Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Luận văn thạc sĩ chính trị học-sự tham gia chính trị của phụ nữ các tộc người thiểu số ở tây nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.04 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề bình đẳng giới và tham gia chính trị của phụ nữ ln được coi là vấn
đề có tính chiến lược trong đời sống xã hội toàn cầu. Nhiều hội nghị quốc tế về phụ
nữ và bình đẳng giới được tổ chức. Nhiều tuyên bố, công ước quốc tế… được ban
hành là những bằng chứng thể hiện sự thừa nhận vị thế, vai trò của người phụ nữ
đối với sự phát triển, tiến bộ xã hội. Nhiều quốc gia trên thế giới đã coi: “giải phóng
phụ nữ là thước đo sự tiến bộ xã hội” và được xác định trong trong cương lĩnh, văn
kiện, chiến lược phát triển của các đảng chính trị, luật pháp của các quốc gia. Tuy
nhiên để thực hiện được nội dung đó trong thực tế cịn phụ thuộc rất nhiều yếu tố:
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội của mỗi một quốc gia ở những giai đoạn cụ thể.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Tây Nguyên
đã khắc phục khó khăn vươn lên đạt được nhiều thành tựu quan trọng: tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá, kết cấu hạ tầng từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
của nhân dân; y tế, giáo dục, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các tộc người
thiểu số được cải thiện; an ninh trật tự được giữ vững; sự tham gia của các tộc
người thiểu số vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng tăng
lên… Đạt được những thành tựu trên, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước,
phải kể đến sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc Tây nguyên, trong đó có
sự đóng góp của lực lượng phụ nữ các tộc người thiểu số.
Với gần 1/5 dân số tồn khu vực và ½ cư dân trong các tộc người thiểu số ở Tây
Nguyên, phụ nữ các tộc người thiểu số là một lực lượng quan trọng, không thể thiếu trong
quá trình phát triển kinh tế- xã hội của vùng đất này. Việc phụ nữ các tộc người thiểu số
tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội chính là góp phần xây
dựng địa bàn Tây Nguyên ổn định và phát triển bền vững. Theo các nhà nghiên cứu,
“Sự tham gia chính trị theo nghĩa rộng nhất của nó là hướng tới xã hội, tính chất xã
hội và các quan hệ xã hội của con người”[1]. Do đó, nó rất cần tới sự có mặt, sự


2



tham gia của giới nữ, trước hết là sự cân bằng giới như một sự cân bằng tâm lý, sau
nữa nó bổ sung cho nhau trong cơ cấu giới, tạo ra sự hài hòa trong phát triển. Nâng
cao vai trò, vị trí của người phụ nữ trong việc tham gia các hoạt động chính trị,
tham gia bộ máy lãnh đạo, ra quyết định, tư vấn… chính là xây dựng một trong
những cơ sở nền tảng của một xã hội ổn định và phát triển bền vững. Điều này còn
thể hiện sự hợp lý hoá trong sử dụng sức lao động xã hội, huy động tối đa mọi tài
năng cống hiến cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng tham gia chính trị của phụ nữ các tộc người
thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, chúng ta thấy vẫn còn một số vấn đề đặt ra là: tỷ lệ
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cịn thấp, nguồn kế cận chưa
dồi dào, thiếu bền vững; trình độ học vấn, chuyên mơn, lý luận chính trị chưa đáp
ứng được u cầu nhiệm vụ. Việc phụ nữ các tộc người thiểu số tham gia thực hiện
Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở và tham gia giám sát hoạt động của chính quyền cịn hạn
chế. Q trình trưởng thành của chị em phải giải quyết nhiều trở ngại như: thiên
chức làm vợ, làm mẹ, ảnh hưởng của những đặc điểm về giới, về phong tục tập
qn. Ngồi ra, kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp, tâm lý tự ti, thụ động và
phải đảm nhiệm phần lớn công việc nội trợ trong gia đình đã ảnh hưởng đến sự
tham gia hoạt động xã hội của phụ nữ các tộc người thiểu số. Những vấn đề này vừa
cho thấy vai trò quan trọng của người phụ nữ nhưng cũng cho thấy những hạn chế
bất cập của họ khi vừa phải làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ vừa phải
làm tròn trách nhiệm của người cơng dân.
Vì vậy, việc đề ra phương hướng và xây dựng các giải pháp nhằm tăng khả
năng và mức độ tham gia của phụ nữ các tộc người thiểu số vào hoạt động chính trị
ở khu vực Tây Nguyên, huy động tối đa mọi tiềm năng của họ đóng góp cho q
trình phát triển kinh tế- xã hội là cần thiết. Đâycũng chính là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và
thực hiện chính sách bình đẳng giữa các tộc người. Xuất phát từ thực tế của địa
phương, tôi lựa chọn đề tài: Sự tham gia chính trị của phụ nữ các tộc người thiểu
số ở Tây Nguyên hiện nay làm luận văn thạc sỹ.



3

2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt nam, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về phụ nữ, về gia đình, về các
tộc người thiểu số ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tuy nhiên, các cơng trình nghiên
cứu được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập
đến vai trò giới trên các lĩnh vực khác nhau, cụ thể:
- Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa - chủ biên (1998): Phát triển kinh tế - xã hội
các vùng dân tộc và miền núi theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia. Cơng trình đã phân tích đặc điểm kinh tế, xã hội vùng dân tộc
thiểu số, từ đó đưa ra định hướng chung cho quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, cơng trình chưa khai thác những đặc điểm về dân cư, tộc người, nguồn lực
lao động, trong đó có nguồn lực nữ.
- Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (2001), Nxb Chính trị quốc gia.
Đây là cơng trình lớn của nhiều nhà khoa học, nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
viết về quá trình phát triển các dân tộc thiểu số trong một thế kỷ qua. Có một số
chuyên luận đã nói về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... Tuy nhiên, chưa có
chun luận nào đi sâu phân tích sự tham gia của phụ nữ các dân tộc thiểu số vào
hoạt động chính trị, xã hội ở Tây Nguyên.
- Ủy ban Dân tộc và miền núi (2002): Miền núi Việt Nam, thành tựu và phát
triển những năm đổi mới, Nxb Nông nghiệp. Đây là cơng trình tổng kết q trình
đổi mới, phát triển của miền núi, và đánh giá những thành tựu, hạn chế của q
trình đó, đồng thời nêu quan điểm định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và
vùng dân tộc thiểu số. Đặc biệt, cơng trình đã đề cập đến vấn đề nghèo đói và sự tác
động của nó đến các nhóm cư dân khác nhau, trong đó, phụ nữ, trẻ em là nhóm xã
hội bị tác động lớn nhất, từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ cho nhóm này.
- Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002): Vấn đề dân tộc và
định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Nxb Chính trị quốc gia. Cuốn sách bao gồm những chuyên đề được trình bày
tại cuộc hội thảo lớn đề cập đến nhiều vấn đề kinh tế- xã hội và chính sách dân tộc.


