Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

TRỌN GÓI KHOI KIEN THUC 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.98 KB, 36 trang )

1

CÂU HỎI THI TỐT NGHIỆP
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -HÀNH CHÍNH GD1

Câu 1. Trình bày vị trí, nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? Sự vận dụng của Đảng ta trong nhận thức
các mối quan hệ lớn của cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay?
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc,
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển. Theo quy luật này,
nguồn gốc, động lực cơ bản và phổ biến của mọi quá trình vận động phát triển chính là
mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật.
1.Vị trí:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở vị trí “hạt nhân”
của phép biện chứng duy vật. Theo Lênin: “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế, là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó địi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động
lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn
gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật chính
là xuất phát từ mâu thuẫn khách quan, vốn có của nó.
2. Nội dung:
a. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến
+ Mâu thuẫn là một khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối
lập. Đó là những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau cùng tồn tại trong một
sự vật. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
- Tính khách quan, vì là cái vốn có trong các sự vật hiện tượng
- Tính phổ biển, tồn tại trong tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy).
+ Do mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nêu mâu thuẫn có tính đa dạng và
phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau.
Trong mỗi sự vật, hiện tượng khơng phải chỉ có một mâu thuẫn, mà có nhiều mâu thuẫn.


Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, có vai trò tác động khác nhau
đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần phải có phương pháp phân tích và
giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
b. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau của
các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình.


2

Chú ý: Trong quy luật mâu thuẫn, khái niệm “thống nhất” và “đồng nhất” thương
được dùng cùng một nghĩa. Nhưng cũng có lúc, khái niệm “đồng nhất” được hiểu là sự
chuyên hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn nhau của
các mặt đối lập.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu
tranh giữa chúng, bởi vì trong quy định, ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn ln có
xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau.
- Phát triển là một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Quá trình hình và phát triển của một mâu thuẫn: Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn
thể hiện ở sự khác biết; sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập; khi hai mặt đối lập của
mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hố mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại
một q trình mới làm cho sự vật khơng ngừng vận động và phát triển.
Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập khơng chuyển hố), thì khơng
có sự phát triển. Chuyển hố của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình thức chuyển hố cũng rất đa
dạng: Có thể hai mặt đối lập chuyển hố lẫn nhau và cũng có thể chuyển hố lên hình thức
cao hơn…
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai

mặt: Thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong đó: Thống
nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt
đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển
của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt dối
lập làm cho thế giới vật chất phân hoá thành các bộ phận, các sự vận đa dạng, phức tạp,
gián đoạn.
Tóm lại: Một sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các
mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hoá giữa chúng, là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên
muốn nắm được bản chất của sự vật cần phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ
phận đối lập chung.
- Thứ hai, mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâuthuẫn một cách cụ thể.
Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với
những điều kiện chín muồi.
4. Sự vận dụng của Đảng ta trong nhận thức các mối quan hệ lớn của Cách
mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay?


3

Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, ni ảo tưởng về một thế
giới khơng có mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. Những mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ nhân
dân là những xung lực trực tiếp để xã hội luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi chúng
ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu thuẫn
khơng phải là phủ nhận, tìm cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu, phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển.

Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu
thuẫn giữa khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt
đối lập với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại
trong tàn dư của xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong cơng cuộc đổi
mới. Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực chính trị là mâu
thuẫn giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tư bản chủ
nghĩa; giữa những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc với âm mưu và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu
thuẫn giữa q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện của hệ
thống tổ chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu
với tình trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa với nguy cơ hủy hoại mơi trường sinh thái. Cùng với đó, ở Việt Nam hiện nay
cịn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế có lợi ích khác biệt. Tất
nhiên, sự đối lập đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính
chỉnh thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Đảng ta phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn thông qua các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức
mạnh bạo lực
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã
hội là thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu thuẫn xã hội ở Việt
Nam là một vấn đề có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn hiện nay.


4

Câu 2. Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện? Sự vận dụng quan
điểm toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước?

(5điểm)
Bài viết:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ
sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách khách quan, cái
này bên cạnh cái kia, giữa chúng khơng có sự phụ thuộc, khơng có sự ràng buộc lẫn nhau,
những mối liên hệ có chăng chỉ là sự liên hệ hời hợt, bề ngồi mang tính ngẫu nhiên. Một
số người theo quan điểm siêu hình cũng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng
lại phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngược lại quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một thể thống
nhất.các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt, vừa có sự
liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Vê nhân tố quy định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, chủnghĩa
duy tâm cho rằng , cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua lại của các sự vật hiệntượng là các
lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác con người. xuất phát từquan điểm duy
tâm chủ qua, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượnglà cảm giác..
đứng trên quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen lại cho rằng cơ sở của sựliên hệ qua lại
giữa các sự vật, hiện tượng là ở ý niệm tuyệt đối.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua
lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo quan điểm này, các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác
nhaunhư thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một
thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức tư tưởng của con người vốn là những
cái phi vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung chúng cũng chỉ là kết quả
phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các q trình mà nó cịn nêu rõ tính đa dạng của

sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ chung
bao qt tồn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực
riêng biệt của thế giới; có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trongđó sự tác
động qua lại được thể hiện thơng qua một hay một số khâu trung gian; có mối liên hệ bản


5

chất, có mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác
nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vật. sự vật, hiện tượng nào cũng vận
động, phát triển qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có
mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và cácq trình
tương ứng.
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát
triển của các sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vậ, nó giữ vai trị
quyết định đối với sự tồn tại, vân động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là
mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó khơng có ý nghĩa
quyết định, hơn nữa nó thường phải thơng qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng
đối với sự vận động và phát triển của sự vật. tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là phủ
nhận hồn tồn vai trị mối liên hệ bên ngoài đối với sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng. mối liên hệ bên ngồi cũng hết sức quan trọng, đơi khi có thể giữ vai trò quyết
định.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng
cótính chất tương tự như đã nói ở trên. Ngồi ra chúng cịn có những nét đặc thù, chẳng
hạnnhư, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là cái tất nhiên khi xem xét
trongmối liên hệ khác. Ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngồi của cái tất yếu,
hiệntượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc
thùcủa sự biểu hiện những mối liên hệ tương ứng.

Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính
tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa
lẫn nha. Sự chuyển hóa như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem
xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật và hiện tượng.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên,trong
xã hội và trong tư duy con người, phép biện chứng duy vật, tập trung nghiên cứu những
loại liên hệ chung, mang tính chất phổ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng
biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa
học khác.
Quan điểm toàn diện trong triết Học mác – Lênin:
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết
học Mác – Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức.
Vơi tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật
hiện tượng, quan điểm tồn diện địi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật hiện
tượng. Một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các


6

yếu tố, các thuộc tính khác nhau trong chỉnh thể của sự vật, hiện tượng đó; mặt khác chúng
ta phải xem xét trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng đó với các sự vật hiện
tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều. nguyên tắc tồn diện địi hỏi phải
xem xét đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ
yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng; tránh chủ nghĩa triết
chung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm, cầu thuật, ngụy biện, coi cái
cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngượclại, dẫn đến sự
sai lệch xuyên tạc bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong nhận thức phương pháp toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận
khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của sự vận động, phát triển có thể có của sự vật,
hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là xem xét sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống

nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của
chúng. Đề cập đên nội dung này, Lênin viết “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật
đó”.
Hơn thế nữa quan điểm tồn diện địi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh
được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. bởi vậy nhận thức của con người về sự vật
cũng chỉ là tương đối, khơng trịn vẹn, đầy đủ. Có ý thức được điều này chúng ta mới tránh
được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý
bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. để nhận thức được sự vật cần
phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng
cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc.
Quan điểm tồn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa triết chung và thuật ngụy biện. Khơng chỉ ở chỗ nó chú ý đến hiều mặt, nhiều mối
liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta
đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau của sự vật được thểhiện
trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện chân thực đòi hỏi chúng ta
phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra
cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
Có thể kết luận, q trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là
nguyên tắc phương pháp luận.
Như vậy, quan điểm toàn diện cũng không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt
kê những tính quy định khác nhau của sự vật hiện tượng, nó địi hỏi phải làm nổi bật cái cơ
bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện tượng đó.
Có thể kết luận, q trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với nguyên tắc
phương pháp luận đế nhận thức sự vật sẽ trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban


7


đầu về cái toàn thể để nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đên nhận
thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật hiện tượng đó và cuối cùng khái quát những
tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện vừa khác chủ nghĩa chiết chung vừa khác thuật ngụy biện.
Chủ nghĩa chiết chung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau nhưng lại kết
hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thanh một hình ảnh không đúng
về sự vật. Chủ nghĩa chiết chung không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ cơ bản nên rơi
vào chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do
đó hồn tồn bất lực khi phải có quyết sách đúng đắn. Thuật ngụy biện cũng chỉ chú ý
đếnnhững mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản
thànhcái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết chung và thuật
ngụybiện đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem
xétcác sự vật, hiện tượng.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng
ta vừa phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối liên
hệ giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm tồn diện địi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh
được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng
chỉ là tương đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta mới tránh được
việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và tránh xem nó là những chân lí bất biến,
tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải
nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho
chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là
phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau

của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện chân
thực địi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ
khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng
đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong sự nghiệp đổi mới đất nước:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi,đất nước ta hoàn toàn
thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội.Định hướng của Đảng
và Nhà nước lúc này là: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung (mà
hiện nay chúng ta gọi là mơ hình “quan liêu bao cấp’’). Cơ chế này có nguồn gốc từ mơ
hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ viết.


8

Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh hiện tại của đất nước lúc
đó , nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước sau này.
Ngày nay, khi nhắc đến cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung ta thường chỉ nghĩ đến các
mặt tiêu cực của nó. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều
sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và công nghệ hiện đại thì cơ chế
này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học cơng nghệ. Điều đó làm cho nền
kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Tuy nhiên theo quan điểm tồn diện, nếu chỉ nhìn sự vật, hiện tượng ở một mặt, một
chiều thì khơng thể đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng mà cần phải đặt nó vào mối liên
hệ cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện lịch sử tương ứng, khi nhìn phiến diện ta chỉ có
thể nhìn thấy mặt tiêu cực mà khơng thể nhìn thấy những ưu điểm của nó. Nhìn một cách
tồn diện, ta thấy bên cạnh những hạn chế, yếu kém của chế độ kinh tế tập trung thì trong
hồn cảnh giai đoạn lịch sử những năm 70/XX chế độ kinh tế tập trung cũng có những ưu
điểm đóng góp nhất định cho đất nước, cả về mặt kinh tế, về mặt xã hội – chính trị.
Trong khi khẳng định tính tồn diện, phạm vi bao qt của tất cả các mặt, các

