Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

xây dựng và củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh thanh hóa giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.04 KB, 120 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cơng
cuộc đổi mới cũng như tồn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung,
phát triển năm 2011 khẳng định:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh [20, tr.73].
Cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hạn chế,
khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế cùng phát
triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng; kinh tế ngoài nhà nước có vai trị
quan trọng, là bộ phận quan trọng hợp thành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là
một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội [20, tr.204-205]


2


Thanh Hóa là tỉnh đất rộng, người đơng, số lượng doanh nghiệp ngoài
nhà nước lớn. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp
và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tốc độ phát triển của các doanh nghiệp
ngoài nhà nước tăng nhanh. Các đảng bộ, chi bộ trong từng loại hình doanh
nghiệp tuy mức độ hoạt động khác nhau, nhưng nhìn chung đã thực hiện khá
tốt các quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng trong các loại hình doanh nghiệp; từng bước đã thể hiện được vai trị hạt
nhân chính trị, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, người lao động thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức cơ
sở đảng về cơ bản đều thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự
phê bình và phê bình. Quan tâm tới cơng tác quản lý đảng viên, bồi dưỡng
phát triển đảng viên mới, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng, phát triển các tổ chức
đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng bộc lộ những hạn chế, yếu
kém: Tốc độ phát triển sản xuất - kinh doanh, lợi nhuận của các doanh nghiệp
tuy có tăng nhưng chưa ổn định, một số đơn vị không đạt các chỉ tiêu kinh tế
đề ra hàng năm; chất lượng một số sản phẩm chưa cao, chưa tạo được nguồn
thu lớn cho ngân sách; chưa xây dựng được thương hiệu doanh nghiệp và sản
phẩm uy tín trên thị trường; chưa chủ động khai thác và phát huy hết tiềm
năng thế mạnh du lịch - dịch vụ, xuất khẩu hàng hóa. Chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị - tư tưởng ở một số cơ sở đảng cịn hạn chế, tham mưu về
cơng tác cán bộ chậm, quy hoạch cán bộ chưa chủ động, thiếu cán bộ có năng
lực khi cần bố trí. Một số đảng bộ, nội dung phương thức hoạt động ngheò
nàn, lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo; vai trị, vị trí của các tổ chức cơ sở
đảng trong các doanh nghiệp giảm sút, thậm chí hồn tồn lệ thuộc vào chủ
doanh nghiệp.
Mặt khác, cơ chế thị trường đã tạo ra mối quan hệ lao động trong doanh
nghiệp với nhiều phức tạp, nhất là giữa chủ doanh nghiệp - người sử dụng lao



3
động với người lao động. Nhiều nơi, mối quan hệ này khơng được giải quyết
hài hịa, tạo ra mâu thuẫn nội bộ làm phát sinh tranh chấp lao động và có nơi
đã dẫn đến đình cơng tập thể. Sự phát triển của doanh nghiệp ngồi nhà nước
trong tỉnh vẫn cịn bộc lộ nhiều yếu kém, năng lực sản xuất thấp, phát sinh
nhiều tiêu cực như trốn thuế, lậu thuế, vi phạm hợp đồng. Nhiều chủ doanh
nghiệp, nhất là chủ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, chưa hiểu hoặc
hiểu chưa đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng trong doanh
nghiệp nên còn né tránh việc tiếp xúc với cấp ủy, không tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức đảng hoạt động. Một số đảng viên đang làm việc trong các
doanh nghiệp, do chưa nhận thức đầy đủ vai trị, trách nhiệm nên khơng muốn
cơng khai mình là đảng viên, không chuyển sinh hoạt đảng về doanh nghiệp
vì ngại chủ doanh nghiệp phân biệt đối xử, mất việc làm.
Thực tế cho thấy, ở những doanh nghiệp có tổ chức đảng đã xác định
được vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, từng bước đi vào hoạt động thì vai
trị của tổ chức đảng được phát huy, góp phần vào việc ổn định và phát triển
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; quyền và vai trò của người lao động
được phát huy tốt hơn; nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa người sử
dụng lao động với người lao động được giải quyết tốt, tránh được những xung
đột khơng đáng có. Những doanh nghiệp tổ chức cơ sở đảng mạnh thì doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả rõ rệt.
Tuy nhiên, đến nay số lượng tổ chức đảng được thành lập ở các doanh
nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa cịn rất thấp. Một số tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp này hoạt động giảm sút, vị trí, vai trị của
tổ chức đảng khơng được khẳng định và phát huy. Phương thức hoạt động, nề
nếp sinh hoạt, tính chiến đấu, vai trị lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, các
đồn thể cịn nhiều hạn chế, lúng túng.
Việc nghiên cứu thực tiễn và xác định rõ nguyên nhân, giải pháp để xây
dựng và phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở



4
Thanh Hoá đã được một số ban, ngành trong tỉnh nghiên cứu, đánh giá, song
vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, lúng túng. Bởi vậy, việc xây dựng và củng cố tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh là cần
thiết và cấp bách hiện nay.
Qua nghiên cứu nội dung một số nghị quyết của Trung ương, của tỉnh,
đặc biệt là Chỉ thị số 07 ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (Khố VIII) và Chỉ
thị số 13 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh Hoá “Về tăng cường cơng tác
xây dựng đảng và các đồn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp
tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi”, tơi chọn đề tài nghiên
cứu “Xây dựng và củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà
nước ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay” để góp phần giải quyết những
vấn đề lý luận và thực tiễn đang đòi hỏi là rất cấp thiết, với hy vọng đóng góp
được những giải pháp thiết thực để phát triển nhanh và bền vững tổ chức đảng
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước là một thực tiễn mới mẻ, đặt ra nhiều vấn đề phải được làm rõ về nhận
thức, quan điểm, giải pháp. Bởi vậy, trong những năm gần đây đã có một số
cấp uỷ, cơ quan, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về vấn đề này và đã có
một số cơng trình, bài viết có liên quan đã được công bố như:
- Đặng Thuỳ Dương (2005), “Nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hố tại thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Thu Hiền (2005), “Xây dựng và nâng cao chất lượng tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở thành phố Hồ
Chí Minh” luận văn Thạc sĩ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.



