng; Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng

đến năm 2020 từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng chiến lược công tác tư tưởng
trong tình hình mới.
2.3.2. Đối với công tác lý luận
Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và
thời đại. Đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh; Tiếp tục làm sáng tỏ
nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta; Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, về đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, về phát huy và thực thi dân chủ trong
Đảng, nâng cao tầm trí tuệ và văn hoá, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; Nghiên cứu sự phát triển văn hoá và con người Việt Nam trong thời kỳ
mới. Nghiên cứu những vấn đề mới trong lý luận và phê bình văn học, nghệ
thuật phù hợp với quá trình phát triển, đồng thời phê phán, đẩy lùi các khuynh
hướng, quan điểm lệch lạc, sai trái; Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân; những vấn đề đặt ra trong cuộc đấu tranh tư
tưởng - lý luận trong thời kỳ mới; Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thời đại
ngày nay và của thế giới đương đại. Chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc
các lý thuyết phát triển, các trào lưu lý luận và các thành tựu khoa học xã hội thế
giới; Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục lý luận trong hệ thống các trường
chính trị, các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trong cả
nước; khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam;
Khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động lý luận và
công tác chỉ đạo, quản lý nghiên cứu lý luận.
3. Ý nghĩa công tác tư tưởng, lý luận của Đảng đối với nâng cao chất
lượng công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay.

13



3.1. Thực trạng công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội.
3.1.1. Những thành tựu và hạn chế của công tác tư tưởng lý luận trong
quân đội
Quân đội ta từ khi ra đời đến nay trải qua hai cuộc chiến tranh gay go, ác
liệt, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta vẫn luôn vững vàng về chính trị, sự vững vàng đó
có vai trò hết sức to lớn của công tác tư tưởng lý luận. Công tác tư tưởng lý luận
đã trực tiếp góp phần vào xây dựng phẩm chất chính trị, tinh thần cho cán bộ,
chiến sĩ, là vấn đề có ý nghĩa quyết định nâng cao sức mạnh chiến đấu trong
quân đội. Thực tiễn gần 70 năm qua cùng với quá trình xây dựng, trưởng thành
và chiến đấu của quân đội đã khẳng định vai trò tích cực, hiệu quả to lớn của
công tác tư tưởng lý luận đối với việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tạo
nên sức mạnh chính trị, tinh thần của quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn là
công cụ sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân,
góp phần làm cho các Nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực trong cuộc sống
hoạt động của quân đội.
Trong những năm qua, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới, khu vực và trong nước. Công tác tư tưởng lý luận trong quân đội đã bám
sát nhiệm vụ chính trị, đời sống bộ đội, đã tập trung giáo dục, bồi dưỡng, nâng
cao nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bằng
nhiều hình thức, phương pháp giáo dục sinh động, phù hợp với các đối tượng
cho cán bộ, chiến sĩ ở các lĩnh vực, công tác tư tưởng đã giúp nâng cao nhận
thức tư tưởng lý luận về quan điểm, đường lối của Đảng, góp phần nghiên cứu
làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Công tác tư tưởng đã góp phần xây dựng quân đội
nhân dân vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng
hợp, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, củng cố ngày càng
vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, từng bước đổi mới tư duy

quân sự, xây dựng những quan điểm mới về bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc

14


phòng và xây dựng quân đội trong điều kiện hòa bình, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và đề
phòng các cuộc xung đột hoặc can thiệp vũ trang cục bộ. Một số thành tựu của
các đề tài khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự cấp Nhà nước và
cấp bộ đã được vận dụng và nghiên cứu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, góp phần tham mưu cho
Đảng, Nhà nước, xây dựng và phát triển nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo đường
lối đổi mới của Đảng. Công tác tổng kết thực tiễn được tiến hành thường xuyên
đã bám sát đường lối của Đảng, nhiệm vụ chính trị của quân đội, đã cung cấp
những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối quốc phòng - an ninh, xây
dựng lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong việc xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Mặt khác, công tác tư tưởng, lý luận đã nhạy bén, chủ động và kiên quyết
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
lật đổ, “phi chính hóa” quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, ngăn chặn có hiệu quả những biểu hiện của nhận thức lệch lạc, sai trái,
góp phần làm trong sạch nội bộ, củng cố, tăng cường trận địa tư tưởng trong
quân đội và toàn xã hội. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực của quân
đội những năm đổi mới vừa qua là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ
hoạt động của công tác tư tưởng lý luận trong quân đội làm cho nó có sức thuyết
phục cao hơn, lòng tin được củng cố và phát triển, bản lĩnh trình độ chính trị
được nâng lên cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, trước những diễn biến mau lẹ của tình hình, những vấn đề mới