lĩnhvực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đồng
thờicoi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong
khicần nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị, Đảng ta
cũngxem đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn sau hơn 33 năm đổi mới ở nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận
tínhđ úng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng đã
khẳngđịnh: “xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội đối ngoại. Khơng có sự đổi
mới đó thì khơng có sự đổi mới khác”.
Đi lên CNXH là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết
tật, sai lầm trong quá trình xây dựng CNXH nhưng khơng quan niệm những lệch lạc đó là
khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó
daođộng về mục tiêu và con đường đi lên CNXH. Đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêuCNXH, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan
niệmđúng đắn về CNXH, bằng những hình thức bước đi và biện pháp thích hợp.
Điều cốt yếu để cơng cuộc đổi mới được định hướng CNXH và đi đến thành cơng là
trong qua trình đổi mới, Đảng phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sứcchiến đấu của mình.
Đổi mới tồn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực nội dung của đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt, từ đổi
mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách lề lối làm việc.
Nếu chỉ đổi mới một khâu nào đó thì cơng cuộc đổi mới khơng thể đạt kết quả mong


9

muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định khâu then chốt để tập trung sức giải
quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và các lĩnh vực khác.

Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt
lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ
giữakinh tế và chính trị thì kinh tế giữ vai trị quyết định chính trị vì: Kinh tế là nội dung
vật chất của chính trị, cịn chính trị là biểu hiện tập trung củakinh tế.
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, chúng ta chủ trương tiến hành đổi
mới đồng bộ phải kết hợp ngay từ đầu, đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và các mặt
khác của đời sống xã hội. Trong đó, đổi mới kinh tế là trọng tâm, cịn đổi mới chính trịthúc
đẩy đổi mới kinh tế.
Một trong những đặc trưng cơ bản của CNXH đó là nền kinh tế nhiều thành
phần,trước đây do nhận thức sai lầm chúng ta đã xóa bỏ mọi thành phần kinh tế chỉ còn lại
hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thì nay chúng ta chủ trương
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai
trị chủ đạo và đi đơi với vai trò tăng cường quản lý của nhà nước về kinh tế - xã hội.
Trước đại hội VI chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất
mộtthành phần dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, làm như vậy là chúng
tađã đẩy QHSX đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX tạo ra mâu thuẫn giữa
mộtbên là LLSX thấp kẽm với một bên QHSX được xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm
sựphát triển của LLSX làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Từ đại hội VI đến nay, khắc phục sai lầm trên, chúng ta thực hiện xây dựng nềnkinh
tế hàng hóa nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản của q trình đổi mớitồn diện
nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là nền kinhtế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhànước theo
định hướng XHCN.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng nền kinh tế
nhiềuthành phần là phù hợp với phát triển LLSX ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng,
pháttriển, khơi dậy các tiềm năng sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các
chủthể lao động trong sản xuất, đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầunhập
khẩu, coi xuất khẩu là một trong 3 chương trình trọng điểm của chặng đường đầutiên, là
hướng ưu tiên của kinh tế đối ngoại trong suốt thời kỳ đổi mới.

Trong khi khẳng định những thành tựu của công cuộc đổi mới, cần khẳng định nước
ta vẫn trongtình trạng đang phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so vớinhiều nước trong khu vực
và trên thếgiới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cịn nhiều yếu
kém. Lýluận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xãhội ở nước ta, đặc biệt là trong giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng


10

và chấtlượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi
mớikinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ
vàchủ động; tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
Chúng ta cần phải tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủnghĩa xã hội
trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới tồn diện, đồng
bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làmphù hợp; phải đổi mới về hình thức, tư
duy đến hoạt động thực tiễn; đổi mới từ kinh tế, chính tri,đối ngoại đến tất cả các mặt của
đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lýcủa Nhà nước đến hoạt động cụ
thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tấtcả các mặt của đời sống xã hội
nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có bước đi thíchhợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ
giữa bộ ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trọng tâm,xây dựng Đảng là then chốt và phát
triển văn hóa là nền tảng của xã hội; Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai tròchủ động, sáng tạo của nhân dân; phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnhdân tộc với sức mạnh thời đại trong điều liện mới;
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổimới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâuthen
chốt, là nhân tố quyết định cho sự đổi mới của đất nước. Xây dựng Nhà nước phápquyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bứcthiết của
xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền cơngdân, quyền
con người. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trongviệc tập

hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đểthực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới.

Câu 3. Trình bày sự hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa? Sự vận dụng của Đảng ta
trong xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay?


11

Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định.
Sự hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa:
- Chủ nghĩa Mác – Lenin cơ sở lý luận của ý thức xã hội chủ nghĩa: Chủ nghĩa Mác
– lenin chỉ rõ, trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, ý thức của con người nếu phản
ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội thì nó có thể
chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của tồn tại xã hội trên cơ sở đó có thể dự báo
tương lai. Chủ nghĩa Mác lê nin vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học chung
nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới nhân loại tiến bộ, cho sự nghiệp cải tạo, xây dựng
CNXH.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa làm thay đổi triệt để trong ý thức xã hội, trong đời
sống tinh thần của nhân dân lao động
- Ý thức xã hội chủ nghĩa hình thành một cách tự giác, hết sức lâu dài, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản vơi sự tham gia tích cực của quảng đại quần chúng nhân dân.
Chính quá trình tự giác, rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng
xã hội mới là nhân tố đóng vai trì quyết định trong sự hình thành ý thức xã hội. Đảng cũng
chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo khi biết nâng cao tầm trí truệ, phẩm chất đạo đức,
năng lực lãnh đạo và gắn bó máu thịt với nhân dân.
- Ý thức xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong
lịch sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những