5
- Mai Văn Ninh ( 2006) “Tỉnh uỷ Thanh Hoá lãnh đạo kinh tế trong
giai đoạn hiện nay”, luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, đã bảo vệ tại Học
viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Hưng (2006) “Tỉnh uỷ Thanh Hoá lãnh đạo đổi mới các
doanh nghiệp Nhà nước”, luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị của đã bảo vệ
tại Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phùng Anh Tuấn (2007), “Xây dựng tổ chức đảng trong các cơng ty
cổ phần có vốn Nhà nước ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay”. Luận văn
Thạc sĩ khoa học chính trị đã bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Võ Duy Sang (2007), “Chất lượng Tổ chức cơ sở đảng đã cổ phần
hoá ở tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay”, luận văn Thạc sĩ khoa học chính
trị đã bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Kinh nghiệm phát triển đảng viên từ 10 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh” của tác giả Trần Thu Thuỷ đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng 6/2003;
- “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân”
của tác giả Nguyễn Công Huyên đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng 9/2004;
- Đề tài “Những căn cứ lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong cơng ty cổ phần hố có
vốn của Nhà nước” của Ban Tổ chức Trung ương, Năm 2004
- Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Báo cáo sơ kết việc thực hiện Chỉ
thị số 13-CT/TU ngày 08/11/2004 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về "Xây dựng
và phát triển tổ chức đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp
tư nhân" , tháng 5/2006.
- Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Báo cáo đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 03NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh Hoá (Khoá XV) về “Phát triển
ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp và định hướng phát triển trong thời gian
tới”, tháng 4/2006.



6
- “Tiếp tục xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh” của tác giả Võ Châu Thảo đăng trên tạp chí Xây
dựng Đảng 7/2006;
- “Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân từ kinh nghiệm
ở Đồng Nai” của tác giả Phúc Sơn đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng 6/2007;
- “Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp Nhà
nước” của tác giả Đỗ Tuấn Nghĩa đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng 1/2008;
- “Phát huy vai trị của tổ chức đảng trong các tổng cơng ty tập đồn
kinh tế có vốn Nhà nước” của tác giả Võ Đức Huy đăng trên tạp chí Xây dựng
Đảng T2+3/2008;
- Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị 07 của Bộ
Chính trị (Khóa VIII) “Về tăng cường cơng tác xây dựng đảng và các đồn
thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi” của Bộ Chính trị (Khóa VIII). tháng 7/2009
- “Kinh nghiệm xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở miền trung và Tây Nguyên” của tác giả Phạm
Quang Vịnh đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng 10/2009;
- “Tăng cường cơng tác Xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong
các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi” Tác giả
Hồ Đức Việt đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng T2+3/2010.
Những cơng trình nghiên cứu nêu trên trên đã phân tích khá rõ nét
về thực trạng, vai trị lãnh đạo của tổ chức đảng trong một số loại hình
doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hoá, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; đồng
thời cũng đề ra các giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ
đảng, công tác xây dựng Đảng ở các loại hình doanh nghiệp đó trong thời

gian tới.


7
Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu vẫn chỉ là bước đầu và chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về tổ chức
đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Thanh Hố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về xây dựng,
củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước ở tỉnh Thanh
Hố, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường việc xây
dựng và củng cố các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước ở
tỉnh Thanh Hố trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò, đặc điểm của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài nhà nước ở Thanh Hoá hiện nay.
- Làm rõ quan niệm về xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong các doanh
nghiệp ngồi nhà nước ở Thanh Hố.
- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức đảng và công tác xây dựng, củng cố
tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hoá, rút ra
nguyên nhân và kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường xây dựng và củng
cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước ở Thanh Hố trong
những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác xây dựng, củng cố tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hoá.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác xây dựng và củng
cố tổ chức đảng (bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng

ủy cơ sở) trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa từ năm
2000 (Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV) đến nay và đề ra mục tiêu, phương
hướng, giải pháp đến năm 2020.


