Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC MỸ THUẬT HOÀNG THÀNH THĂNG LONG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.27 KB, 7 trang )






DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG
TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG



Từ cuộc khai quật này, cũng là lần đầu tiên các nhà mỹ thuật được chứng kiến một
khối lượng đồ sộ các sản phẩm mỹ thuật. Các tượng rồng, phượng được tìm thấy
với kích thước khá lớn, cao gần đầu người, chứng tỏ các kiến trúc thời Lý, Trần,
Lê ở đây được xây dựng rất công phu và đẹp đẽ. Các sản phẩm gốm từ gốm ngự
dụng cho đến gốm mộc đã chứng thực một nền nghệ thuật Việt Nam đa dạng và
phong phú. Đồng thời thông qua các hiện vật nghệ thuật này, chúng ta càng có điều
kiện để khẳng định thêm những giả thiết về sự giao lưu văn hóa qua các thời kỳ.
Đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật Chăm trên nước Đại Việt xưa là
khá đậm nét.
Mặc dầu những di tích có niên đại Lý Trần, ngày nay không còn nhiều như bệ
tượng Adiđà, cột đá chùa Dạm, các bệ đá hoa sen thời Trần, là những chứng cứ
tiêu biểu cho sự có mặt của văn hóa Chăm trên mỹ thuật Việt. Những ngôi tháp cổ
như Chương Sơn, Bình Sơn với những đặc trưng là gạch và đất nung với những
trang trí rất gần gũi với tinh thần của nghệ thuật Chăm. Ngoài ra người ta cũng tìm
thấy cả những pho tượng Chăm trên đất Việt tại chùa làng Võng La, nơi vào thời
Đại Việt các vua Lý đã cấp cho các tù binh Chămpa ở để phục vụ cho công cuộc
xây dựng nền nghệ thuật mới của mình. Việc có sự cộng cư của người Chăm và
người Việt trên đất Bắc, và sự tham gia của người Chăm trong việc xây dựng các
công trình đền đài chùa miếu, đã làm nên một bộ mặt rạng rỡ của mỹ thuật Việt
trong buổi đầu độc lập và ảnh hưởng này còn duy trì mãi cho đến các giai đoạn
sau. Việc phát lộ các di tích tại Hoàng Thành Thăng Long, đã giúp ta khẳng định


sự ảnh hưởng này không chỉ tạo nên những dấu ấn trong nghệ thuật chạm khắc dân
gian mà còn làm nên giá trị văn hóa trong nghệ thuật trong cung đình Đại Việt thời
Lý Trần.
Đặc trưng nhất trong các hiện vật tìm thấy ở Hoàng Thành Thăng Long là các đầu
rồng và đầu phượng cao hơn 1m. Rồng vốn là con vật biểu tượng cho vương triều
và mang nhiều nét ảnh hưởng từ nghệ thuật Trung Hoa. Nhưng nó hoàn toàn khác
với sự mỏng manh của nguyên mẫu từ rồng Tùy Đường. Cái hàm con vật được mở
rộng hơn, râu và bờm đã được hư cấu thêm, cộng nhập với nét thô khỏe của Thủy
quái Makara trong nền văn hóa Chăm. Sự xuất hiện thêm cái mào lửa, và những
vân hoa trên những vảy cách điệu hình thoi đã chứng thực cho sự ảnh hưởng này.
Cho dù vậy, cái nét đặc biệt để rồng Lý Trần trở nên độc đáo với những biểu tượng
mà nó thu nhận chính là lối thắt túi hình sin đều đặn. Nó cũng là nét chủ đạo cho
hình ảnh tổng thể của con rồng cho dù con rồng đó được miêu tả trọn vẹn hay trích
đoạn chỉ là một cái đầu để đưa lên trang trí phần nóc mái. Người ta có thể dễ dàng
nhận ra trên cái mào lửa và cả trên cái bờm phía sau tai những chuyển động hình
sin này là sự điệp lại của chuyển động của toàn bộ khúc thân. Chính điều này đã
tạo cho rồng Lý vẻ sinh động, và cái thế lúc nào cũng vươn lên mang tinh thần
vương triều thịnh vượng. Lối chuyển động hình sin này cũng được lặp lại trên hình
ảnh những con Phượng, như muốn tạo lập nên những giá trị thống nhất. Hình
tượng con Phượng có thể xem như một đối trọng khác, tương đối đặc biệt với hình
tượng rồng kể trên. Với cái cổ vươn cao, cái mỏ lớn phía trên cong trùm lên mỏ
dưới không khác bao xa với hình ảnh của chim Garuda (đặc biệt là các con Garuđa
có kích thước lớn mang phong cách Tháp Mẫn). Tuy nhiên hình thức của chiếc mỏ
này ít nhiều đã được giản lược đi. Thay vào đó các nghệ nhân lại tập chung miêu tả
cái bờm lông sau tai phượng, tạo nên sự nhất quán trong các mô típ trang trí.
Đối với những con rồng, hay phượng được chạm trong những hình lá đề lớn tìm
thấy trong các di vật ở Hoàng Thành Thăng Long. Theo Nguyễn Tiến Đông, các
dạng lá đề này mang âm hưởng điêu khắc của những chiếc lá nhĩ rất phổ biến trong
cac đền tháp Chăm Pa (1). Những con rồng và phượng này chỉ là sự thay thế cho
những vị thần như Brahma, Visnu, Siva, Uma hay các vũ nữ Apsara. Tuy nhiên