ý thức lạc hậu, phải tiến bộ. Đó là q trình tiếp thu những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng
của dân tộc và nhân loại, đồng thời là quá trình đấu tranh khắc phục những tư tưởng,
phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng phản động, làm thất bại cuộc tiến công về tư tưởng của lực lượng phản cách mạng.
- Hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với sự phát triển kinh tế, cũng cố
quan hệ sản xuất XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Có phát huy
được quyền làm chủ của nhân dân lao động, chúng ta mới lôi cuốn được đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đấu tranh có hiệu quả với những
tư tưởng sai trái, phản tiến bộ, tự giác hình thành trong bản thân ý thức xã hội mới. Có
phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động thì mới thu hút được đông đảo họ
tham gia quản lý, xây dựng, phát triển kinh tế-XH-VH-GD-Khoa học.
Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – lê nin về sự hình thành ý thức XHCN trong
xây dựng ý thức XHCN hiện nay,bên cạnh định hướng phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất
cho CNXH , Đảng ta tiêp tục đưa ra những định hướng lớn về phát triển văn hóa tinh thần
cho xã hội trong gia đoạn hiện nay:
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ;


12

làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển;
- Xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể
phát triển;
- Xác định giáo dục đào tạo có sự mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam;
- Khoa học cơng nghệ giữ vai trị then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc
độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
- Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã hội và
nghĩa vụ của mọi cơng dân;
- Chính sách xã hội đúng đắn, cơng bằng, vì con người là động lực mạnh mẽ, phát
huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đây là những điều kiện cơ bản, quan trọng cho việc hình thành và phát triển ý thức
xã hội củ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


13
Câu I.4. Phân tích quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa? Ý nghĩa nghiên
cứu quy luật đó trong điều kiện nước ta hiện nay? (5 điểm)
1/Phân tích quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa (quy luật giá trị)
* Nội dung của quy luật giá trị
Thực tế lịch sử đã chứng minh , bất kỳ một sự vật hiện tượng nào, từ vi mô đến vĩ mô, tất cả khi tồn
tại trong tự nhiên đều tuân theo nhưng quy luật nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quá trình
hình thành và phát triển của mỗi sự vật hiện tượng
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thơng hàng hóa, ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hố thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần
thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một hàng hóa
thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó,
tức là giá cả thị trường của hàng hóa
+ Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được
chi phí chí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết, chứ
không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.
Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thơng qua sự vận
động của giá cả hàng hố. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, cịn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị,

nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Trên thị trường, ngồi giá trị, giá cả cịn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách
rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay
quanh trục giá trị của nó hình là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả
thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
Tác động của quy luật giá trị
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới
tác động của quy luật cung - cầu.
*Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy.
Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá
tăng.
*Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng
hóa khó bán, sản xuất khơng có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản
xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.
*Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường gọi là
“bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế ln ln vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên
biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản
xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến
động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do
đó làm cho lưu thơng hàng hố thơng suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà
cịn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết

định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao
động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí
lao động xã hội của hàng hố ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá
biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh,
và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí


14
lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải ln tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy q trình này diễn
ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hố thành người giàu,
người nghèo.
Q trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí
lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở
rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người khơng có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp
rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó
2/Ý nghĩa nghiên cứu quy luật đó trong điều kiên nước ta hiện nay
Mác từng khẳng định ở đâu có kinh tếsản xuất hàng hố thì ở đó có quy luật giá trị hiện nay nền
kinh tếnước ta đang trong giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường cho nên việc vận dụng quy
luật giá trịlà một quan đIểm tất yếu không tránh khởi .Nền kinh tếViệt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau ,quy luật giá trị lại được phát hiện và áp dụng theo nhiều cách khác nhau rất phong phú và đa
dạngphù hợp đặc điểm của từng thời kỳ.
Trong quá trình phát triển kinh tếtiến lên chủnghĩa xã hội , nền kinh tếViệt Nam đã đạt đượcnhững
thắng lợi bước đầu hết sức to lớn đó khơng chỉbiểu hiện ởnhững con sốphản ánh q trình tăng trưởng mà
cịn thểhiện ởsựkhắc phục được sựtách rời người lao động khỏi tưliệu sản xuất nên đảm bảo được tính tập
thểcủa việc tổchức nền sản xuấtxã hội . Đó là do biết vận dụng chức năng tổchức xã hội của quy luật giá
trị.Bên cạnh đó do biết kết hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích kinh tếcủa tập thểvà tồn xã hơịnên