4

- Hà Quế Lâm (2002): Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia: xuất phát từ những số liệu điều tra xã hội học,
những cứ liệu được đánh giá qua các cuộc hội thảo và báo cáo chuyên đề về cơng
tác xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số, cơng trình nêu lên những
thành tựu và khó khăn của cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo và đề ra hướng phát huy
sức mạnh nguồn lực tại chỗ, nội lực của đồng bào các tộc người thiếu số.
- Nguyễn Quốc Phẩm: Các dân tộc Việt Nam trên con đường cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Kỷ yếu hội thảo của Viện Dân tộc (2003). Trong chuyên luận có
bàn đến cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn các vùng dân tộc
thiểu số miền núi. Tuy nhiên, chuyên luận chưa đi sâu khai thác nội lực, nguồn lực
lao động của các nhóm xã hội.
- Phạm Hảo (chủ biên): “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở
Tây Ngun hiện nay”, là cơng trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về ổn định
chính trị, những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần giữ
vững ổn định chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Quốc Phẩm: “Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến
phát triển bền vững các vùng dân tộc thiểu số miền núi ở Việt Nam”. Kỷ yếu khoa học cấp
bộ của Viện Dân tộc học và Ủy ban Dân tộc (2003). Tham luận nêu và lý giải những điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, dân cư, tộc người đối với quá trình phát triển bền vững vùng
dân tộc thiểu số miền núi nước ta.
- Nguyễn Đức Hạt: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ trong hệ thống
chính trị”, Nxb Chính trị quốc gia (2009). Cuốn sách góp phần làm sáng tỏ luận cứ
khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trị, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ,

tăng cường sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống bộ máy của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức đồn thể ở nước ta trong tình hình mới.
- Đề tài cấp cơ sở (2009), Viện Chính trị học, Học viện Chính trị- Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh: “Sự tham gia của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
trong đời sống chính trị- xã hội”. Đề tài nghiên cứu những bất cập của Hội Liên


5

hiệp phụ nữ Việt Nam trong sự tham gia đời sống chính trị- xã hội. Đồng thời, làm
rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Hội phụ nữ đối với việc nâng cao năng lực cũng
như cơ hội bình đẳng cho phụ nữ tham gia vào đời sống chính trị của đất nước trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Với đối tượng phụ nữ, trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu với nhiều góc độ khác nhau đề cập đến vai trị của phụ nữ trong gia đình, trong
xã hội và tác động của các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với cơng tác dân số,
gia đình, phụ nữ... Sau đây là một số đề tài, bài viết của một số tác giả như: luận văn
Thạc sỹ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Thị Bích Truyền về “Bình
đẳng giới trong hệ thống chính trị ở Tây Ninh hiện nay”; bài viết về “Bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, xã hội” của Trần Thị Quốc Khánh; “Bình
đẳng giới trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống
chính trị” của Võ Thị Mai; “Quan tâm hơn nữa việc thực hiện bình đẳng giới, tạo
điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, xã hội” của Hà Thị
Khiết. Ngồi ra cịn nhiều cơng trình của các cán bộ Trung tâm nghiên cứu Khoa
học về gia đình và phụ nữ là các tư liệu phong phú, phản ánh nhiều khía cạnh khác
nhau liên quan đến vai trò của phụ nữ, phụ nữ trong phát triển. Tiêu biểu là đề tài:
“Vai trị gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam”, do tác giả Lê Thi làm chủ nhiệm; Báo cáo của Ngân hàng thế giới về Đưa
vấn đề giới vào phát triển”(2001); Báo cáo tổng kết 5 năm triển khai kế hoạch
hành động thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2005-2010

của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các tỉnh Tây Nguyên, Bình đẳng giới trong công tác
cán bộ của tác giả Nguyễn Văn H; Bình đẳng giới trong thực hiện chính sách
giáo dục của Đinh Thị Minh Tuyết… Đó là những cơng trình nghiên cứu hệ thống
và là tư liệu tham khảo quý cho luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng
tham gia hoạt động chính trị của phụ nữ các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, luận
văn đề xuất phương hướng và một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy sự


6

tham gia của lực lượng này trong hoạt động chính trị trên địa bàn Tây Nguyên trong
điều kiện hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về tham gia chính trị và tham gia
chính trị của phụ nữ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của phụ nữ các tộc người thiểu số ở
Tây Nguyên vào các hoạt động chính trị ở vùng đất này.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy khả năng
tham gia của phụ nữ các tộc người thiểu số vào hoạt động chính trị, thực hiện bình
đẳng giới trong q trình phát triển kinh tế- xã hội, góp phần đẩy nhanh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Tây Ngun.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: các lý thuyết về tham gia chính trị, tham gia chính trị
của phụ nữ và sự tham gia chính trị của phụ nữ các tộc người thiểu số ở Tây
Nguyên.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu phụ nữ các dân tộc thiểu số trên
địa bàn Tây Nguyên- Việt Nam (5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông,
Lâm Đồng).

Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2000 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác- Lênin làm cơ sở phương pháp luận.
- Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp: Lơgíc lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,...
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Từ góc độ Chính trị học, luận văn kết hợp chặt chẽ quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam với phương pháp tiếp cận giới, từ đó làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về giải


7

phóng phụ nữ, quyền tham gia của phụ nữ, đồng thời tạo điều kiện để họ phát huy vai
trò của mình trong lĩnh vực chính trị, nhất là nhóm phụ nữ các tộc người thiểu số.
- Phân tích thực trạng tham gia chính trị của phụ nữ các tộc người thiểu số ở
Tây Nguyên, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
tính chủ động và tham gia ngày càng nhiều hơn của chị em trong lĩnh vực chính trị.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy lý luận chính trị, giảng dạy về giới trong các trường đào tạo cán bộ nữ và phục
vụ cho công tác vận động phụ nữ của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam...
7. Kết cấu của luận văn: ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo,
luận văn chia làm 3 chương, 8 tiết.


8

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CHÍNH TRỊ
CỦA PHỤ NỮ


1.1. Khái niệm tham gia chính trị và tham gia chính trị của phụ nữ
1.1.1. Khái niệm “tham gia chính trị”
Khi xuất hiện giai cấp, chính đảng và nhà nước, xã hội mang đặc trưng của
một xã hội chính trị. Trong đời sống xã hội bắt đầu xuất hiện một lĩnh vực đặc thù là
hoạt động chính trị và đời sống chính trị. Tham gia vào hoạt động đó, xét về mặt
hành vi, đó là sự tham chính với rất nhiều hình thức biểu hiện và mức độ khác nhau.
Con người không chỉ hiện diện với tư cách là con người xã hội (nói chung),
con người kinh tế- đảm bảo, đáp ứng nhu cầu sinh tồn phải tham gia hoạt động sản
xuất (gắn với lao động sản xuất, kinh tế, kinh doanh để thực hiện lợi ích vật chất),
mặt khác còn là một con người chính trị (thực hiện quyền tham gia hoạt động chính
trị trong đời sống hiện thực). Biểu hiện phổ biến nhất của con người chính trị là
người cơng dân, đối diện với nhà nước và thể chế luật pháp, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tham gia bầu cử hoặc
trực tiếp ứng cử, tranh cử- đó là một hành vi chính trị, một hoạt động tham gia
chính trị trong đời sống chính trị.
Xét về con người cụ thể, lại có những cá nhân hoặc một tầng lớp hoạt động
chính trị chuyên nghiệp, có vị thế xã hội và có chức vụ, danh vị trong hệ thống tổ
chức quyền lực, từ các chính khách, nghị sĩ (đại biểu Quốc hội), đến thủ lĩnh chính
trị (các đảng và các tổ chức đồn thể chính trị). Các nhà hoạt động chính trị - xã hội
đó tập hợp thành chính giới.
Tham gia chính trị khơng đồng nhất chỉ với giành quyền lực, nắm giữ quyền
lực bởi những người quyền thế, có chức vụ địa vị. Đó mới chỉ là một phương diện
hẹp, dù rất quan trọng, phương diện mang sắc thái cá thể của con người chính trị.