phát sinh, phát triển của xã hội và quân đội, công tác tư tưởng lý luận trong quân
đội vừa qua vẫn còn những bất cập, chưa đáp ứng kịp đòi hỏi của thực tiễn đổi
mới của đất nước, của quân đội và yêu cầu của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận hiện nay. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa kịp thời nắm

15


chắc và giải quyết tốt những băn khoăn, vướng mắc trong tư tưởng nhận thức
của cán bộ, chiến sĩ. Việc tổng kết thực tiễn triển khai còn chậm, chưa rộng khắp
ở các ngành, các cấp và chưa thật sự bám sát yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Kết
quả nghiên cứu chậm được ứng dụng triển khai. Một số cấp ủy đảng còn biểu
hiện chủ quan, đơn giản, chưa quan tâm đúng mức đến công tác tư tưởng, lý
luận. Hoạt động công tác tư tưởng, lý luận ở một số đơn vị chất lượng chưa cao,
thiếu chiều sâu và độ bền vững, tính chủ động nhạy bén và sắc xảo hiệu quả
trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn lúng túng, trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị chưa tương xứng
với vị trí, vai trò nhiệm vụ, có lúc chưa thể hiện được dũng khí đấu tranh chống
các quan điểm thù địch, sai trái. Trước những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của các
thế lực thù địch, một số cán bộ, chiến sĩ có những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh
giác, chưa nhận thức hết âm mưu thâm độc của địch, chưa thấy hết được tính
chất gay go phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hiện nay.
Việc đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng thù địch sai trái chưa thật sắc
bén. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận chưa được đầu tư xây dựng
đúng mức, trình độ năng lực chưa ngang tầm với đòi hỏi của tình hình.
3.1.2. Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế của công tác tư tưởng,
lý luận trong quân đội.
Thành công của công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội bắt nguồn từ
đường lối đổi mới đúng đắn và sự lãnh đạo tài tình của Đảng, từ bản chất và
truyền thống tốt đẹp của quân đội nói chung, của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý

luận nói riêng. Nguyên nhân trực tiếp là sự kiên định vững vàng và nhạy bén của
đội ngũ cán bộ chủ trì, đặc biệt là cấp chiến dịch, chiến lược. Đồng thời, công
tác tư tưởng, lý luận trong quân đội đã có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của
Quân ủy Trung ương mà trực tiếp là Tổng cục Chính trị, đã chăm lo tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho hoạt động công tác tư tưởng, lý luận phát triển và giành
kết quả tốt. Cho nên, nhận thức về công tác tư tưởng, lý luận của các cấp ủy
đảng và người chỉ huy có chuyển biến tốt nên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ

16


chức thực hiện và đầu tư đúng mức cho nên công tác tư tưởng, lý luận giành kết
quả ngày càng cao. Đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận
và ngành tư tưởng văn hóa toàn quân đã có sự phấn đấu vươn lên. Việc phối kết
hợp giữa các cơ quan chức năng trong và ngoài quân đội đã có sự chuyển biến
tiến bộ rõ nét vì thế mà phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức và
mọi lực lượng trong tiến hành công tác tư tưởng lý luận.
Tuy nhiên, sự tồn tại, hạn chế của công tác tư tưởng, lý luận trong quân
đội những năm qua có nguyên nhân khách quan là: Do sự khủng hoảng và sụp
đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nên nhiều vấn đề mới
nảy sinh rất khó giải quyết ngay mà còn phải tìm tòi, thử nghiệm. Về nguyên
nhân chủ quan là trình độ của đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ làm
công tác tư tưởng, lý luận nói riêng còn hạn chế. Số cán bộ đầu ngành còn ít, lớp
cán bộ trẻ hiện nay tuy đông đảo, mặc dù được đào tạo cơ bản nhưng chưa trải
qua chiến tranh, ít được rèn luyện thử thách trong đấu tranh chính trị giai đoạn
khó khăn phức tạp của cách mạng so với trước đây, nhất là trong bối cảnh quốc
tế, khu vực cũng như trong nước hiện nay, kinh nghiệm thực tiễn không nhiều.
Mặt khác, cũng cần phải đề cập tới nguyên nhân về sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp từ trên xuống, cần coi trọng và có tầm nhìn chiến lược đối với công tác tư
tưởng, lý luận, nhất là việc đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận trong