việc thực hiện cơng bằng xã hội kích thích nỗlực nâng cao hiệu quảkinhtếvà chất lưọng công tác ., đời
sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện và nâng cao.
Việc định hướng nền kinh tếvà tiêu chuẩn hoá nền kinh tế đã chỉra những mục tiêu xác thực
cụthểcho từng bước tiến của nền kinh tế. Bên cạnh đó ta cũng phải nhấn mạnh tới những thuận lợi trong
quá trình cải cách kinh tế ởViệt Nam hiện nay đó là cùng với xu thếphát triển kinh tếthếgiới Việt Nam tiến
hành cải cách đồng thời với nhiều nước nằm trong một vùng tăng trưởng nhanh ( NICs ,A SEAN ,) nên có
thể học hỏi được nhiềuưu điểm, một vấnđề nữa cầnđề cập là sự nhanh nhạy củaĐảngvà nhà nước ta trong
quá trình đổi mới cách thức quản lý và định hướng nền kinh tếsao cho phù hợp với từng thời kỳ.
Tuy nhiên bên cạnh những thành cơng cịn tồn tại những mặt hạn chế: đó lá sựvận dụng dập khuôn
những quy luật kinh tế, đôi khi cách nhìn nhận vấnđềcịn lúng túng, quẩn quanh .Nền kinh tếnước ta vẫn
còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tếnông nghiệp lạc hậu và chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất ,
tiết kiệm trong tiêu dùng , nền kinh tếphát triển khá nhưng chất lượng và hiệu quảcòn thấp . Vai trò của
nhà nước đối với nền kinh tế còn yếu nên khả năng quản lý chưađược bao qt. Nói tóm lại trong q
trình vận dụng quy luật giá tri vào nền kinh tếViệt Nam tuy cịn có nhiều sơsuất nhưng cũng đã đạt được
những hiệu quảnhất định nếu có thểhạn chếnhững thiếu sót , phát huy những thành quả đã đạt được thì
chắc chắn trong tương lai không xa nền kinh tế Việt Namsẽphát triển hơn đuổi kịp các nước trong khu
vực cũng nhưtrên thếgiới.
Để vận dụng tốt quy luật giá trị vào phát triển nền kinh tế thị trường ở nước takhông thể không đề
cập đến vai trò của Nhà nước. Mặc dù quy luật giá trị tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế,
nhưng nhờ nắm vững tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế, Nhà nước đã nâng cao dần trình độ cơng
tác, kế hoạch hóa kinh tế. Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: Về cơ bản chúng ta đã nắm được nộidung,
tính chất và tác dụng của quy luật giá trị đối lĩnh vực sản xuất và phân phốivà đã vận dụng nó phục vụ các
nhiệm vụ chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Cơng tác kế hoạch hóa giá cả
cũng đã có tiến bộ, phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được nâng lên một bước. Với
vai trịquản lý vĩ mơ của Nhà nước, việc vận dụng tốt quy luật giá trị vào nền kinh tế thịtrường ở nước ta
nhằm: kích thích sản xuất phát triển; điều hịa lưu thơng hàng tiêudùng; phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân...
Tóm lại, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa. Sự rađời và hoạt động
của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa.Việc vận dụng quy luật giá trị vào phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa vơ cùng to lớn, giúp nền kinh tế Việt

Nam pháttriển theo kịp trình độ các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, Nhà nướcvới vai trị
quản lý vĩ mơ nền kinh tế cần có những giải pháp để hạn chế những tácđộng tiêu cực của quy luật giá trị
tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế Việt Nam pháttriển nhanh, hiệu quả và bền vững./.


15


16

Câu 1.5. Phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa? Liên hệ thực tiễn năng suất lao động nước ta hiện nay? (5đ)
1.Phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa?
a. Lượng giá trị hàng hóa:
- Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Lượng giá trị của hàng hóa là một khái niệm trong kinh tế chính trị MarxLenin chỉ về một đại lượng được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng
hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động, cụ thể là thời gian
lao động xã hội cần thiết. Lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa.
Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng
hóa đó.
+Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa
nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ, trang thiết bị trung
bình, trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

+ Thời gian lao động cá biệt hay mức hao phí lao động cá biệt: là thời gian của mỗi
đơn vị sản xuất kinh doanh riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm trong quá trình sản
xuất.

Cho ví dụ : có 3 người cùng dệt 1m vải ,mà công ty quy định chỉ dệt mất trong
vòng 1 tiếng :
- Người 1 dệt mất 1tiếng
- Người 2 mất 1 tiếng rưỡi
- Người 3 mất 2 tiếng
Vậy người thứ 1 dệt vải đúng với thời gian quy định mà xã hội cần thiết còn người thứ 2
và 3 là người sát với thời gian lao động cá biệt .
Cho nên để sản xuất hàng hóa mọi cơng ty phải tìm mọi cách để giảm giá trị cá biệt hàng
hóa xuống thắp hơn hoặc bằng giá trị hàng hóa xã hội cần thiết thì càng tốt.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một
trình độ thành thạo trung bình và một cường độ thành thạo trung bình.
+ Định nghĩa lượng giá trị của hàng hóa: là thời gian lao động xã hội cần thiết của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:


17

- Lượng giá trị của hàng hóa chịu tác động của ba nhân tố đó là : Năng suất lao
động, Cường độ lao động và Mức độ phức tạp của lao động
+ Năng suất lao động : là năng lực SX của người lao động, được đo bởi số lượng của sản
phẩm SX ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc thời gian để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm. Khi
năng suất tăng thì số lượng sản phẩm làm ra trong một thời gian sẽ tăng khi đó giá cả
hàng hóa sẽ rẻ hơn và ngược lại khi năng suất giảm thì số lượng sản phẩm làm ra trong
một thời gian sẽ giảm khi đó giá cả hàng hóa sẽ đắt hơn . Như vậy lượng giá trị của một
đơn vị hàng hóa biến đổi ngược chiều với năng suất lao động. Giá trị của hàng hóa tỷ lệ
nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:



Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người cơng nhân



Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ



Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất



Trình độ tổ chức quản lý



Quy mơ và hiệu suất của tư liệu sản xuất



Các điều kiện tự nhiên.