9

Thuật ngữ tham gia chính trị nói chung chỉ những hoạt động tự nguyện của
các thành viên của một xã hội tác động đến quá trình hình thành các luật lệ và chính

sách cơng. Quyền tham gia là một khía cạnh quan trọng của nhà nước dân chủ và là
một loại quyền vốn có trong các q trình dân chủ. Tham gia chính trị là một thuật
ngữ được sử dụng để chỉ các hoạt động của con người ở tất cả các cấp độ của hệ
thống chính trị. Tham gia chính trị được định nghĩa theo cách này bao hàm sự thực
thi quyền lực trong lĩnh vực nhà nước và cả lĩnh vực phi nhà nước. Sự tham gia có
thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh là mức độ và phạm vi. Mức độ một cá nhân can
dự vào vấn để chính trị như thế nào và phạm vi nào tham gia để đạt mục tiêu. Phạm
vi tham gia chính trị thường tăng lên vì bản chất phức hợp của hoạt động chính trị
địi hỏi sự tham gia vào các vấn đề khác nhau, từ các cuộc bỏ phiếu đến tham gia
vào các ủy ban chun mơn có tính kỹ thuật hoặc trở thành một bộ trưởng.
Tham gia chính trị có thể được định nghĩa là những hoạt động của các công
dân với tư cách cá nhân mà nhờ đó họ tìm cách tác động hoặc ủng hộ chính phủ và
chính trị.1 Định nghĩa này rộng hơn hầu hết các định nghĩa khác. Vì nó bao gồm
khơng chỉ vai trò hoạt động mà con người theo đuổi nhằm ảnh hưởng tới các kết
quả chính trị mà cịn cả các hoạt động ủng hộ và các hoạt động có tính nghi thức.
Theo Almond và Powel, “Tham gia chính trị là sự can dự của các thành viên của
một xã hội vào q trình hoạch định chính sách của một hệ thống.2
Tham gia chính trị là một thành phần căn bản của tất cả các hệ thống chính
trị. Sự tham gia giúp cho các cá nhân hoạt động có hiệu quả và gắn kết họ với hệ
thống chính trị. Tỷ lệ và mức độ tham gia càng cao, càng có nhiều hình thức tham
gia chính trị. Sách bách khoa quốc tế về khoa học xã hội (International
Encyclopaedia of Social Sciences) định nghĩa tham gia chính trị là những cách thức
căn bản nhờ đó đạt được sự đồng thuận trong một nền dân chủ, và những người cai

1

10 Lester W. Mibrath, M.L. Goel, Political Participation: How and Why Do People Get Involved in
Politics (Tham gia chính trị, như thế nào và tại sao con người lại tham gia chính trị), Rand Mcnally, Chicago,
1977, p2.
2


G.A. Almond, G.B. Powell Jr, Comparative Politics: A Developmental Approach (Chính trị học
so sánh, cách tiếp cận phát triển), Amerind Publishing Company, New Delhi, 1975, p.98.


10

trị phải có trách nhiệm giải trình với những người bị trị. 3 Sự tham gia thể hiện ở các
quá trình như bỏ phiếu, tìm kiếm thơng tin, thảo luận và hình thành niềm tin, tham
dự các buổi hội họp, đóng góp tài chính và quan hệ với các đại diện nhà nước.
Các nghiên cứu về tham gia chính trị đều thống nhất cao rằng, tham gia
chính trị của cơng dân là dấu hiệu phân biệt các nhà nước hiện đại. Các nhà nước
hiện đại được phân biệt với các nhà nước truyền thống bởi mức độ người dân tham
gia vào chính trị. Mức độ tham gia chính trị cao thường gắn với dân chủ, nó mang
lại lợi ích cho cả các cá nhân và cho xã hội. Tham gia chính trị được coi là điều kiện
thiết yếu của dân chủ.
Các nghiên cứu cũng chi ra rằng tất cả các công dân không tham gia một
cách như nhau hoặc theo cùng một cách và các q trình chính trị. Văn hóa chính trị
của một xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính chất tham gia chính trị của các cá
nhân. Mục đích thực sự và tác động của tham gia chính trị là làm cho cơng dân
khơng phải là khán giả thụ động mà là một tác nhân trong chính trị, cho phép công
dân thể hiện sự bất đồng của mình, sự xem xét, phê phán và ngăn chặn hoặc ủng hộ,
thúc đẩy các đề xuất, chính sách của chính phủ.
Các phương thức tham gia chính trị
Các cơng dân có thể tham gia một cách khác nhau và theo những cách khác
nhau để tác động đến nhà nước và hệ thống chính trị. Tuy nhiên những cách thức
tham gia chính trị khác nhau này phụ thuộc vào các công dân những người tham gia
theo những cách mà họ hành động, các áp lực mà họ có thể gây sức ép và sự phản
ứng có tính chất hệ thống đối với các hoạt động của họ. Verba và Nie đã nhóm
thành bốn loại tham gia mà thông qua các hoạt động này các cơng dân có thể tham

gia vào đời sống chính trị. Ví dụ, bầu cử; hoạt động vận động tranh cử, các hoạt
động cùng hợp tác và mối quan hệ giữa công dân với các quan chức nhà nước.
Mibrath và Goel đề cập thêm cả sự phản đối và tiếp cận với những hoạt động đã
được đề cập ở trên, là những hoạt động gắn kết cá nhân với cộng động.

3

International Encyclopedia of Social Sciences Vol.12, New York, 1968, p 253


11

Xem xét các phương thức tham gia chính trị, Schonfiesl đã đề cập tới 10 hoạt
động bao gồm: ứng cử hoặc nắm giữ các vị trí cơ quan đảng và nhà nước; là thành
viên của một đảng hoặc các tổ chức chính trị khác; làm việc trong một cuộc bầu cử;
tham dự các cuộc họp chính trị hoặc các cuộc mít tinh; đóng góp tài chính cho đảng
hoặc ứng cử viên; liên lạc. tiếp xúc với các quan chức nhà nước; thể hiện quan điểm
chính trị một cách cơng khai để thuyết phục người khác; tham dự các cuộc tranh
luận chính trị; bỏ phiếu và thể hiện sự ủng hộ chính trị.
Như vậy, tham gia chính trị mang nội dung chính trị- xã hội rất rộng lớn với
nhiều chủ thể khác nhau (cá nhân, tập thể, cộng đồng, con người, tổ chức, bộ máy,
quan hệ chỉ huy - điều khiển, lãnh đạo, quản lý…). Tham gia chính trị vừa biểu hiện
là hoạt động và hành vi chính trị thực tiễn lại vừa bao hàm hoạt động nghiên cứu
khoa học, tổng kết thực tiễn chính trị, giáo dục- đào tạo, huấn luyện, tun truyềncổ động… Tham gia chính trị có mức độ, trình độ cao nhất là cầm quyền, thực thi
quyền, thực hiện vai trò, chức năng lãnh đạo- quản lý, bang giao chính trị, gắn với
con người có tên, tuổi, chức vụ, thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở.
Các yếu tố tác động tới tham gia chính trị
Tham gia chính trị là một hiện tượng phức tạp trong đời sống chính trị xã
hội. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tâm lý, kinh tế- xã hội và chính trị. Đây là
những yếu tố tạo nên xu hướng tham gia tích cực hay bị động cho các cá nhân. Các

nghiên cứu cũng chi ra rằng tất cả các công dân không tham gia một cách như nhau
hoặc theo cùng một cách vào các q trình chính trị. Văn hóa chính trị của một xã
hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính chất tham gia chính trị của các cá nhân.
Mơi trường tâm lý
Tham gia chính trị có xu hướng đáp ứng nhu cầu tâm lý của cá nhân muốn
thoát khỏi trạng thái cơ đơn. Nó thể hiện mức độ các cơng dân quan tâm đến chính
trị và các vấn đề cơng cộng. Sự gắn bó về mặt tâm lý của một người đối với các
mục tiêu chính trị chắc chắn quyết định mức độ và sự hấp dẫn của tham gia chính
trị.