8
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về Đảng và xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là quan điểm của Đảng trong Nghị
quyết Trung ương 3 khoá IX “Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu
của các cơng trình khoa học đã cơng bố.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là hoạt động của tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp ngoài Nhà nước ở Thanh Hố và cơng tác xây dựng và củng cố
tổ chức đảng này của các cấp uỷ đảng ở Thanh Hoá.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng kết
hợp các phương pháp tổng kết thực tiễn, phân tích- tổng hợp, lịch sử - lơgíc,
nghiên cứu tài liệu, điều tra, khảo sát, chuyên gia.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò của tổ chức đảng trong các doanh
nghiệp ngồi nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa và quan niệm về xây dựng và củng
cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hoá.
- Đánh giá đúng thực trạng việc xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hố.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường xây dựng và
củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hố.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc kiện toàn, đổi mới

hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hoá
và làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập mơn Xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NGỒI NHÀ NƯỚC Ở TỈNH THANH HỐ HIỆN NAY NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC VÀ TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG
DOANH NGHIỆP NGỒI NHÀ NƯỚC Ở TỈNH THANH HỐ HIỆN NAY

1.1.1. Khái qt tình hình kinh tế, văn hố xã hội tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hố là tỉnh cực Bắc Trung Bộ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; nằm ở vĩ tuyến 19018'B - 20040'B, kinh tuyến 104022'Ð 106005'Ð. Phía Bắc giáp 3 tỉnh: Sơn La, Hồ Bình và Ninh Bình; phía Nam và
Tây Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hồ Dân
chủ nhân dân Lào, với đường biên giới 192 km; Phía đơng Thanh Hố mở ra
phần giữa của vịnh Bắc bộ thuộc Biển Ðông với bờ biển dài hơn 102 km.
Tổng diện tích tự nhiên 11.106 km2, chia làm 3 vùng: đồng bằng; ven
biển; trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km 2; dân số:
3,4 triệu người. Mật độ dân số vào loại trung bình: 317 người/km 2; có 7 dân
tộc: Kinh (chiếm 83,6%), Mường (chiếm 9,48%), Thái (chiếm 6,08%), Mông
(chiếm 0,38%), Thổ, Dao, Khơ Mú. Các đơn vị hành chính trực thuộc: gồm
24 huyện, 1 thành phố, 2 thị xã ; với 637 xã, phường, thị trấn (30 thị trấn, 18
phường), trong đó có 225 xã miền núi (105 xã vùng cao)
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế
- xã hội tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng: kinh tế tăng
trưởng với tốc độ khá cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ

trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; kết cấu hạ tầng được
quan tâm đầu tư, nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây dựng. Lĩnh vực
văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện và nâng cao; tiềm lực quốc phòng an ninh được củng


10
cố, trật tự an tồn xã hội có chuyển biến tích cực. Nền kinh tế duy trì được tốc
độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp
tục có những tiến bộ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm thời kỳ 2006 - 2010 đạt
11,3%, thấp hơn mục tiêu kế hoạch (kế hoạch từ 12 - 13%) nhưng cao hơn so
với thời kỳ 2001 - 2005 (9,1%). Tổng GDP theo giá so sánh năm 2010 gấp 1,7
lần năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 810 USD vượt
mục tiêu kế hoạch.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng các ngành
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Tỷ trọng ngành
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP đã giảm từ 32,3% năm 2005 xuống
cịn 24,2% năm 2010; tỷ trọng ngành cơng nghiệp- xây dựng tăng từ 34,6%
lên 41,4% tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng từ 33,1% lên 34,4%. Chuyển dịch
cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế có tiến bộ.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng
động lực tăng trưởng, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các vùng chuyên canh
sản xuất hàng hoá trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng.
Cơ cấu vùng đang từng bước được hình thành trên cơ sở phát huy lợi thế
so sánh của từng vùng và theo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương, quy hoạch phát triển các đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế.
Các thành phần kinh tế đều có chuyển biến tích cực. Khu vực kinh tế
nhà nước tiếp tục được đổi mới và sắp xếp lại, doanh nghiệp nhà nước giảm
về số lượng nhưng hoạt động hiệu quả hơn. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh

trên nhiều lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Các hợp tác xã kiểu cũ đã được tổ chức lại và chuyển sang hoạt động theo
Luật Hợp tác xã. Kinh tế trang trại phát triển nhanh và đa dạng. Đến nay, tồn
tỉnh đã có 3.687 trang trại, tăng 328 trang trại so với năm 2005. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi có bước phát triển đột phá. Nhiều hiệp hội doanh


11
nghiệp, hiệp hội ngành hàng đã được thành lập; một số hiệp hội bước đầu
hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác, liên kết,
nâng cao khả năng cạnh tranh cho các đơn vị thành viên.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm từ 77,2% năm
2005 xuống còn 55% năm 2010. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ
27% năm 2005 lên 38,5% năm 2010.
Lĩnh vực khoa học- cơng nghệ, văn hố xã hội có chuyển biến tích cực;
an sinh xã hội được chăm lo; đời sống của nhân dân không ngừng được cải
thiện. Quốc phòng an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an tồn
xã hội được đảm bảo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. các chương trình
trọng tâm được triển khai thực hiện có kết quả, góp phần tích cực vào nhiệm
vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Mục tiêu phát triển triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, đó là:
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tạo chuyển biến căn bản về chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng Thanh Hóa trở
thành tỉnh có trình độ phát triển trung bình của cả nước vào năm 2015; đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục - đào
tạo, phát triển y tế, văn hoá và thể dục thể thao; cải thiện đời sống nhân dân đi
đôi với xố đói giảm nghèo, tạo việc làm, đảm bảo an sinh xã hội. Đảm bảo
quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an tồn xã hội.
1.1.2. Các doanh nghiệp và tổ chức đảng trong các doanh nghiệp

ngồi nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa - quan niệm, vai trò, đặc điểm
1.1.2.1. Quan niệm, đặc điểm, vai trị của các doanh nghiệp ngồi
nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của Pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh


12
doanh; bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu
trên 50% vốn Điều lệ. Các doanh nghiệp còn lại nêu trên trong phạm vị luận
văn này là các công ty cổ phần nhà nước có dưới 50% vốn Điều lệ, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, 100% vốn đầu tư nước ngồi, cơng ty
trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần tư nhân, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp thành lập theo
luật hợp tác xã gọi chung là doanh nghiệp ngồi nhà nước.
Tính đến 31/12/2010 trên địa bàn tỉnh Thanh Hố có 7.732 doanh nghiệp,
trong đó: Doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghịêp 6.746 doanh nghiệp ,
(số doanh nghiệp đi vào hoạt động là 5.940 doanh nghiệp , chiếm 88 % số doanh
nghiệp đăng ký vốn kinh doanh;) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi: 41;
doanh nghiệp hoạt động theo Luật hợp tác xã: 945; Doanh nghiệp Nhà nước:
145. Bình quân 500 người dân trên 1 doanh nghiệp, mỗi năm cả tỉnh thành lập
mới khoảng trên 1000 doanh nghiệp.
Cơ cấu doanh nghiệp theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm cải tiến
thiết bị, đầu tư công nghệ mới, tăng năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh được nâng lên. Doanh
nghiệp nhà nước được sắp xếp, cổ phần hố, nâng cao vai trị tự chủ, tự chịu

trách nhiệm, mở rộng sản xuất, kinh doanh có lãi. Doanh nghiệp dân doanh
phát triển ngày càng nhiều, góp phần tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao thu
nhập cho người lao động, tăng thu ngân sách, đóng góp thiết thực vào thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, so với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, phát triển doanh nghiệp
trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, yếu kém: Số lượng doanh nghiệp tuy
có tăng nhưng tỉ lệ doanh nghiệp trên dân số còn thấp xa so với bình quân


13
chung cả nước. Đa số doanh nghiệp có qui mơ nhỏ, cơ cấu chưa hợp lý, doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, hải sản chưa nhiều. Doanh
nghiệp ở nơng thơn, miền núi q ít, có huyện chưa có doanh nghiệp. Số
lượng doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở thành phố Thanh Hoá, khu Kinh tế
Nghi Sơn, thị xã Bỉm Sơn và thị xã Sầm Sơn.
- Về lao động: có 211.617 lao động, trong đó số lao động được ký hợp
đồng lao động là 130.356 lao động. Các doanh nghiệp nhà nước có 4.500 lao
động; doanh nghiệp ngồi nhà nước 125.856 lao động (có vốn đầu tư nước
ngồi 15.000 lao động). Về nộp ngân sách cho Nhà nước: Năm 2005, tổng thu
ngân sách trên địa bàn đạt 1.328 tỷ đồng, tổng thu cân đối ngân sách năm
2010 ước đạt 4.528 tỷ đồng
- Số lượng doanh nghiệp tuy phát triển khá nhanh nhưng cơ bản vẫn là
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có dưới 50 lao động chiếm 86,8%; doanh
nghiệp có từ 50 đến 200 lao động chiếm 9,8%; doanh nghiệp có từ 200 đến 500
lao động chiếm 2,5 %; doanh nghiệp có trên 500 lao động là 32 doanh nghiệp
chiếm 0,9%. Các doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 20 tỷ đồng chiếm tỷ lệ rất
cao 98,6% (trong đó DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng chiếm 90,9%; DN có vốn
điều lệ từ 5 đến 10 tỷ đồng, chiếm 6,6%; doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 đến
20 tỷ đồng chiếm 1,1%; doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 50 đến 100 tỷ đồng,
chiếm 0,8%; doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng chiếm 0,4% ).

Về lĩnh vực đầu tư sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đa ngành
nghề, đa lĩnh vực: có 594 doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trên lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo; 402 doanh nghiệp kinh doanh về nông nghiệp và
nuôi trồng thủy sản; 128 doanh nghiệp khai khoáng, 964 doanh nghiệp đầu tư
xây dựng; 1412 doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy; còn lại
là các doanh nghiệp nhỏ, lẻ.
Bên cạnh các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, chấp hành tốt các
chính sách, pháp luật, vẫn cịn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện tốt các


14
nghĩa vụ đối với Nhà nước và người lao động, vi phạm về môi trường và gian
lận thương mại. Mặc dù được tỉnh và các huyện, thị, thành phố có cơ chế ưu
đãi, hỗ trợ, tạo điều kiện về mặt bằng nhưng nhiều doanh nghiệp hiệu quả sản
xuất kinh doanh cịn thấp, đầu tư cơng nghệ, ứng dụng kỹ thuật chưa nhiều,
thu hút lao động chưa cao, chưa chú ý bảo vệ tài ngun mơi trường, để lãng
phí, vi phạm Luật đất đai. Các doanh nghiệp thường đăng ký đa ngành nghề
kinh doanh nhưng chưa chú ý đến đào tạo nghề nên chất lượng nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Thu nhập, điều kiện, môi trường làm việc,
bảo hộ lao động và các chế độ đãi ngộ chưa được quan tâm nên tuyển chọn
lao động gặp khó khăn, nhất là lao động có chun mơn và tay nghề cao.
Trên 60% doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp là những
doanh nghiệp mà các thành viên góp vốn đều có quan hệ huyết thống (anh em
ruột hoặc cùng dịng họ), vì vậy việc tổ chức quản lý doanh nghiệp còn đơn
giản, đa số các thành viên trong doanh nghiệp chưa thực hiện việc góp vốn
theo quy định của Luật doanh nghiệp. Việc điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh theo kiểu gia đình, chưa hồn thiện, chưa có các bộ phận giúp việc cần
thiết như: phòng kinh doanh, tổ chức, kế tốn, nghiệp vụ khác v v.. Vì vậy,
nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được kế hoạch sản xuất lâu dài, ảnh
hưởng đến tính ổn định phát triển của chính doanh nghiệp. Có một tỷ lệ nhỏ