quân đội. Tình trạng khoán trắng cho cán bộ chính trị, coi vấn đề tư tưởng, lý
luận chỉ là công tác của cán bộ chính trị, cán bộ làm công tác tuyên huấn vẫn
còn nặng tư tưởng của một số chỉ huy ở các đơn vị, chính điều đó đã làm ảnh
hưởng rất lớn tới công tác tư tưởng, lý luận nói chung và công tác giáo dục
chính trị tư tưởng nói riêng.
3.2. Phương hướng chung của công tác tư tưởng, lý luận và một số giải
pháp chủ yếu tăng cường công tác tư tưởng lý luận của Đảng trong quân đội
giai đoạn hiện nay.
3.2.1. Phương hướng chung

17


Phương hướng công tác tư tưởng lý luận trong quân đội là: tiếp tục đổi
mới nâng cao chất lượng công tác tư tưởng lý luận, kết hợp chặt chẽ với công
tác tổ chức và công tác chính sách, tạo sự thống nhất về chính trị tư tưởng trong
quân đội, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, kiên định với những quan
điểm có tính nguyên tắc mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
xác định, đấu tranh kiên quyết chống những quan điểm sai trái, vô hiệu hóa mọi
âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, “Phi chính trị hóa” quân đội, chống mọi
biểu hiện mơ hồ mất cảnh giác, cá nhân chủ nghĩa tha hóa về đạo đức lối sống.
Đồng thời phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát
triển lý luận một cách sáng tạo về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới,
nhiệm vụ quân đội, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, về chiến tranh nhân
dân và về nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
3.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác tư tưởng, lý
luận của Đảng trong quân đội giai đoạn hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận đã góp phần quan trọng xây dựng quân đội
nhân dân vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, củng cố

ngày càng vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong Quân đội nhân
dân. Để tăng cường công tác tư tưởng, lý luận góp phần xây dựng Quân đội ta
vững mạnh về chính trị sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao
trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư
tưởng, lý luận.
Đây là giải pháp bao trùm, có tính chỉ đạo xuyên suốt cả nội dung, hình
thức và phương pháp tiến hành công tác tư tưởng lý luận của Đảng trong quân
đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo thường xuyên chặt chẽ của Đảng mà trực
tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung
ương là nhân tố quyết định đến hiệu quả sức mạnh của công tác tư tưởng, lý luận
trong sự nghiệp cách mạng nói chung, với xây dựng quân đội vững mạnh về

18


chính trị nói riêng. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta được thể hiện trong
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, định hướng chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về những nội dung cơ bản trong công tác tư tưởng lý luận,
là cơ sở để triển khai đồng bộ những nội dung, hình thức, biện pháp của công tác
tư tưởng, lý luận trong toàn xã hội và trong quân đội. Đây là những căn cứ để
Quân ủy Trung ương, cấp ủy đảng các cấp ra nghị quyết lãnh đạo công tác tư
tưởng lý luận trong quân đội, đơn vị. Hiện nay, tình hình tư tưởng, dư luận, tâm
trạng, tâm lý xã hội diễn biến hết sức mau lẹ do sự phát triển của các loại
phương tiện thông tin hiện đại, các loại thông tin đa chiều mở rộng trên phạm vi
toàn cầu. Cho nên, diễn biến tư tưởng của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ cũng bị tác
động và biến đổi theo một cách nhanh chóng và khó đoán trước. Vì vậy, trên cơ
sở quan điểm, đường lối của Đảng trong các văn kiện, nghị quyết mà Bộ Chính
trị, Ban Bí thư cần có những chỉ thị, hướng dẫn để Ban tư tưởng văn hóa Trung
ương, Hội đồng lý luận Trung ương, các cơ quan chỉ đạo chiến lược của Đảng,