+Cường độ lao động: Cường độ lao động là mức độ khẩn trương lao động , mật độ
hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Khi cường độ lao động tăng lên thì số
lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên nhưng hao phí lao động trừu tượng cũng tăng lên. Do
đó , lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm ko giảm. Tăng cường độ lao động có ý nghĩa đối
với những cơng việc có tính chất mùa vụ, cần sự khẩn trương hoặc khi trình độ sx chưa
tăng lên nhưng cần tăng sản lượng trong thời gian ngắn.
+Mức độ phức tạp của lao động : Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định
đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động

thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động có sức khỏe bình thường
nào khơng cần phải trải qua đào tạo tích lũy kinh nghiệm nhiều cũng có thể thực hiện
được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành chuyen mơn
lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản
đơn. . Thị trường sẽ quyết định tỷ lệ trao đổi giữa đơn vị hàng hóa do lao động phức tạp
sx với đơn vị hàng hóa do lao động giản đơn sx ra.
2. Liên hệ thực tiễn năng suất lao động nước ta hiện nay
a.Thành tựu đạt được về năng suất lao động nước ta hiện nay:


18

- Những năm qua, NSLĐ của Việt Nam liên tục gia tăng, đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Điển hình như, năm 2017, NSLĐ đóng góp khoảng
89% tăng trưởng GDP, cao hơn so với mức 66,3% giai đoạn 1990-2000 và 61,9% giai
đoạn 2000-2012. Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ toàn nền kinh tế theo
giá hiện hành năm 2017 ước đạt 93,2 triệu đồng/lao động.
- Tính theo giá so sánh năm 2010, NSLĐ toàn nền kinh tế năm 2017 tăng 6% so với năm
2016, bình quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm. Tính chung giai đoạn 10 năm 20072016, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 của Việt Nam tăng trung bình
4,2%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của Singgapore (1,5%/năm); Malaysia
(1,9%/năm); Thái Lan (2,5%/năm); Indonesia (3,5%/năm); Philippines (2,8%/năm).
- Theo Tổng cục Thống kê, NSLĐ của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể
theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực
ASEAN nhưng năng suất của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với nhiều nước trong khu
vực.
- Tính theo mức tương đương năm 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD,
chỉ bằng 7,0% mức năng suất của Singgapore; bằng 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái

Lan; bằng 42,3% của Indonesia, bằng 56,7% của Philippines. Đáng chú ý là chênh lệch về
NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng.
- Năm 2019, NSLĐ của Việt Nam đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4,791
USD/lao động, tăng 272 USD so với năm 2018). Theo sức mua tương đương (PPP) 2011,
NSLĐ Việt Nam năm 2019 đạt 11.757 USD, tăng 1.766 USD; tăng 6,2% so với năm 2018,
là năm có mức tăng NSLĐ cao nhất trong giai đoạn 2016-2019.
b. Hạn chế về năng suất lao động nước ta hiện nay:
- Người lao động Việt chỉ đảm nhận các công đoạn hoàn thiện theo mẫu. Lực lượng
lao động Việt Nam đông nhưng chỉ đảm bảo nhận được các công việc gia cơng, khơng tạo
ra sản phẩm có thương hiệu để cung ứng cho thị trường. Ngoài ra, Việt Nam vẫn coi nguồn
lao động giá rẻ là lợi thế của nền kinh tế khiến rất khó nâng cao NSLĐ. Bên cạnh đó, trong
cộng đồng DN Việt Nam hiện nay có đến trên 90% là DN nhỏ và vừa, công nghệ sản xuất
thấp và trung bình chiếm tỷ lệ quá cao.
- DN Việt Nam chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các DN nội địa
hầu như chưa kết nối được vào chuỗi giá trị tồn cầu của các cơng ty, tập đoàn xuyên quốc
gia lớn nên chưa tận dụng được tính lan toả của tri thức, cơng nghệ và NSLĐ từ các cơng
ty, tập đồn xun quốc gia vào DN trong nước; những DN tham gia xuất, nhập khẩu có
NSLĐ cao hơn 35% so với DN khơng có hoạt động này. Ngồi ra, q trình cổ phần
DNNN cịn chưa được như mong muốn, việc phân bổ nguồn lực của các DNNN còn hạn
chế.
- Mặt khác, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, 40% lao động còn làm việc trong lĩnh
vực nơng nghiệp, 60% lao động cịn làm việc trong khu vực phi kết cấu. Do vậy, nhiệm vụ
đầu tiên để cải thiện và nâng cao NSLĐ là chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các
khu vực khác và chính thức hóa việc làm khu vực phi kết cấu.
- Trong nội bộ từng khu vực công nghiệp, dịch vụ cũng như nông nghiệp, việc chuyển dịch
từ các ngành tạo ra giá trị gia tăng thấp sang các ngành tạo ra giá trị gia tăng cao cũng góp
phần quan trọng cải thiện và nâng cao NSLĐ.
- Chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động còn thấp, trình độ tổ chức, quản lý và
hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập; năng lực quản lý, quản trị DN còn hạn
chế; còn một số “điểm nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính.Cơ cấu lao động