(6% doanh nghiệp) doanh nghiệp thành lập mang tính tự phát hoặc thành lập
chỉ để ký một hợp đồng kinh tế rồi giải thể, thậm chí có doanh nghiệp khơng
ký được hợp đồng cũng tự giải thể (tập trung ở các doanh nghiệp kinh doanh
những ngành nghề nhạy cảm như: Tư vấn giới thiệu việc làm, dạy nghề...).
Tuy nhiên, có nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất công
nghiệp, xây dựng, kinh doanh có quy mơ lớn đã có các bộ phận như phịng kế
hoạch, thị trường, kế tốn để giúp giám đốc điều hành sản xuất. Nhiều doanh
nghiệp đã xây dựng được kế hoạch kinh doanh lâu dài, cũng như ký được các
hợp đồng kinh tế với các tổ chức kinh tế trong và ngồi nước có giá trị lớn.


15
Đối với các doanh nghiệp được cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà
nước, việc tổ chức, quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa từ doanh nghiệp nhà nước đã đi vào ổn định.
Doanh nghiệp thực hiện ngay việc xắp xếp, ổn định bộ máy, xây dựng kế
hoạch kinh doanh lâu dài, xác định quyền làm chủ của người lao động và các
cổ đông nên hiệu quả trong sản xuất kinh doanh được phát huy rõ rệt. Nhiều
doanh nghiệp đã mạnh dạn thay đổi bộ máy lãnh đạo, đưa cán bộ trẻ có đủ
năng lực vào Hội đồng quản trị như: Cơng ty cổ phần vận tải ơ tơ Thanh Hóa,
Cơng ty cổ phần giấy Mục Sơn, Công ty cổ phần du lịch 25A, Công ty cổ
phần Hàm Rồng v v…Đồng thời với việc thay đổi bộ máy là tinh giảm tối đa
bộ máy hành chính để tăng cường cho các bộ phận sản xuất trực tiếp.
Các doanh nghiệp ngoài nhà nước có vai trị quan trọng trong nền kinh
tế, là bộ phận quan trọng gia tăng tổng sản phẩm trong tỉnh. Những năm gần
đây, hoạt động của doanh nghiệp ngoài nhà nước đã có bước phát triển đột
biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy
nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và
tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia
giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xố đói, giảm

nghèo...Hằng năm đóng góp 25% tổng thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn
tỉnh, thu hút khoảng 38.813 lao động.
1.1.2.2. Tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay - quan niệm, đặc điểm, vai trị, chức năng, nhiệm vụ
- Quan niệm về tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước:
Tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước hiện nay ở Thanh
Hố bao gồm các chi bộ, đảng bộ trong các công ty cổ phần nhà nước có dưới
50% vốn Điều lệ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, 100% vốn đầu tư
nước ngồi, cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần tư nhân, công ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.


16
Tinh đến 30/6/2011 đã có 135 doanh nghiệp ngồi khu vực nhà nước có
tổ chức cơ sở đảng trong đó có 37 đảng bộ và 98 chi bộ cơ sở, được phân định
như sau: 24 đảng bộ và 44 chi bộ cơ sở trong các công ty cổ phần nhà nước có
dưới 50% vốn Điều lệ; 7 đảng bộ và 22 chi bộ cơ sở trong các công ty cổ
phần tư nhân; 3 đảng bộ và 10 chi bộ cơ sở trong các công ty trách nhiệm hữu
hạn tư nhân; 2 đảng bộ và 16 chi bộ cơ sở trong các công ty tư nhân; 01 đảng
bộ và 01 chi bộ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; 5 chi bộ cơ sở thuộc
các doanh nghiệp thành lập theo luật hợp tác xã. Có 243 chi bộ trực thuộc
đảng bộ cơ sở với 3.721 đảng viên. Có 43 chi bộ trực thuộc đảng uỷ xã,
phường với 447 đảng viên. Tồn tỉnh hiện nay có 178 doanh nghiệp ngồi khu
vực nhà nước có tổ chức đảng với 4.168 đảng viên.
Như vậy, tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước chính là chi
bộ hoặc đảng bộ trong từng doanh nghiệp. Căn cứ quy mô của từng doanh
nghiệp mà cấp uỷ cấp trên quyết định là chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở hay
tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở). Các tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp ngồi nhà nước ở Thanh Hố là một loại hình trong hệ thống tổ
chức đảng. Cùng với các loại hình khác, các tổ chức đảng ở đây tạo nên sức

mạnh cho Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong các loại hình kinh tế,
xây dựng và phát triển các doanh nghiệp. Tổ chức đảng chính là nơi tập hợp
đảng viên cùng phấn đấu hành động vì mục tiêu lý tưởng của Đảng.
- Đặc điểm của các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước:
Các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở tỉnh Thanh Hố
có những đặc chủ yếu sau đây, chi phối tới việc xây dựng và củng cố các tổ
chức đảng trong doanh nghiệp:
Một là, các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước ở
Thanh Hố, trước đây phần lớn là tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà
nước, sau một thời gian cổ phần hoá khơng cịn là doanh nghiệp nhà nước
chuyển đổi thành cơng ty cổ phần, Nhà nước tham gia vốn Điều lệ dưới 50%;