12

Trong bất kỳ xã hội nào cũng có những người rất để ý và quan tâm đến
những vấn đề chính trị và cũng có những người khơng hề quan tâm tới những vấn
đề này. Sự khác nhau có thể là do sự khác nhau về thái độ tâm lý của họ. Trong tình
huống này, rõ ràng là những người quan tâm chắc chắn tích cực hơn trong đời sống
chính trị so với người khơng quan tâm. Nói chung người ta tin tưởng rằng, nam giới
về mặt tâm lý quan tâm tới chính trị nhiều hơn phụ nữ.
Mơi trường kinh tế - xã hội
Mơi trường kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới tham gia chính trị. Sự
khác nhau về mặt kinh tế - xã hội bao gồm giáo dục, nghề nghiệp, thu nhập, độ
tuổi, địa vị, tôn giáo, giới tính, nền tảng gia đình, nơi cư trú… Nói chung, sự tham
gia có xu hướng cao hơn đối với những người được giáo dục tốt hơn, các thành viên
của nhóm có thu nhập và nghề nghiệp cao hơn, trung niên, dân tộc thống trị và các
nhóm tơn giáo, những người có nền tảng gia đình là hoạt động chính trị, những
người định cư, người ở thành thị và các thành viên của các hiệp hội tự nguyện. 1 Tuy
nhiên mối liên quan giữa tham gia chính trị và một số yếu tố của kinh tế xã hội này
có thể khác nhau ở các nền văn hóa trong những bối cảnh chính trị khác nhau và tác
động của chúng đến tham gia chính trị có thể cũng có thể thay đổi.

Mơi trường chính trị
Mơi trường chính trị nói chung tác động tới tồn bộ tiến trình tham gia chính
trị ở mức độ lớn nhất. Mơi trường chính trị liên quan tới bản chất của hệ thống đảng
phái, hệ thống bầu cử, phương tiện truyền thông và vận đồng bầu cử, mức độ hiện
đại hóa và đơ thị hóa, sự tác động của hệ tư tưởng và nhận thức chung của người
dân…
Đảng chính trị là cơng cụ tiềm năng nhất trong việc vận động tham gia chính
trị. Đảng chính trị đại diện cho quốc gia cả về lực lượng tiêu biểu, tiên tiến và khả
năng lôi cuốn sự trung thành, hy sinh của một bộ phận đảng viên và sự đồng cảm
của xã hội. Đảng còn truyền cảm hứng cho các thành viên của nó phát triển tình
cảm của những người thân quen. Sự quan sát cho thấy rằng, những người là hội
1

Herbert Mc. Closky, "Political Participation", International Encyclopedia of Social Sciences, Vol.
12, Macmillan, New York, 1968, p. 253.


13

viên của một đảng bỏ phiếu thường xuyên hơn những người khơng phải là hội viên.
Các thành viên có mối liên kết với nhau mạnh mẽ cũng tích cực hơn trong các cuộc
tranh luận và hoạt động chính trị.
Tham gia chính trị là dấu hiệu của một nền dân chủ và hiện đại hóa. Ở các
xã hội truyền thống, nhà nước và chính trị được sự quan tâm của mình giới tinh hoa.
Mối quan hệ tích cực giữa cư dân đơ thị và mức độ tham gia chính trị cao. Đơ thị
hóa, kết hợp với các tiến trình khác của hiện đại hóa xã hội, sẽ ràng buộc người dân
với những mối quan hệ mới với nhà nước quốc gia và làm tăng mức độ giao tiếp
chính trị và đem lại nhận thức chính trị lớn hơn.
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cao rằng, tham gia chính trị của công dân
là dấu hiệu phân biệt các nhà nước hiện đại. Các nhà nước hiện đại được phân biệt

với các nhà nước truyền thống bởi mức độ người dân tham gia vào chính trị. Mức
độ tham gia chính trị cao thường gắn với dân chủ, nó mang lại lợi ích cho cả các cá
nhân và cho xã hội. Tham gia chính trị được coi là điều kiện thiết yếu của dân chủ.
Tham gia chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhận thức chính trị, những tri
thức thực sự về các vấn đề chính trị. Sự nhận thức được liên kết cao với lợi ích. Ở
tất cả các xã hội, số lượng các cơng dân được mơ tả là “có nhận thức” là cực kỳ ít.
Nhận thức ảnh hưởng tới cả chất lượng và số lượng tham gia.
Mục đích thực sự và tác động của tham gia chính trị là làm cho công dân
không phải là khán giả thụ động mà là một tác nhân trong chính trị, khiến cho anh
ta thể hiện sự bất đồng của mình, sự xem xét lại, chỉ trích và ngăn chặn cũng như
thúc đẩy các đề xuất hay sáng kiến của chính phủ. Trong một nền dân chủ, người
dân nên trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào q trình hoạch định chính sách, là q
trình mà sản phẩm của nó là cái sẽ ảnh hưởng đến họ hàng ngày trong cuộc sống.
1.1.2. Khái niệm “tham gia chính trị của phụ nữ”
Cùng với sự phát triển của xã hội, trong các nhà nướ dân chủ, phụ nữ được
xác định là công dân của một quốc gia có quyền bình đẳng như nam giới. Vì vậy,
Tham gia chính trị của phụ nữ có tính phổ biến đại chúng. Họ tham gia trực tiếp
vào đời sống chính trị của cộng đồng với tư cách là cơng dân bình đẳng tham gia ứng


14

cử, bầu cử, tổ chức ra các cơ quan quản lí nhà nước, tham gia với cương vị lãnh đạo,
quản lý, ra quyết định trong hệ thống các đảng chính trị, bộ máy nhà nước; tham gia
lãnh đạo các tổ chức đồn thể như phụ nữ, thanh niên, cơng đồn, hội nông dân, các
hội, hiệp hội và các tổ chức xã hội khác, hoặc gián tiếp như các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phịng...mà những hoạt động ấy phục vụ cho mục tiêu chính
trị. Với tư cách là công dân trong quan hệ với nhà nước, phụ nữ cũng tham gia vào các
hoạt động chính trị như giám sát, phê phán các hoạt động và các hành vi chính trị
của các cơ quan, quan chức nhà nước. Trên phương diện này, có một sự tương đồng

của giới Nữ- xét về nội dung tham gia chính trị so với giới Nam. Ví dụ: tư cách cử
tri và hành vi bầu cử, sự quan tâm và tham gia thảo luận chính trị, hoạt động chính
trị và đấu tranh chính trị (hội họp, mít tinh, biểu tình, khiếu nại, tố cáo, đề xuất,
kiến nghị với nhà chính trị cầm quyền, tổ chức thực thi quyền lực vì một nền chính
trị dân chủ pháp quyền)… Cũng như nam giới, phụ nữ tham gia chính trị tùy vào
hình thức, phương thức hoạt động, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp.
Hoạt động chính trị là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, của các
quan hệ con người. Nó rất cần tới sự có mặt, sự tham gia nhập cuộc của giới nữ,
trước hết, là sự cân bằng giới như một sự cân bằng tâm lý, sau nữa, nó bổ sung cho
nhau trong cơ cấu giới, tạo ra sự hài hịa trong phát triển. Chính điều đó, tự nó đã
khách quan hố vai trị của phụ nữ trong chính trị.
Mức độ và phạm vi tham gia chính trị của con người có thể bị hạn chế bởi sự
tồn tại của cả hai sự bất bình đẳng tự nhiên và sự bất bình đẳng do con người tạo ra.
Trong khi không thể vượt qua những yếu tố tự nhiên của sự bất bình đẳng, thì việc
khắc phục sự bất bình đẳng do con người tạo ra là có thể đơn giản bằng cách áp
dụng và tuân thủ các nguyên tắc và giá trị của dân chủ.
Đối vói Mác, tham gia chính trị của người dân là một q trình giáo dục và
xây dựng khả năng cho việc cai quản một xã hội mới. Thực tế là bản thân phụ nữ có
khả năng quyết định bản chất và phạm vi của tham gia chính trị và hệ quả là của
tồn bộ hệ thống chính trị.
Quan hệ qua lại giữa phụ nữ và chính trị là một quan hệ tương hỗ, biến đổi
và phát triển lẫn nhau. Chính trị cần có sự tham gia của phụ nữ và phụ nữ tham gia