19

theo trình độ đào tạo cịn bất hợp lý, thiếu hụt nhân lực là kỹ sư thực hành, công nhân kỹ
thuật bậc cao. Kết nối cung cầu trên thị trường lao động cịn nhiều bất cập.
- Tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc khơng phù hợp giữa cơng việc và trình
độ đào tạo cịn khá phổ biến. Việc khai thác, sử dụng lao động đã làm việc và học tập ở
nước ngồi trở về nước cịn nhiều hạn chế; Ý thức chấp hành kỷ luật lao động khơng cao;
lao động thiếu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Đây chính là rào cản lớn cho
việc cải thiện NSLĐ.
c. Giải pháp nhằm tăng năng suất lao động nước ta hiện nay:
- Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện và mơi trường kinh doanh
thuận lợi nhất cho DN. Theo đó, cần tập trung tiếp tục sử dụng chuẩn mực toàn cầu và
thực tiễn quốc tế tốt của kinh tế thị trường hiện đại trong thiết kế, giám sát và đo lường kết
quả của cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh.Các giải pháp cải cách thế chế,
cải thiện môi trường kinh doanh, cần hướng đến phát triển các loại thị trường, đảm bảo
cạnh tranh công bằng và tăng mức độ cạnh tranh thị trường nhằm tăng hiệu quả kỹ thuật,
hiệu quả phân bố và hiệu quả động năng, là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế;
Đồng thời, làm cho hoạt động kinh doanh tự do hơn, thuận lợi hơn, an toàn hơn, rủi ro
giảm và chi phí giảm...; Tăng lợi nhuận cho nhà đầu tư và DN.
- Hai là, đổi mới vai trò, chức năng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ trên
tinh thần Chính phủ kiến tạo, trong đó, nhấn mạnh vai trị kiến tạo để tăng năng suất,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, giúp nền kinh tế vượt qua bẫy thu nhập trung bình.Theo
đó, cần cải cách bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ điện tử, nâng
cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Vai trị kiến tạo phải được thể hiện rõ hơn và hiệu
quả hơn ở các khía cạnh phát huy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của DN, phát
triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác cơ hội
của Cách mạng công nghiệp 4.0.
- Ba là, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực do Nhà nước phân

bổ hoặc tham gia phân bổ như đầu tư công, đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước. Trong đó,
tập trung đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư cơng, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tham
nhũng, lãng phí, nợ đọng xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư cơng; đẩy mạnh cổ
phần hóa, thối vốn đầu tư nhà nước, cải cách quản trị đối với DNNN; đẩy mạnh sắp xếp,
cơ cấu lại, giao quyền tự chủ đầy đủ đi đôi với giao trách nhiệm rõ ràng cho các tổ chức,
đơn vị sự nghiệp công lập...
- Bốn là, tăng năng suất nội ngành, nâng cấp chuỗi giá trị trong phát triển ngành đối với cả
3 ngành, nơng nghiệp, cơng nghiệp và dịch vụ, từ đó thúc đẩy năng suất nội ngành. Các
chính sách cơng nghiệp cần phải được kết hợp, điều phối một cách chặt chẽ và đồng bộ để
có hiệu quả cao và đạt được mục tiêu cụ thể trong nâng cấp chuỗi giá trị của các ngành,
chú trọng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ,
thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng.
- Năm là, ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho tăng năng suất. Thực hiện
cơ cấu lại ngân sách nhà nước, trong đó tập trung quản lý nợ cơng theo hướng bảo đảm an
tồn, bền vững; Siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước; Củng cố và
phát triển hệ thống tài chính tín dụng lành mạnh, tập trung xử lý có hiệu quả các tổ chức
tín dụng yếu kém, tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu của nền
kinh tế căn bản và triệt để, phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn; Điều hành chủ


20

động, linh hoạt và phối hợp tốt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách
khác, nhất là chính sách điều chỉnh các loại giá, phí do Nhà nước quản lý.
- Sáu là, khuyến khích cộng đồng DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa đổi mới, sáng tạo, hỗ
trợ chuyển dịch cơ cấu từ các hoạt động có giá trị gia tăng thấp sang các hoạt động có giá
trị gia tăng cao bằng cách tăng cường nguồn vốn con người và tăng chi tiêu cho nghiên
cứu và phát triển; Khuyến khích DN đầu tư cho khoa học và công nghệ là yếu tố quan
trọng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm…
Câu 6. Phân tích quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư? Biểu hiện của quy

luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa
tư bản? (5 điểm)
*Phân tích quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư
+Phân tích quy luật giá trị
Khái niệm quy luật giá trị: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Quy luật giá trị yêu cầu: sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ
sở giá trị của nó tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Nội dung quy luật giá trị
Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao
động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy
họ mới có thể tồn tại được.
Trong trao đổi (hay lưu thông), quy luật giá trị yêu cầu phải thực hiện theo nguyên
tắc ngang giá. Hai hàng hóa trao đổi được với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động
như nhau, hoặc trao đổi, mua bán thì giá cả hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó.
Phân tích cơ chế tác động của quy luật giá trị.
Biểu hiện của quy luật giá trị: Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi
phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động lên hay xuống của
giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Chính sự lên xuống của
giá cả thị trường xoay quanh giá trị hàng hóa đã trở thành cơ chế tác động của quy luật giá
trị. Cơ chế này phát sinh tác động trên thị trường thông qua cạnh tranh cung-cầu, sức mua
của đồng tiền…
Cơ chế vận hành của quy luật giá trị: Nếu sức mua của đồng tiền không thay đổi. Khi
cung = cầu, giá cả thị trường sẽ tương đồng với giá trị; khi cung > cầu, giá cả < giá trị;
ngược lại khi cung< cầu, giá cả sẽ >giá trị. Nếu xét trên phạm vi xã hội thì tổng giá cả sẽ
=tổng giá trị.
Phân tích tác dụng của quy luật giá trị.
Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa: Quy luật giá trị tự động điều tiết sản xuất
thể hiện ở chỗ thu hút vốn đầu (tư liệu sản xuất và sức lao động) vào các ngành sản xuất
khác nhau ( theo sự biến động cung, cầu, giá cả) nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Tác động
điều tiết lưu thơng hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ, nó thu hút hàng hóa từ nơi



21

có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng
có sự cân bằng nhất định.
Kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động: Các hàng hóa được sản xuất ra trong
những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên
thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần
thiết(theo giá trị xã hội của nó). Vậy người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động
thấp hơn mức hao phí lao động của xã hội, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng
lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm…nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi
phí sản xuất.
Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo: Những người sản xuất
hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần
thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị)sẽ thu được
nhiều lãi, mở rộng sản xuất kinh doanh đến mức trở thành ông chủ sử dụng lao động làm
thuê. Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản, trở thành
người phải bán sức lao động làm thuê.
+ Quy luật giá trị thặng dư.
Khái niệm: Quy luật GTTD là quy luật kinh tế cơ bản trong xã hội tư bản, nó quy
định sự phát sinh, phát triển và lũng đoạn của xã hội tư bản.
Nội dung: Bảo đảm ngày càng sản xuất ra nhiều GTTD cho chủ tư bản bằng cách mở
rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật và bóc lột lao động làm thuê.
Tác dụng:
Thứ nhất: Tạo ra mâu thuẫn không thể xoa dịu trong lòng xã hội tư bản.
Mâu thuẫn giữa các nhà tư bản (do cạnh tranh).
Mâu thuẫn giữa công nhân với chủ tư bản (do bóc lột).