Nhà nước, quân đội kịp thời quán triệt và tổ chức thực hiện theo chức trách,
nhiệm vụ. Điều đó có nghĩa là: những quan điểm, chủ trương của Đảng cần sớm
được Nhà nước thể chế hóa thành các luật, pháp luật trong lĩnh vực hoạt động về
tư tưởng văn hóa (xuất bản báo chí, văn hóa nghệ thuật, văn học nghệ thuật…).
Hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng, chính
vì nhận thức đúng đắn vấn đề đó mà Đảng ta khẳng định: “Coi trọng công tác
tư tưởng,…xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc cho sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững mục tiêu lý tưởng, giữ vững niềm
tin, bảo đảm sự thống nhất giữa nhận thức và hành động” 12. Quán triệt tinh thần
đó các cấp ủy Đảng trong quân đội tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình phải
coi trọng và tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng, lý luận, coi đó là nhiệm vụ
hàng đầu phải tích cực, chủ động không được trông chờ, ỷ lại vào cơ quan
chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận. Trên cơ sở chủ trương, nghị quyết
của cấp ủy Đảng, công tác tư tưởng ở mỗi đơn vị cần được xây dựng thành kế
hoạch cụ thể, có những chỉ tiêu sát thực. Ở từng cấp ủy phải phân công người
12

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 279.

19


chuyên trách đảm nhiệm công tác tư tưởng, lý luận, từng đảng viên phải có trách
nhiệm đi sâu trong công tác tuyên truyền giải thích đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, tích cực giáo dục vận động quần chúng chấp hành tốt mọi đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời đập tan những luận
điệu xuyên tạc, chống phá của kẻ thù và phải gương mẫu trước quần chúng.
Thư hai, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý
luận.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, tư duy lý luận của

Đảng ta đã được đổi mới từng bước và có những tiến bộ đáng kể. Những quan
điểm cơ bản của Đảng chỉ đạo sự nghiệp đổi mới thể hiện lập trường kiên định
và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu lý luận gắn với tổng
kết thực tiễn đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc bổ sung, phát triển
đường lối chính sách của Đảng, tăng cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội góp phần vào những thành công to lớn
trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta trên mọi lĩnh vực. Nghị quyết
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý
luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc
phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận…”13
Như vậy, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận góp
phần làm sáng tỏ và vận dụng sáng tạo và bổ sung những luận điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
cung cấp nhưng luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ cho việc hoạch định
những chủ trương chính sách trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân
đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân. Nghiên cứu xây dựng và phát
triển nền công nghiệp quốc phòng với các bước đi phù hợp, vững chắc trên cơ
13

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.255, 256

20


sở khai thác mọi nguồn lực và thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Không ngừng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật quân sự và nghệ

thuật quân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới
là một yêu cầu đòi hỏi và tất yếu khách quan.
Thực tiễn công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong xã hội nói chung,
trong quân đội nói riêng rất đa dạng, phong phú sinh động. Vì thế, để nâng cao
hiệu lực công tác tư tưởng, lý luận cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn trên từng
mặt, từng nội dung, từng công đoạn trên các địa bàn, các công đoạn. Tổng kết
thực tiễn là cách tốt nhất để đánh giá thực trạng công tác tư tưởng, lý luận, rút ra
được những bài học kinh nghiệm bổ ích để khái quát, bổ sung lý luận, hoàn
thiện đường lối nhân rộng phổ biến kinh nghiệm lý luận, nhân rộng điển hình
tiên tiến. Tổng kết thực tiễn là phương pháp cơ bản trong hoạt động lý luận, là
cách thức để khắc phục chủ nghĩa giáo điều, sự yếu kém lạc hậu và xa rời thực
tiễn của lý luận. Nghiên cứu lý luận là nhằm nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng.
Do đó, công tác nghiên cứu lý luận gắn với sự hiểu biết thực tiễn Việt Nam và
những vấn đề mới của thế giới. Tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận phải
luôn luôn đi đôi với nhau và có mối quan hệ biện chứng không tách rời nhau.
Trong những năm qua có rất nhiều vấn đề liên quan đến sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, đến xây dựng quân đội về chính trị đang cần được làm phong phú, sâu
sắc hơn về mặt lý luận. Do vậy, những vấn đề tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
phát triển lý luận về công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội cần tập trung đó
là: xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong điều kiện nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng Đảng bộ quân đội,
công tác xuất bản, báo chí, về nội dung, chương trình giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, chiến sĩ, về phòng chống “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính
trị hóa quân đội” của kẻ thù, xây dựng tinh thần cảnh giác cách mạng sẵn sàng
chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao…Đây
là những vấn đề mà công tác tư tưởng, lý luận cần phải tiến hành tổng kết và
nghiên cứu.