15

vào chính trị vừa làm tăng vị thế, năng lực sáng tạo, quyền lực, quyền dân chủ và
làm chủ của phụ nữ vừa làm cho chính trị và đời sống xã hội phát triển.
1.2. Một số quan niệm về sự tham gia chính trị của phụ nữ
1.2.1. Quan niệm của một số nhà tư tưởng chính trị trong lịch sử về sự

tham gia chính trị của phụ nữ
Nhìn vào các thời đại lịch sử có thể thấy, việc khẳng định vai trò và năng lực
của phụ nữ trong đời sống chính trị là cả một q trình, đó là q trình đấu tranh
giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, trong đó có quyền bình đẳng về
chính trị, quyền được tham gia vào các hoạt động chính trị- xã hội của phụ nữ.
Chế độ phong kiến chuyên chế, đặc biệt là phong kiến chuyên chế phương
Đông kéo dài tới hàng nghìn năm trong lịch sử Trung Quốc là chế độ vốn xa lạ với
dân chủ, tự do. Đó là xã hội thần dân, trong xã hội đó phụ nữ càng bị đè nén áp bức
không chỉ với sức mạnh của những quy định của pháp luật phong kiến mà cịn bị
ràng buộc, kìm hãm bởi dư luận xã hội, phong tục, tập quán, lối sống và các quy
phạm đạo đức phong kiến. Học thuyết Nho giáo là một điển hình, cột chặt người
phụ nữ vào tam tịng, tứ đức, sự lệ thuộc chặt chẽ vào chồng, con và gia đình, hầu
như khơng có một khơng gian xã hội nào cho hoạt động của phụ nữ ngồi gia đình,
dịng họ với những luật lệ trói buộc. Mạnh Tử cho rằng: thiên hạ gốc ở nước, nước
gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình (thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia
chi bản tại thân). Con người (nam giới - chú thích của tác giả) trước hết cần phải
học tập, tu dưỡng (Tu thân), sau đó phải xây dựng và quản lý nhà mình cho thật tốt
(Tề gia) rồi vươn lên quản lý đất nước (Trị quốc) và cai trị nước khác (Bình thiên
hạ). Theo đó, có thể hiểu quan điểm của Nho giáo thì những người đàn ông sẽ đời
nối đời xây dựng, thống trị và ổn định xã hội.
Ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội: Vua - tôi; Cha - con; Chồng - vợ là các
mối quan hệ bất bình đẳng trong xã hội phong kiến. Quân vi thần cương là vua làm
cương cho tôi. Phụ vi tử cương là cha làm cương cho con. Phụ vi thê cương là
chồng làm cương cho vợ. Trên cơ sở đó, những người làm cương cho người khác là
những người lãnh đạo và có quyền lực cao nhất trong xã hội và gia đình. Trong cấu


16

trúc này, phụ nữ nằm ở nhóm xã hội “tơi”, “con”, “vợ” là nhóm phải chịu sự giáo

dục, sự thống trị tuyệt đối của nam giới. Nho giáo còn coi phụ nữ ngang hàng với
tiểu nhân, là loại bị khinh miệt, khơng đáng đếm xỉa. Theo Khổng Tử thì “chỉ có
đàn bà và tiểu nhân là hạng khó dạy. Khi ta gần thì họ nhờn, xa thì họ ốn”. Bên
cạnh đó, trật tự gia đình của Nho giáo được xác lập trong chế độ đối kháng giai cấp
và áp bức giới. Nho giáo quy định trong gia đình có hai loại người là Sử và Sự. Sử
là những người lãnh đạo còn Sự là những người chịu sự lãnh đạo. Sử là những ơng
chủ trong có quyền uy tuyệt đối trong đối nội và đối ngoại. Đó là ơng, cha, anh,
chồng còn Sự là những người thứ bậc dưới như cháu, con, em, vợ. Mọi người đàn
ơng trong gia đình khi sinh ra thì thuộc hàng Sự nhưng đến khi lớn lên, có gia đình
riêng, anh ta sẽ thuộc hàng Sử còn mọi người phụ nữ trong suốt cuộc đời mình
khơng bao giờ thuộc hạng Sử cả. Trong gia đình thì chồng là “Vua” cịn vợ là “Nội
tướng”. Nho giáo khuyên: chồng nhân nghĩa, vợ nhu thuận, “Nam bất ngôn nội, nữ
bất ngơn ngoại” (đàn ơng khơng nói việc trong nhà, đàn bà khơng nói việc ngồi
đường). Theo sự phân cơng đó, đàn ơng chủ việc bên ngồi, đàn bà chủ việc bên
trong nhưng đàn bà vẫn phải phục tùng đàn ơng. Bằng cách đó, phụ nữ bị hạn chế
khơng được tham gia các công việc xã hội.
Platon - nhà triết học Hy Lạp cổ đại quan tâm đến thân phận của người phụ
nữ trong xã hội Hy Lạp đương thời. Mặc dù được coi là công dân nhưng họ chỉ có
một số quyền hạn chế về pháp luật và chính trị. Họ khơng thể tham gia vào các cơng
việc chính trị, và bị cấm sở hữu tài sản ở nhiều thành phố. Nhiệm vụ chính của họ là
sinh con, những người thừa kế hợp pháp của chồng. Ông cho rằng phụ nữ phải có
những cơ hội giống như nam giới được giáo dục về triết học và thống trị thành phố
công bằng. Theo ông, một phụ nữ thông minh và có năng lực thì giỏi hơn một người
đàn ơng thiếu những phẩm chất này, và sẽ là lãng phí khả năng con người nếu
khơng sử dụng người đó trong việc quản lý nhà nước.
Hơn hai ngàn năm sau Platon, triết gia người Anh John Stuart Mill lại bênh
vực cho phụ nữ. Ông đã phát triển các nguyên tắc đạo đức và chính trị cơ bản để
bảo vệ sự bình đẳng của phụ nữ. Mill phản đối sự đối xử bất bình đẳng với phụ nữ.



17

Ông đã phê phán sự đối xử với phụ nữ trong xã hội và cho rằng những sự tổ chức
hiện tại làm phụ nữ ngột ngạt, gây cho cả họ và nam giới có cuộc sống kém hạnh
phúc hơn là lẽ ra họ có thể có. Theo ơng, “sự phụ thuộc hợp pháp của một giới vào
giới khác” là vừa “tự nó khơng đúng và giờ đây vừa là một trong những trở lực đối
với sự phát triển con người”. Ông tin rằng điều này phải được thay thế bằng “sự
bình đẳng đầy đủ, khơng thừa nhận bất cứ quyền hay đặc quyền của một bên, mà
cũng khơng có sự thiếu tư cách pháp lý của bên kia”. Phụ nữ có rất ít quyền chính
trị, và gần như khơng có quyền bỏ phiếu. Khơng có cơ hội có việc làm có tiền, họ
phải lấy chồng mà khơng được lựa chọn. Lựa chọn duy nhất của phụ nữ là sự lựa
chọn bất đắc dĩ: hoặc ơng chồng đó, hoặc khơng có gì. Vì phụ thuộc vào nam giới,
phụ nữ phải học cách chiều họ. Mục tiêu chủ yếu của giáo dục và đào tạo phụ nữ là
làm sao thu hút đàn ơng và giành được vị trí an tồn trong tình cảm của họ.
Tất cả những khả năng mà trong đó phụ nữ khác biệt và thấp kém hơn nam
giới là do họ không được nhận sự giáo dục và kinh nghiệm giống như nam giới
nhận được. Dù cho Mill là người ủng hộ mạnh mẽ các quyền của phụ nữ trong xã
hội, ơng vẫn chưa tự giải phóng bản thân thoát khỏi những quan niệm phổ biến liên
quan đến các quan hệ trong gia đình. Ơng khơng chỉ chấp nhận sự tồn tại của gia
đình như là nó khơng tránh khỏi như thế, mà cịn chấp nhận vơ điều kiện sự phân
cơng lao động tự nhiên trong gia đình. Người đàn ông phải làm việc và người phụ
nữ phải ở nhà chăm sóc nhà cửa và con cái. Ơng tin rằng phụ nữ khơng nên làm
việc bên ngồi gia đình và tự nhiên thích ở nhà hơn. Trong khi đó Harriet Taylor, vợ
ơng cho rằng phụ nữ khó giành được sự bình đẳng thật sự trong xã hội trừ phi họ có
địa vị kinh tế độc lập.
Điều quan trọng là Mill đã đề cập đến vấn đề bầu cử của phụ nữ. Ơng cho
rằng đó là quyền tự nhiên thuộc về phụ nữ cũng như nam giới trong việc có tiếng
nói trong chính quyền của họ. Ơng viết, “Ngày nay khơng ai cịn cho rằng phụ nữ
phải ở trong cảnh tơi địi cá nhân; rằng họ khơng được có tư tưởng, ước mơ, hoặc
nghề nghiệp, mà phải là kẻ lao dịch trong nhà cho các ông chồng, các ông bố, hoặc