người ta cũng nhìn thấy ở đây không chỉ là sự thay thế biểu tượng, mà trên những
hình thức rồng hay phượng này còn tiếp tục sáng tạo. Hai đôi chân rất dài để sải
những bước lớn học được trong mô típ rồng thời Tùy Đường kết hợp nhịp điệu dồn
nén hình sin trên các thiết diện ngang tạo nên chuyển động uyển chuyển, thì trong
các dạng thức lá đề này, đôi chân đó đã tạo thế cho việc chúng nâng quả cầu lửa ở
trung tâm mang hình vành sáng nhọn đầu. Chính cách xử lý hình ảnh hai con rồng
cuộn mình vào hai nửa hình lá đề và chầu vào quả cầu lửa ở giữa này đã cho thấy
tính chất linh hoạt của nghệ thuật Việt. Chúng không hề cảm thấy có một sự gò bó
hay khuôn thức nào cả. Đồng thời điểm kết thúc của hai cái đuôi rồng, hay hai cái
đuôi phượng lại hoà điệu với hình chóp của lá đề khiến cho biểu tượng này trở nên
độc đáo.
Ngoài ra về mặt ý nghĩa mà nói, đôi rồng, phượng chầu lá đề này còn cho thấy tinh
thần hòa hợp giữa 2 luồng tư tưởng Nho và Phật của triều đại Lý Trần. Sự tương
đồng của biểu tượng lá đề và chiếc lá nhĩ trong điêu khắc Chăm chỉ là trên khía
cạnh hình thức. Cái căn nguyên sâu xa của việc sử dụng chiếc lá đề đó còn có giá
trị biểu tượng cho Phật giáo, tư tưởng được xem là quốc giáo trong thời đại này.
Rồng phượng, là biểu trưng cho vua, chúa, vương triều, thì chiếc lá đề đã làm nên
ý nghĩa phản ánh tính chất thịnh trị thịnh đạt và phát triển của vương triều Nho +
Phật đó. Đồng thời biểu tượng này có thể còn là hình thức biến thể đầu tiên của
biểu tượng lưỡng long triều nhật. Chúng được hiện diện trên các trang trí nóc mái
của Hoàng thành Thăng Long cũng là cách Đại việt thiết lập nên hình ảnh của một
quốc gia độc lập tự chủ đầu tiên trong lịch sử.
Ngoài ra ở các di vật khác tìm thấy trong Hoàng Thành như tượng đầu con sư tử
bằng đất nung. Với những mồm há rộng, những tượng con sư tử này được phỏng
đoán có thể là chi tiết đầu ống máng thoát nước gắn giữa các tòa nhà như chúng ta
vẫn bắt gặp trong việc thiết kế các cung điện thời Nguyễn ở Huế. Mặc dầu đây là
một vấn đề còn phải bàn cãi, nhưng đứng về phương diện mỹ thuật, cách thức tạo
hình của chúng đã cho thấy dấu ấn đậm nét của văn hóa Chăm. Cái mũi to, cái mắt
lồi, cùng đôi lông mày hình dấu ngã có những đường kẻ song song đã tạo cho con
thú có vẻ dữ tợn thị uy dường như không khác bao xa với các con thủy quái

Makara của người Chăm. Còn những đầu ngói ống khắc mặt linh thú, hay chạm
hoa cúc, hoa sen dường như cũng ít nhiều tương đồng với các di vật gốm trang trí
kiến trúc tìm thấy ở Trà Kiệu.
Cái tài tình khéo léo của những nghệ nhân điêu khắc trong việc đồng hóa các ảnh
hưởng văn hóa chính là ở chỗ người ta chỉ có thể tìm thấy những nét tương đồng,
mà không phải là sự sao chép nguyên xi từ những hình mẫu nghệ thuật Chăm. Mặc
dầu việc trực tiếp tham gia vào các công trình kiến trúc của các tù binh người
Chăm đã được các thư tịch cổ ghi lại. Điều này cũng có nghĩa người Việt cùng
người Chăm đã sáng tạo lại những hình thức nghệ thuật mới trên các nền tảng có
sẵn. Trên các di vật này người ta cũng nhìn thấy không ít các ảnh hưởng từ văn hóa
nghệ thuật Trung Hoa. Nhưng rõ ràng, người phương Bắc nhìn và không thể nhận
đó là của họ, và người Chăm xem đó cũng chẳng phải là của mình (1). Đó chính là
bản sắc văn hóa Đại Việt đã biến những ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác nhau
mà nó tiếp nhận thành những giá trị riêng biệt của nó./.

×