21



Thứ ba, chăm lo xây dựng các cơ quan, lực lượng chuyên trách nòng cốt
của công tác tư tưởng, lý luận.
Tiến hành công tác tư tưởng lý luận là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta. Xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng của công tác tư tưởng, lý
luận trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng quân đội. Cho nên, nhất
thiết phải có cơ quan, lực lượng chuyên trách nòng cốt tiến hành công tác tư
tưởng của Đảng trong xã hội nói chung, trong quân đội nói riêng. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao phẩm
chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ
chủ chốt, từng bước hiện đại hóa điều kiện, phương tiện công tác tư tưởng - văn
hóa”14. Chất lượng, số lượng các cơ quan, lực lượng ảnh hưởng trực tiếp, có ý
nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. Đây
chính là lực lượng thường trực xung kích trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chỉ một
sai lầm nhỏ của lực lượng này có thể dẫn đến hậu quả lớn về mặt chính trị xã
hội, đến sự mất còn của chế độ, đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. Vì vậy,
cần phải kiện toàn hệ thống cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan chức năng
làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương cần phải nghiên cứu
đề xuất các đề án xây dựng kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận ở
phạm vi quốc gia, các ngành, các lĩnh vực tạo thành một hệ thống đồng bộ vững
chắc, hoạt động thống nhất nhịp nhàng. Cùng với kiện toàn hệ thống tổ chức,
vấn đề đặc biệt quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, những người
làm công tác lý luận, cán bộ quản lý, lãnh đạo bảo đảm có đức, có tài. Trong đó,
đáng chú ý là xây dựng bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, quan điểm tư
tưởng phải thật sự vững vàng có trình độ chuyên môn giỏi, thực sự là những
chiến sĩ trung kiên của Đảng, của quân đội trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Đồng
thời, Đảng, Nhà nước cũng cần quan tâm hơn nữa đến đảm bảo kinh phí, cơ sở
vật chất kỹ thuật, phương tiện, điều kiện làm việc của các cơ quan và lực lượng
này để luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt cần phải tăng cường
các hoạt động quản lý đối với các cơ quan và lực lượng này trong lĩnh vực tư

14

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.284

22


tưởng, lý luận (từ xuất bản phát hành báo chí, văn hóa, các hoạt động văn học
nghệ thuật, văn hóa nghệ thuật) đảm bảo sao cho đúng định hướng chính trị,
đúng đường lối quan điểm của Đảng, kiên quyết đẩy lùi các hiện tượng buông
lỏng trong quản lý hoạt động tư tưởng văn hóa. Cần chống các biểu hiện thương
mại hóa trong lĩnh vực hoạt động văn hóa tư tưởng, lý luận.
Cùng với việc chăm lo xây dựng cơ quan nghiên cứu lý luận, Đảng, Nhà
nước, quân đội cần hoàn thiện kiện toàn hệ thống cơ quan lý luận chuyên trách
làm công tác tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ
mới. Đối với đội ngũ này trong đánh giá phải toàn diện có kế hoạch sử dụng hợp
lý, để việc đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả.
Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp tiến hành công
tác tư tưởng, lý luận.
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và là
yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay. Thực tế chứng minh rằng mọi sự
vật luôn luôn vận động biến đổi, bản thân công tác tư tưởng, lý luận nếu không
được đổi mới, phát triển sẽ trở nên lạc hậu và giáo điều. Trong thời gian tới để
tăng cường công tác tư tưởng, lý luận Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng khẳng định: “…Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng
cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng,
tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ
động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo

dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính
trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải
học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị…”15.
Như vậy, mọi hình thức, biện pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận dù
có quan trọng đến đâu nhưng không được chú ý cải tiến, bổ sung hoàn thiện thì
15