18

các anh em trai.” Ơng nói khơng ai muốn quay trở lại thời kỳ mà phụ nữ không thể
“quản lý tài sản, và có những sở thích tiền tài và công việc giống kiểu của đàn ông.”
Beauvoir, nhà triết học người Pháp phản đối lập luận cho rằng, đàn bà sinh ra
đã là “đàn bà” (là phái yếu) chứ không phải trở thành như vậy qua quá trình vận
động của xã hội. Bà dẫn ra quá trình giáo dục mà người phụ nữ nhận được từ khi
còn bé cho tới khi bắt đầu trải nghiệm đời sống tình dục và ở mỗi giai đoạn bà đều
chứng minh được rằng, phụ nữ bằng sự chấp nhận vai trò bị động trước những nhu
cầu chủ động và chủ quan của đàn ông đã buộc phải từ bỏ địi hỏi có tính chất vượt
trội và tính chủ quan đích thực như thế nào. Beauvoir cho rằng phụ nữ có khả năng
lựa chọn như nam giới và vì thế có thể lựa chọn nâng cao vị thế của mình lên. Bà
chỉ ra rằng phụ nữ cần phải giải phóng mình và phục hồi cái tơi của mình, trước hết
bằng cách cho phép mình vượt lên bằng những hướng đi tự do, tự hào về bản thân
mình trong suy nghĩ, trong sáng tạo, trong hành động giống như nam giới. Bà cũng
đặt ra những đòi hỏi đối với xã hội trong mục tiêu hướng tới bình đẳng nam nữ. Để
đạt được mục tiêu đó thì các cấu trúc xã hội như luật pháp, giáo dục, phong tục…
cần phải được điều chỉnh.
Với quan niệm của Rút-xô, con người sinh ra là con người tự do, ông cho
rằng, chính quyền phải thuộc nhân dân, địi hỏi con người phải lao động, sự tồn tại
của con người phải dựa trên lao động của bản thân. Thiếu lao động, khơng thể có
một cuộc sống con người chuẩn mực được. Nhưng trong thế giới bất công, hư hỏng,
nhiều người đã chiếm đoạt kết quả lao động của người khác. Con người thật sự tự
do là con người sống bằng lao động của mình. Vì vậy, cần phải giáo dục con người
họ không phụ thuộc vào ai cả, họ sống bằng những thành quả lao động của mình,
quý trọng sự tự do của mình và biết bảo vệ chúng. Về giáo dục đối với phụ nữ, Rútxơ tỏ ra có nhiều ý kiến lạc hậu. Người thiếu nữ lý tưởng của Rút-xơ là Xơ-phi,
người vợ sau này là Ê-mi-lơ. Ơng cho rằng nam giới và nữ giới có sứ mệnh khác
nhau, nên sự giáo dục cũng khác nhau. Sứ mệnh của phụ nữ là dạy con, trơng nom

việc gia đình, làm sao trong nhà vui vẻ, chồng con được hưởng hạnh phúc đầy đủ.
Ông viết: “Người đàn bà sinh ra để nhường nhịn người đàn ông và để chịu đựng cả


19

sự bất công của người đàn ông nữa”. Phụ nữ chỉ cần có sức khoẻ, để có thể chăm
sóc con cái. Về đức dục, thì cần phải ơn hồ và phục tùng mẹ, cha, chồng. Khơng
cần phải có học vấn, vì học vấn khơng hợp với thiên chức của người phụ nữ.
“Người đàn bà nên lấy tư tưởng của chồng làm tư tưởng của mình, lấy lời lẽ của
chồng làm lời lẽ của mình”[2]…
Trong thời kỳ Khai sáng ở Anh (cuối thế kỉ XVIII) đã có những tranh luận nổi
tiếng về quyền phụ nữ, phân tích sự bất lợi về kinh tế của phụ nữ do sự bắt buộc phải
phụ thuộc vào đàn ông và sự loại trừ họ khỏi môi trường xã hội [3]. Các cuộc tranh
luận diễn ra trong thời kỳ này hướng tới đấu tranh gay gắt cho việc phụ nữ có quyền
tham gia vào các hoạt động kinh tế, phụ nữ phải được tạo cơ hội để có việc làm và tự
chủ về kinh tế trong gia đình. Bên cạnh đó, quyền bầu cử của phụ nữ cũng được đề
cập đến và nó đã gây ảnh hưởng tới Quốc hội về việc cải tổ chế độ bầu cử.
1.2.2. Quan niệm của Thuyết nữ quyền về tham gia chính trị của phụ nữ
Phân tích lịch sử của phong trào phụ nữ, các nhà nghiên cứu đưa ra ba xu
hướng phát triển mạnh mẽ, gắn liền với ba giai đoạn phát triển gọi là các Làn sóng
nữ quyền. Làn sóng thứ nhất (the first wave of feminism) từ khoảng năm 1848 đến
1918. Làn sóng thứ hai (the second wave of feminism) từ 1918 đến 1968 và Làn
sóng thứ ba (the thirt wave of feminism) từ 1968 đến nay.
Làn sóng thứ nhất, sự đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ mới chỉ
dừng lại ở việc đòi quyền bầu cử và các quyền dân sự như cải cách trong giáo dục,
việc làm và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tuy nhiên, nếu xét trong bối cảnh lịch
sử lúc bấy giờ, thì đây là một bước ngoặt lịch sử trong đời sống chính trị của giới
nữ, vì bầu cử là công cụ, là phương pháp để công dân lựa chọn người đại diện cho
mình, mà trên thực tế khơng có ai hiểu phụ nữ bằng phụ nữ, vì vậy, việc họ có

quyền bỏ phiếu đồng nghĩa với việc họ có người đại diện bảo vệ quyền lợi cho
mình.
Ngay từ Làn sóng thứ hai, lần đầu tiên, phong trào nữ quyền đã cho ra đời
những nghiên cứu của phụ nữ với tư cách là nhà khoa học. Theo bà Eva
Gamarnikow, ban đầu các nghiên cứu phụ nữ được coi là nhằm khôi phục lại thế