17
tổ chức đảng trước đây lãnh đạo toàn diện, nay chuyển sang doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, có các cơ quan lãnh đạo khác nhau quản lý, tổ chức đảng
hoạt động theo các Quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về chức năng,
nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng trong các cơng ty cổ phần,
Nhà nước chiếm giữ dưới 50% vốn Điều lệ của doanh nghiệp, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài .
Như vậy, ở đây đã diễn ra sự thay đổi trong quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất. Trong những mối quan hệ cơ bản của bản thân quan hệ sản xuất, thì
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định mục đích sản xuất, hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý, phương thức phân phối sản
phẩm. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trở thành quan hệ bản chất của quan
hệ sản xuất, luôn chi phối và thống nhất với cơ chế quản lý và quan hệ phân
phối kết quả sản xuất. Đồng thời cơ chế quản lý và phân phối sản phẩm là
biểu hiện trực tiếp, cụ thể của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Ba mặt của
quan hệ sản xuất tạo thành một hệ thống cấu trúc đồng bộ tương hợp. Bởi vậy
sau khi cổ phần hố các doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức và nội dung sở

hữu về tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp, phải có sự lãnh đạo để gắn kết
chặt chẽ ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất mới tạo ra được động lực mạnh
mẽ để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Đây chính là đặc điểm lớn
nhất liên quan trực tiếp và chi phối mạnh mẽ đến việc xây dựng và củng cố tổ
chức đảng.
Hai là, các tổ chức đảng ở trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước rất
đa dạng về mơ hình hoạt động: Bao gồm các loại hình tổ chức cơ sở đảng trực
thuộc Tỉnh uỷ; trực thuộc huyện, thi, thành uỷ; trực thuộc xã, phường, thị trấn.
Các tổ chức đảng này trong các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng về tổ chức
hoạt động: Cơng ty cổ phần có vốn nhà nước, cơng ty cổ phần khơng có vốn
nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn dưới 50% vốn Nhà nước, công ty
trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty hợp danh và các loại doanh nghiệp tư


18
nhân khác. Các doanh nghiệp thường đăng ký đa lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh để tăng cơ hội tìm kiếm việc làm hoặc để chủ động trong các khâu sản
xuất kinh doanh của công ty mẹ. Các công ty cổ phần chủ yếu được chuyển
đổi từ doanh nghiệp nhà nước trước đây nên đều có tổ chức đảng, các đồn
thể; phần lớn các doanh nghiệp này đều giữ vững và phát huy được uy tín,
thương hiệu; nhiều doanh nghiệp đã đổi mới, thoát ly cách tổ chức, quản lý,
điều hành của doanh nghiệp nhà nước trước đó để sản xuất kinh doanh có
hiệu quả cao hơn. Một số doanh nghiệp ngồi nhà nước mới thành lập, đã có
mạnh dạn đầu tư, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học, công nghệ sản
xuất và quản lý, thu hút được nhiều lao động; tích cực trong hoạt động xã hội,
nhân đạo từ thiện. Chính từ sự đa dạng đa mơ hình nêu trên cũng chi phối
việc lãnh đạo của các tổ chức đảng cấp trên.
Ba là, đội ngũ đảng viên trong các tổ chức đảng phân bố rất đa dạng,
trên nhiều lĩnh vực có tính đặc thù trong từng loại hình doanh nghiệp; trình độ
học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cũng rất chênh lệch.

Đối với các doanh nghiệp thuộc các công ty cổ phần từ doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hoá, phần lớn đảng viên hoạt động ở văn phòng, các bộ
phận chức năng của doanh nghiệp và trong hội đồng quản trị, ban giám đốc
doanh nghiệp. Đảng viên ở bộ phận này đa số có trình độ chun mơn cao,
chủ yếu là trình độ đại học và trên đại học. Đảng viên ở các bộ phận sản xuất
chiếm tỷ lệ rất thấp. Trình độ chuyên mơn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính
trị, văn hố nhìn chung cịn thấp chủ yếu là lực lượng lao động đơn thuần, rất
ít đảng viên trực tiếp sản xuất có trình độ đại học.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, đảng
viên chủ yếu ở khu vực sản xuất. Trình độ học vấn cũng như chuyên môn,
nghiệp vụ rất hạn chế.
Bốn là, đại đa số đội ngũ cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp có tổ
chức đảng đều có trình độ chun mơn nghiệp vụ vững vàng, năng động, sáng


19
tạo có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, từng trải trên thương trường; có nhận
thức cao, có thái độ và trách nhiệm với tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh
nghiệp, tôn trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức chính trị,
chính trị xã hội hoạt động.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, phần lớn đội ngũ
cán bộ đã được sàng lọc, được kiểm nghiệm trong thực tế nên chất lượng đã
được nâng lên rõ rệt. Phần đông cán bộ này đều là những đảng viên giữ vai
trò chủ chốt trong doanh nghiệp, chủ tịch Hội đồng quản trị, giám đốc hoặc
phó giám đốc; đồng thời cũng giữ vai trò là lãnh đạo trong các tổ chức đảng,
bí thư hoặc phó bí thư, cấp uỷ viên chi bộ hoặc đảng bộ cơ sở.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đã có tổ
chức đảng, phần lớn đây là những doanh nghiệp phát đạt, sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, qua thực tiễn các chủ doanh nghiệp nhận thức được vai trị của tổ
chức đảng, đồn thể nên ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này