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.256

23


hoạt động công tác tư tưởng lý luận sẽ đạt hiệu quả không cao. Cho nên, đổi mới
nội dung công tác tư tưởng, lý luận cần phải vừa đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản lâu
dài của cách mạng Việt Nam, vừa phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề bức xúc của công
tác tư tưởng, lý luận. Nội dung của công tác tư tưởng, lý luận phải cập nhật được
tính hiện đại, khoa học đúng định hướng chính trị phù hợp với đường lối của
Đảng và thực tiễn đặt ra.
Về hình thức, biện pháp cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền mang
tính đại chúng nhằm bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sĩ đều được tiếp xúc với
mọi phương tiện truyền thông của Đảng và Nhà nước và quân đội. Tăng cường
hình thức tuyên truyền miệng của cán bộ, đảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền
viên ở các cơ quan, đơn vị. Chú ý bảo đảm bí mật những thông tin mà không thể
công khai trên các loại hình thông tin đại chúng và bảo đảm phù hợp với từng
đối tượng, trong đó cần tập trung đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch.
Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý
luận phải thông qua các tổ chức, các lực lượng, tức là hiệu quả công tác tư

tưởng, lý luận trong quân đội phụ thuộc chủ yếu vào sự tham gia chủ động, tự
giác của cán bộ, chiến sĩ cũng như sức thuyết phục của công tác này đối với
quần chúng. Cho nên, phải nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể. Trong sinh hoạt phải đề cao đấu tranh tự phê bình và phê
bình, phát huy dân chủ trong thảo luận. Đổi mới phải phù hợp với tình hình thực
tiễn từng đơn vị, từng nhiệm vụ để lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp phù
hợp với từng loại đối tượng, đồng thời xây dựng tác phong quần chúng, xây
dựng sự kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng phát
huy mạnh mẽ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự
lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, xây dựng đạo đức công dân, phẩm
chất chính trị của “bộ đội Cụ Hồ”, lối sống văn hóa của con người Việt Nam,

24


xây dựng lòng nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng, tình đồng chí và đồng đội, tinh
thần ham học hỏi cầu tiến bộ. Chống quan liêu, sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, uốn nắn, khắc phục những nhận thức sai lầm, lệch lạc, chống các quan điểm
sai trái, cơ hội xét lại, phản động, xa rời giá trị truyền thống dân tộc, giảm sút ý
chí, thiếu trách nhiệm đối với công việc, kiên quyết chống chia rẽ bè phái, cục
bộ, mất đoàn kết, lười học tập, rèn luyện, tư tưởng trung bình chủ nghĩa hoặc
chung chung, trừu tượng, hời hợt trong tiến hành công tác tư tưởng lý luận.
Đổi mới nội dung công tác giáo dục lý luận chính trị theo hướng gắn với
thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng và từng đơn vị, đạt hiệu quả thiết thực,
phải đáp ứng được những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, nhằm làm cho mọi cán bộ,
chiến sĩ được học tập, quán triệt một cách đầy đủ để có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, với chế độ xã
hội chủ nghĩa. Chuẩn bị tốt về tâm lý, tư tưởng cho bộ đội để sẵn sàng nhận và
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Năm là, tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong mỗi đơn vị vững

mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là pháo đài vững chắc về tư
tưởng, lý luận; đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành lực lượng kiên trung về bản
lĩnh, lập trường và là lực lượng chủ công trong cuộc đấu tranh trên mặt trận
này.
Để làm tốt điều đó, các cấp cần hết sức coi trọng đẩy mạnh công tác giáo
dục chính trị-tư tưởng trong tổ chức đảng cũng như toàn đơn vị; tăng cường
công tác quản lý cán bộ, đảng viên; thực hiện tốt công tác cán bộ và công tác
bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, làm nòng
cốt để xây dựng các tổ chức khác trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh
toàn diện; tạo ra môi trường đủ sức "miễn dịch" đối với những luận điệu tuyên
truyền, chống phá của các thế lực thù địch. Cùng với công tác giáo dục, tuyên
truyền, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp
cần đề cao trách nhiệm, động viên cán bộ, chiến sĩ, trước hết là đội ngũ sĩ quan,
đảng viên có thái độ phê phán, đấu tranh kiên quyết, thẳng thắn với những nhận

25


×