20

cân bằng trong xã hội do trước đây họ bị gạt ra ngoài các lĩnh vực khoa học và bị
hạn chế trong gia đình để thực hiện các chức năng sinh học. Từ đó các nhà Nữ
quyền bắt đầu đặt dấu hỏi về lý do của sự vắng mặt phụ nữ trong cơ chế chính trị,
trong các hoạt động trí thức và xã hội. Những câu hỏi đó dẫn đến sự xét lại các quan
niệm nam quyền và làm thay đổi nó.
Làn sóng thứ ba (the thirt wave of feminism) từ 1968 đến nay. Việc phụ nữ
bị gạt ra ngoài lề của dịng chảy phát triển đã kích thích tư tưởng và khả năng
nghiên cứu của nhiều nhóm phụ nữ trí thức. Trong hồn cảnh khoa học cịn đang là
lĩnh vực độc quyền của nam giới, nhiều nhóm phụ nữ đã trình bày các quan điểm
mới nhìn nhận vấn đề phụ nữ trong so sánh với nam giới trên những vấn đề về
chính trị, kinh tế, khoa học, văn hố, gia đình. Nhiều trường phái Nữ quyền đã dựa
vào các học thuyết xã hội và tìm cách đưa vấn đề phụ nữ với tư cách là một nửa
nhân loại, là một lực lượng xã hội quan trọng vào các học thuyết. Trong làn sóng
thứ 3, phong trào Nữ quyền đã phát triển toàn diện và sâu sắc trên rất nhiều ngành
khoa học. Bản thân thuyết Nữ quyền cũng được phân chia theo các chuyên ngành:
có các nhà Nữ quyền địa lý, lịch sử, khoa học tự nhiên, khoa học chính trị, tâm lý,
xã hội học… với sự mong muốn rằng tiếng nói và kinh nghiệm, trí thức của phụ nữ
cũng được coi trọng như nam giới.
Mục tiêu của các nhà Nữ quyền là tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia
vào các ngành khoa học. Vào cuối những năm 1960 khi làn sóng thứ ba nổi lên, phụ
nữ ở Anh và Mỹ đã được cho phép vào các lĩnh vực kiến thức của nam giới. Các tờ

tạp chí Nữ quyền thời kỳ này đều đưa ra các nguyên nhân và những cố gắng của
phụ nữ trong xã hội học tập. Bên cạnh đó, hàng loạt các cuốn sách, nhiều tạp chí
mới, hội nghị, lớp học với rất nhiều chủ đề Nữ quyền cũng ra đời.
Phong trào “Nữ quyền tự do” địi bình đẳng về quyền và cơ hội giữa nam và
nữ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là yêu cầu phụ nữ cũng được tiếp cận bình đẳng
với giáo dục và vị trí chính trị như nam giới. Phản đối quan niệm cho rằng phụ nữ
chỉ là người giúp đàn ông trong việc sinh nở, sức mạnh về trí tuệ của phụ nữ ít hơn
nam giới, các nhà Nữ quyền tự do đã cho rằng phụ nữ cũng có khả năng trí tuệ như


21

nam giới. Theo họ, sự bị trị của phụ nữ nằm trong những ràng buộc về tập quán và
pháp lý (Ann Oakley, 1999). Theo luật pháp và phong tục, phụ nữ bị tước đi việc
học hành và bị giam hãm trong gia đình, những ràng buộc này ngăn cản phụ nữ
tham gia hoặc thành công trong những nơi được coi là thế giới công cộng. Chủ
nghĩa nam quyền đã gạt bỏ phụ nữ ra khỏi hàn lâm viện, các diễn đàn và thương
trường. Do chính sách sai lầm này, tiềm năng đích thực của nhiều phụ nữ khơng
được bộc lộ; phụ nữ khơng được bình đẳng khi nam giới được coi là “trí tuệ” cịn
phụ nữ là “lao động chân tay”[4].
Từ bao nhiêu thế kỷ, bộ máy chính trị ở các quốc gia trên thế giới thuộc
quyền của đàn ông. Vai trò của người phụ nữ trong Quốc hội, theo nhiều nhà Nữ
quyền: chỉ mang đặc tính tượng trưng hơn là hiệu quả. Sự hiện diện của họ cho mọi
người có cái cảm giác đã có một sự cố gắng trong việc giữ cân đối nam nữ trong
chính quyền. Tại các nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch...), sự
góp phần quan trọng của phụ nữ trong chính quyền được giải thích một phần bởi sự
áp dụng những quy chế ứng cử đặc biệt nhằm khuyến khích và hỗ trợ sự tham gia
của phái nữ vào chính quyền. Với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt 39,4%, nữ tham gia
Chính phủ đạt 47%, Na Uy được xem là một trong những nước bình đẳng nhất thế
giới. Nhưng theo một cuộc thăm dò trong nước (năm 2000) thì sự hiện diện đơng

đảo của phụ nữ Na Uy trong chính trị là kết quả của sự rút lui của nam giới ra khỏi
lãnh vực này. Người đàn ông Na Uy đầu tư vào một lĩnh vực khác mà họ cho rằng
có nhiều lợi tức và quyền vinh hơn, đó là lãnh vực kinh tế quốc tế với những đại xí
nghiệp [5].
Một lý do khác giải thích sự hiện diện ít ỏi của phụ nữ trong chính trị là sự e
dè của phụ nữ. Chính trị là một thế giới đầy tranh chấp, chính nét đặc thù này làm
cho nhiều người phụ nữ chùn bước. Ngoài ra, nhiều nhà Nữ quyền nhận xét rằng
người nữ chính trị gia, nhất là những người nắm quyền thường là nạn nhân của sự
phê bình bất cơng, họ khơng những bị chỉ trích về tài năng, cá tính của họ mà những
khía cạnh rất cá nhân cũng bị khai thác như cách trang phục, đời sống riêng tư…


22

Tóm lại, ở nhiều quốc gia trên thế giới, sự bình đẳng về chính trị, với nhiều
lý do khác biệt vẫn còn là một vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. Tuy nhiên,
đây là một đề tài được nhiều người chú ý, các giải pháp đang được khảo cứu tại
nhiều quốc gia. Tại Pháp vào năm 2001, điều luật Sanction économique được chấp
nhận. Theo quy luật này thì các đảng chính trị phải bảo đảm sự có mặt của một tỉ số
tối thiểu nữ ứng cử viên. Những đảng khơng tơn trọng luật này sẽ bị phạt về tài
chính. Tại Québec, phong trào phụ nữ Collectif Fémmimis & Démocratie đang vận
động để đạo luật này được chấp thuận. Nhiều người mong đợi sự tham gia của phụ
nữ vào bộ máy lãnh đạo quốc gia vì họ cho rằng người phụ nữ đem vào trong chính
phủ một luồng gió mới, một cách suy nghĩ uyển chuyển và những giải pháp dung
hịa hơn.
Điều khơng thể phủ nhận, phụ nữ tiềm tàng những khả năng, tài năng để đáp
ứng những đòi hỏi của công tác lãnh đạo, quản lý. Đặt vào một mặt bằng chung về
điều kiện, môi trường, phụ nữ cũng như nam giới đều có thể tham gia hoạt động
chính trị. Ngồi ra, phụ nữ cịn nhạy cảm, cẩn thận, chu đáo, trách nhiệm với cơng
việc, đó chính là một lợi thế của phụ nữ giúp họ tham chính có hiệu quả.