hoạt động. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ làm cơng Đảng chủ yếu là kiêm nhiệm
nên trình độ, nghiệp vụ về cơng tác xây dựng đảng cịn rất hạn chế.
Năm là, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh
Hố hoạt động trong điều kiện cịn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh
doanh cạnh tranh trên thị trường.
Thanh Hố là tỉnh cịn gặp nhiều khó khăn, công nghiệp chủ yếu là sản
xuất hàng tiêu dùng, lại xa các trọng điểm kinh tế lớn của đất nước, việc khai
thác huy động vốn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện
nay lãi suất ngân hàng quá cao, gía cả nguyên vật liệu tăng; việc đầu tư vào
sản xuất cầm chừng. Nhiều doanh nghiệp việc làm không ổn định, thu nhập
của người lao động thấp, thậm chí cịn thất nghiệp. Việc giải quyết số lao
động dơi dư cịn nhiều bất cập, từ đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động
của doanh nghiệp. Chính vì vậy hoạt động của tổ chức đảng trong các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.


20
Sáu là, các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước chưa
rõ mơ hình tổ chức.
Việc xác định tổ chức đảng trực thuộc cấp uỷ huyện, thị xã, thành phố
cịn chưa đồng bộ, thiếu tính thống nhất. Ở tỉnh chưa thành lập đảng uỷ khối
doanh nghiệp, cấp huyện, thị thành phố chưa thành lập tổ chức cơ sở đảng
khối doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp trực thuộc chủ yếu sinh hoạt
chung với đảng uỷ xã, phường, thị trấn. Các chi bộ trực thuộc sinh hoạt cùng
chi bộ khối phố, thơn. Chính từ đặc điểm này cũng chi phối tói hoạt động của
đảng uỷ, chi uỷ chi bộ các doanh nghiệp.
- Vai trò của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngồi nhà nước:
Là một loại hình tổ chức đảng ở cơ sở trong hệ thống tổ chức của Đảng,
các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hóa có vị
trí, vai trị rất quan trọng theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
C.Mác. Ph.Ănghen là những người đầu tiên đưa ra tư tưởng, quan điểm
về vị trí, vai trị của tổ chức đảng. Tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận cấu thành
nên Đảng, khơng có tổ chức cơ sở đảng thì khơng có Đảng, sự vững chắc từ nền
tảng của Đảng là đảm bảo cho sự vững chắc của toàn Đảng.
Trong điều kiện “Liên đoàn những người cộng sản” chuyển từ hoạt động
bí mật sang hoạt động cơng khai, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển tư
tưởng của mình về vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở, chỉ rõ sự mơ hồ của phần
lớn đảng viên trong bước chuyển đổi ấy. Nhiệm vụ mà hai ông đề ra lúc này
là phải tổ chức lại “Liên đoàn” làm cho Đảng cơng nhân phải hành động sao
cho có tổ chức nhất, thống nhất và độc lập nhất. Đặc biệt quan trọng là củng
cố các chi bộ của “Liên đoàn”, biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân
của các hiệp hội cơng nhân, trong đó lập trường và lợi ích của giai cấp vô sản
được đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh hưởng của giai cấp tư sản. Hai
ông nêu rõ:


21
Để khỏi một lần nữa bị tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay hoan
nghênh bọn dân chủ tư sản, cơng nhân và trước hết là Liên đồn phải
cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức
đảng riêng biệt, bí mật và cơng khai của công nhân và biến mỗi chi bộ
thành trung tâm và hạt nhân của các Liên hiệp công nhân [31, tr.348].
Phát triển tư tưởng đó trong q trình đấu tranh để xây dựng một Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, V.I Lênin đã trung thành và kế thừa những
tư tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen. V.I Lênin đã chỉ đạo xác lập các chi
bộ cơ sở trong các đơn vị thay cho các tiểu tổ dân chủ, xã hội của thời kỳ
trước Cách mạng tháng Mười, và để đảm bảo vai trị lãnh tụ chính trị tồn xã
hội của Đảng Bơn-sê-vích Nga, thì:
Những chi bộ ấy phải liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương

Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ
động, tun truyền, cơng tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần
chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình
mn vẻ mà rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng
đó một cách có hệ thống [29, tr.232- 233].
Chính từ cách đặt vấn đề như trên đã chỉ rõ vị trí vơ cùng quan trọng của
các chi bộ cơ sở đối với bước chuyển biến chiến lược trong sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Nga. Và thuật ngữ tổ chức cơ sở đảng được V.I Lênin chính
thức dùng trong bài báo viết về “Cải tổ Đảng”. Người chỉ rõ các chi bộ lúc ấy
là tổ chức cơ sở đảng. V.I Lênin coi các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của
Đảng, mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng lao động, là một nhân tố chính trị
của tập thể lao động, giáo dục và dẫn dắt quần chúng thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng.
Những tư tưởng, quan điểm của học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng
được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng, phát triển, đặc biệt là về xây


22
dựng tổ chức đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời,
Đảng ta đã khẳng định: “Căn bản tổ chức của Đảng là chi bộ” [15, tr.121]. Tại
thời điểm 1930, Đảng đã chỉ đạo:
Các chi bộ công xưởng và xưởng chế tạo là cơ sở của Đảng trong
các thành phố và trung tâm công nghiệp. Khơng có những chi bộ đó
làm cơ sở thì chúng ta không thể tiến lên về mặt tổ chức hay giành
được quần chúng, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể mảy may
tổ chức và lãnh đạo cách mạng [15, tr.225].
Hồ Chí Minh khẳng định “chi bộ là gốc rễ của Đảng”, “là đồn luỹ chiến
đấu của Đảng ở trong quần chúng”, “là cầu nối giữa Đảng và quần chúng”,
“chi bộ mạnh tức là đảng mạnh” [33, tr 242-243].

Sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội vừa xây
dựng phát triển kinh tế xã hội vừa bảo vệ vững chắc Tổ quốc, Đảng ta đã quán
triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ chí Minh: “muốn làm nhà tốt phải xây
nền cho vững” [35, tr.266]. Nền ở đây là tổ chức đảng ở cơ sở, là mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là sự lãnh đạo của Đảng đối vớí quần chúng
thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng.
Qua mỗi kỳ đại hội Đảng, cách mạng nước ta lại giành được thắng lợi
to lớn hơn, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trị của tổ chức đảng càng sâu
sắc và phong phú hơn. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ
chức đảng, Đảng ta cịn khẳng định: Tổ chức cơ sở đảng là khâu nối liền
giữa Đảng vơí nhân dân, là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của
Đảng vào quần chúng, tuyên truyền, vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết
phục quần chúng thấu hiểu sự đúng đắn của đường lối, chính sách ấy. Chủ
động tìm giải pháp lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện tốt đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ trương kế hoạch công
tác của cấp trên, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.


23
Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng: Điều 21,
khoản 1 ghi rõ: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Điều 24, khoản 1
Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc
hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có 3 đảng viên chính
thức. Chi bộ đơng đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ
đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới
sự chỉ đạo của chi uỷ [21, tr.35, 41].
Quy định này mang ý nghĩa vừa là vị trí, vai trị, vừa là chức năng của tổ
chức đảng ở cơ sở, là sự khái quát hóa trong cả quá trình nhận thức về lý luận

và thực tiễn. Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng: dù ở
giai đoạn cách mạng nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vị trí nền tảng của
mình, các tổ chức cơ sở đảng ln có vai trị là hạt nhân lãnh đạo chính trị,
bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện trôi chảy
và đạt kết quả ở đơn vị cơ sở và là cấp tổ chức trực tiếp tiến hành xây dựng
nội bộ Đảng.
Cùng với việc thành lập tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị kinh tế nói
chung, trong doanh nghiệp ngoài nhà nước hiện nay, các tổ chức đảng cũng
được thành lập. Tổ chức cơ sở đảng, chi bộ trực thuộc cơ sở trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hố có vị trí, vai trị rất quan trọng. Các tổ
chức đảng chính là nền tảng, hạt nhân lãnh đạo chính trị tại doanh nghiệp.
Nếu tổ chức đảng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh mà yếu kém thì khơng
thể có doanh nghiệp hoạt động có hiêụ quả theo đúng đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở rộng quan hệ với các nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nơi
nào tổ chức đảng hoạt động yếu kém thì nơi đó doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả, thiếu ổn định, sản xuất và năng suất lao động không tăng, nghĩa vụ


24
đối vơí Nhà nước khơng hồn thành, quyền dân chủ của người lao động bị vi
phạm, những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nội bộ của đảng không được
thực hiện tốt. Ngược lại các tổ chức đảng đạt trong sạch, vững mạnh thì
những đơn vị đó hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiêụ quả cao, nâng cao
đời sống cơng nhân, hồn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hố có vai trị quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghiã. Tuy nhiên, để các doanh nghiệp này

xứng đáng làm tốt vai trò ấy chỉ khi được các cấp ủy đảng cùng với chủ doanh
nghiệp, đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn về phát triển kinh tế-xã hội và
tổ chức thực hiện có hiệu quả. Sự lãnh đạo của các đảng bộ, chi bộ là lãnh đạo
cán bộ, đảng viên thực hiện tốt thoả ước lao động, bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người lao động; là cơ sở quan trọng đảm bảo cho mọi hoạt động của
đơn vị từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động xây dựng doanh nghiệp,
xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức đến các hoạt động của đoàn
thể quần chúng trong đơn vị theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước.
- Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước:
Các tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước có nhiệm vụ chấp
hành nghiêm túc theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (Khoá IX, X) về chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng trong các doanh nghiệp: Quy định số 288-QĐ/TW ngày 8/02/2010 của
Ban Bí thư về Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó Nhà nước sở hữu từ 50% vốn
điều lệ trở xuống (gọi chung là công ty); Quy định số 99-QĐ/TW TW ngày
4/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Khoá IX quy định chức năng,


25
nhiệm vụ của Tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp có vốn Nhà nước liên
doanh với nước ngồi; Quy định số 141-QĐ/TW 16/5/2005 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (Khoá IX) về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ
sở đảng trong các doanh, nghiệp có 100% vốn nước ngoài; Quy định 100QĐ/TW ngày 04/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khố IX) về chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân.
Các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh
Hóa là hạt nhân chính trị, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng và tuyên
truyền, vận động các thành viên trong doanh nghiệp thực hiện đường lối,

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ và các
quy chế, quy định của doanh nghiệp; tham gia xây dựng và lãnh đạo doanh
nghiệp phát triển bền vững, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, bảo đảm
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, các cổ đơng và người lao động, góp
phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng giai cấp công nhân vững mạnh; xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch,
vững mạnh.
Các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước ở Thanh Hóa
có nhiệm vụ:
+ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện
có hiệu quả;
+ Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và
tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn
luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực cơng tác; làm công tác phát triển


×