Thứ hai: Tạo nên sự năng động trong nền kinh tế, nâng cao sức sản xuất, phát triển
lực lượng sản xuất làm xuất hiện phương thức sản xuất mới thay thế cho PTSX TBCN,
dẫn đến sự diệt vong không thể tránh khỏi của CNTB.
*Biểu hiện của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản.
Biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
+ Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh trong nội bộ ngành quy luật giá
trị biểu hiện thành quy luật giá trị thị trường, trong cạnh tranh giữa các ngành quy luật giá
trị biểu hiện thành quy luật giả cả sản xuất
+ Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư
bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó khơng vượt
ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những


22

xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hố nói chung, làm cho
các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hố và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện
mới. Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc
quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó
khơng có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị khơng cịn
hoạt động.Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn khơng thốt ly và khơng phủ định cơ sở của
nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là
chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong
toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị.
Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị
biểu hiện thành quy luật giả cả sản xuất, thì trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
- Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa
tư bản

+ Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu
hiệu thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
+ Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền
kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do dó quy luật lợi
nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản độc quyền.
+ Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là: lao động không công của công nhân ở
các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động khơng cơng của nhân cơng ở các xí nghiệp
khơng độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất di do
thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất
yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước
thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị thặng dư biểu
hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này phản ánh quan hệ thống trị và
bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn
thế giới.


23

Câu 7. Tại sao nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam là một tất yếu lịch sử? (5 điểm)
Khái niệm thời kỳ quá độ: Là thời kỳ lịch sử đặc biệt trong đó kết cấu kinh tế
chính trị vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần vừa bao hàm những
yếu tố của xã hội mới vừa ra đời chưa giành được toàn thắng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một
tất yếu lịch sử.
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế
giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn những luận
điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ

TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề lý luận căn bản đã được C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lê-nin đề cập một cách sâu sắc trong các tác phẩm của mình. Mác khẳng
định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ
chính trị. Như thế, thời kỳ quá độ thường được hiểu là thời kỳ chuyển biến từ trạng thái xã
hội cũ sang trạng thái xã hội mới.
Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử của
cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể
hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập
Đảng (năm 1930), Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ hai, sau khi hịa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm 1960), Đảng
ta khẳng định “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng định:
Thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta xác định, dù chúng ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc, dù xuất
phát điểm của chúng ta là nền kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song con đường
của cách mạng Việt Nam vào thời điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Thứ ba, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan rã,
phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định:


24


Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến
tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế
lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân
tộc của nhân dân ta... Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như
trên, chúng ta phải nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí
tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tịi bước đi, hình thức và
biện pháp thích hợp xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình cách
mạng Việt Nam hơn 85 năm qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời
điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán lý tưởng xã hội chủ
nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất cứ hoàn cảnh lịch
sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam ln nhất qn, khơng dao động, ln kiên trì đường lối
xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hồn thiện cho
phù hợp tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của thời đại. Thật vậy,
với Chánh cương văn tắt (năm 1930) Đảng ta mới chỉ vạch ra một cách chung chung con
đường để đưa đất nước đi tới xã hội cộng sản; tại Đại hội III (năm 1960), Đảng xác định
cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Giải phóng miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đảng ta khẳng định: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội; Đến Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta xác định đưa cả nước tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nhưng đến Đại hội VI (năm
1986), Đảng ta khẳng định: Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ
quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn.

Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ
sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua
(Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh 1991,
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011), lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có một bước hồn
thiện mới với sự khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, có thể nhận thấy rằng:


25

Thứ nhất, Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là kiên định nhưng ngày càng
được Đảng ta nhận thức sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn.
Thứ hai, Có sự điều chỉnh và hồn thiện căn bản con đường đi lên chủ nghĩa xã hội:
Từ làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, đến
quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và hiện nay là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Rõ ràng, giai đoạn tư bản
chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khác nhau.
Thứ ba, Hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến
vững chắc”, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) đến có một “thời kỳ quá
độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” với các “bước đi”, “chặng đường” phù hợp và với

thời gian “lâu dài”.
Thứ tư, Với sự giúp đỡ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn và là đối tác tin
cậy” của tất cả các nước nhằm phát huy và khai thác, tận dụng các cơ hội, lực lượng và
nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội...
Như vậy, có thể khẳng định, mặc dù kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng
về mặt nhận thức và lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù nhất quán mục tiêu nhưng đã có sự thay đổi hết
sức căn bản. Sự thay đổi này vừa là sự đổi mới nhận thức về lý luận xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vừa là thành quả tất yếu của sự tác động tích cực của thời đại. Những thành tựu to
lớn về kinh tế - xã hội của hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định sự đúng
đắn, tính kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
đồng thời, cũng khẳng định những thành quả bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời đại ngày nay./.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×