1.2.3. Quan niệm và văn hóa truyền thống Việt Nam về sự tham gia chính
trị của phụ nữ
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã cho thấy vai trò người phụ nữ vô cùng quan
trọng. Từ thời xưa, theo truyền thuyết, khi người Việt hình thành nhà nước đầu tiên
của mình, họ đã đề cao vai trị người phụ nữ qua câu chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc
trăm trứng rồi sau đó Mẹ dẫn 50 người con lên núi sinh cơ lập nghiệp, lập nước Văn
Lang, cai quản đất nước. Kể từ đó, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt
Nam thường xuyên phải đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước và người phụ
nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp chung ấy. Mở đầu truyền
thống “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” là hai vị nữ anh hùng dân tộc: bà Trưng
Trắc và em bà là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Đông Hán giành lại
quyền tự chủ cho đất nước. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chứng minh khả
năng của phụ nữ: không những chiến đấu dũng cảm chống ngoại xâm mà còn động


23

viên, đoàn kết và lãnh đạo quần chúng rất tài giỏi. Sau Hai Bà Trưng là cuộc khởi
nghĩa của Bà Triệu, một lần nữa, khẳng định ý chí tự chủ, tinh thần độc lập của dân
tộc với câu nói hào hùng đầy khí phách: "Tơi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng
sóng dữ, chém cá kình ở biển Đơng, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi
ách nô lệ, chứ khơng chịu khom lưng làm tì thiếp người ta"… Đặc biệt, trong thế kỷ
XX, dân tộc ta phải trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, bên
cạnh hình ảnh hàng triệu nam thanh niên lên đường đánh giặc, thì cũng có hàng
ngàn, hàng vạn nữ thanh niên xung phong ra mặt trận hoặc trực tiếp cầm súng như
nam giới hoặc làm nhiệm vụ tiếp tế, tải lương, tải thương, lấp phá bom mìn… người
phụ nữ Việt Nam đã trở thành biểu tượng cao đẹp cho ý chí, sức mạnh và cả những
hy sinh to lớn để đổi lại nền độc lập tự do cho dân tộc.
Mặc dù, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những
đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước

nhưng với một quốc gia bị ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Nho giáo thì dù muốn dù
khơng những tư tưởng ấy cũng tác động đến các mặt của đời sống xã hội, trong đó
có sự tham gia chính trị của phụ nữ.
Trong xã hội phụ quyền, phụ nữ bị hạn chế không được tham gia các công
việc xã hội, đặc biệt bị hạn chế trong những hoạt động chính trị và khoa học. Phụ
nữ chỉ được học để phục vụ chồng, con và những người thân trong gia đình mà
khơng được thi thố ngồi xã hội. Hiện tượng “Gà mái gáy thay gà trống”, “Gái goá
lo việc triều đình” là tối kỵ. Những phụ nữ là vợ vua chúa khi chồng chết trẻ, được
phụ tá cho con trai nhưng chỉ được phép “bng rèm chấp chính” nghĩa là ngồi ở
đàng sau chiếc rèm để phán quyết việc công mà không công khai trước mặt bá
quan. Hiện tượng này không chỉ hàm ý khinh miệt sâu sắc nhân cách và trí tuệ của
phụ nữ mà cịn kìm hãm năng lực của họ trên cương vị điều hành, lãnh đạo công
việc phục vụ đất nước. Lịch sử Việt Nam chỉ ghi lại rất ít những nhân vật nữ tài
năng lãnh đạo đất nước là bà Dương Vân Nga thời nhà Đinh; bà Ỷ Lan trong hai
giai đoạn là vợ vua và mẹ vua quản lý đất nước để chồng yên tâm đi đánh giặc, đã
đề các chính sách trị nước đúng đắn và giải phóng cho các cung nữ; nữ tướng tài ba


24

và bất khuất Bùi Thị Xuân trong đội ngũ nghĩa quân Tây Sơn... Những tấm gương
trên đã chứng tỏ rằng khi được có cơ hội thì phụ nữ cũng thể hiện tài năng không
thua nam giới và mặc dù bị chịu sự bất cơng, phân biệt nhưng sự đóng góp của phụ
nữ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc là vô cùng to lớn.
1.2.4. Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta về sự tham gia chính trị của phụ nữ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sự tham gia chính trị của phụ nữ
Các nhà kinh điển Mác- Lênin đánh giá rất cao vai trò, vị thế của phụ nữ
trong xã hội, coi phụ nữ là nguồn nhân lực chủ yếu trong cách mạng xã hội. Theo
các ông: “Trong lịch sử nhân loại, khơng có một phong trào to lớn nào của những

người áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là những
người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức”[6], chính vì vậy nên họ
chưa bao giờ và khơng bao giờ đứng ngồi các cuộc đấu tranh giải phóng.
Theo Ăngghen, phụ nữ tham gia cơng việc xã hội chính là điều kiện đầu tiên
để giải phóng phụ nữ. Người khẳng định rõ hơn: “Người ta thấy rằng, sự giải phóng
phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều khơng thể có được và mãi mãi khơng
thể có được; chừng nào mà người phụ nữ cịn bị gạt ra ngồi lao động sản xuất của
xã hội và cịn phải bị bó hẹp trong cơng việc riêng tư ở gia đình”[7].
Có thể nói, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, xã hội cần phải giải
phóng phụ nữ khỏi sự ràng buộc gia đình, phải làm cho phụ nữ và nam giới bình
đẳng bằng cách lơi cuốn phụ nữ tham gia công việc xã hội. Những quan điểm biện
chứng ấy có được là xuất phát từ sự nghiên cứu công phu và sự chiêm nghiệm trong
thực tiễn của C.Mác và Ph.Ănghen để tìm hiểu địa vị của người phụ nữ trong xã hội tư
sản. C.Mác đi đến kết luận: trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phụ nữ có vai trị
lớn nhưng địa vị lại thấp hèn cả trong gia đình và ngồi xã hội, họ ln chịu cảnh
bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hóa. Trong các cơng xưởng tư bản chủ
nghĩa, phụ nữ phải chịu bao nỗi nhục nhã, đắng cay, phải lao động cực nhọc, làm
việc cật lực thậm chí là trong điều kiện ốm đau.


25

Tình trạng trong hơn nhân gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa cũng vậy.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa có hai loại gia đình là gia đình tư sản và gia đình vơ
sản, giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp thống trị và bóc lột giai cấp khơng
có tư liệu sản xuất, điều này được thể hiện rõ trong gia đình tư sản, nơi mà người
đàn ông nắm giữ địa vị kinh tế thì nắm giữ ln vị thế thống trị người đàn bà, người
đàn bà khơng có tư liệu sản xuất. Với tư cách là đơn vị của tế bào xã hội, gia đình
cũng chứa đựng tất cả mối quan hệ bất cơng và bất bình đẳng xã hội. Ph.Ăngghen
viết: “Trong gia đình, người chồng là nhà tư sản, người vợ đại biểu cho giai cấp vô

sản”[10]. Như vậy, chế độ tư bản đã làm tăng sự nơ dịch từ hai phía xã hội và gia
đình và chất thêm gánh nặng lên cả hai vai người phụ nữ. Cùng một lúc phụ nữ phải
vừa tham gia lao động trong nền sản xuất xã hội và vừa phải đảm nhiệm mọi thứ
công việc như nơ lệ trong gia đình.
Nghiên cứu lịch sử lồi người, C.Mác và Ăngghen chỉ ra rằng: trong xã hội
có giai cấp đối kháng, phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai cấp và sự bất
bình đẳng trong gia đình và ngồi xã hội. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến tình
trạng áp bức, nơ dịch của giai cấp có của đối với giai cấp khơng có của, từ đây,
trong gia đình người phụ nữ trở nên hoàn toàn lệ thuộc về kinh tế, phải phục tùng
tuyệt đối quyền lực của người chồng. Sự bất bình đẳng nam nữ hay sự bất bình đẳng
về giới có nguồn gốc từ sự bất bình đẳng về kinh tế giữa phụ nữ và nam giới. Địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội luôn thấp kém hơn nam giới là bắt
nguồn từ địa vị kinh tế của họ.
Trên cơ sở phân tích nguồn gốc kinh tế, xã hội và nhận thức của tình cảnh
phụ nữ bị áp bức trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin đã vạch rõ xu hướng biến đổi địa vị của người phụ nữ theo hướng tiến tới sự
bình đẳng nam nữ trong xã hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối
với sự giải phóng phụ nữ. Vấn đề là làm thế nào để giải phóng được phụ nữ khỏi sự
áp bức bất công trong cả gia đình và ngồi xã hội? C.Mác khẳng định: phải giải
phóng phụ nữ khỏi mọi sự áp bức và bất bình đẳng. Điều đó chỉ có thể thực hiện
bằng cuộc cách mạng vơ sản- cuộc cách mạng giải phóng cho toàn bộ nhân loại. Để


×