Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

luận văn thạc sĩ chính trị học Đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.9 KB, 127 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐỔI MỚI, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP XÃ Ở HUYỆN HẠ LANG, TỈNH CAO BẰNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Cần Thơ - 2011


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống chính trị (HTCT) nước ta là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó
hữu cơ với nhau được hình thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn
đề đổi mới chất lượng HTCT nói chung, trong đó nhấn mạnh việc đổi mới và
nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở nói riêng. Bởi vì, trong HTCT Việt Nam
chính quyền cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong HTCT là cấp chấp hành,
làm cầu nối trực tiếp giữa toàn bộ HTCT với nhân dân, hằng ngày tiếp xúc và
làm việc với nhân dân, nắm bắt và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng


và pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã
hội, tổ chức cuộc sống dân cư. HTCT cơ sở nước ta hiện nay, xã chiếm tới
85% trong tổng số các đơn vị hành chính. HTCT cấp xã giữ vị trí rất quan
trọng trong HTCT, vì xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi
thể hiện trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Trải qua 25 năm đổi mới, HTCT nước ta nói chung, HTCT cấp
xã nói riêng đã từng bước được củng cố và phát huy vai trò to lớn trong phát
triển kinh tế và dân chủ hoá xã hội, đạt được những thành tựu đáng kể: Đảng
được củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong
xã hội ngày càng cao; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân


3
dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát
huy...Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, HTCT nước ta nói
chung, HTCT cấp xã nói riêng còn bộc lộ những hạn chế như: Năng lực và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và hiệu quả hoạt động của các đoàn
thể chính trị - xã hội chưa nâng kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới;
Cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức của HTCT chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Trong
đó, HTCT cấp xã hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác
lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham
nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của dân. Chức năng, nhiệm vụ của
các bộ phận trong HTCT chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không
rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện
của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo,

bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa thoả đáng [39, tr37].
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có 12 huyện, 01 thị xã. Cấp cơ sở có: 199
đơn vị hành chính với: 179 xã, 6 phường, 14 thị trấn. Trong đó, huyện Hạ
Lang có 14 đơn vị hành chính với: 13 xã và 01 thị trấn. Hạ Lang là một trong
những huyện miền núi, biên giới của tỉnh Cao Bằng, có 8 xã biên giới tiếp
giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Từ xưa tới nay các huyện biên
giới của tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Hạ Lang nói riêng là phên dậu
vững chắc trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới đẩy mạnh hội nhập quốc tế, các xã biên giới có vai trò
quan trọng trong việc mở cửa giao lưu kinh tế, văn hóa với nước láng giềng
Trung Quốc. Ngoài ra, việc hoàn thành phân giới cắm mốc trên biên giới đất
liền Việt Nam -Trung Quốc ngày 31-12-2008 là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân vùng biên giới ổn định đời sống, yên tâm sản xuất, xóa
đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống.


4
Trong những năm qua HTCT cấp xã tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện
Hạ Lang nói riêng, không ngừng được đổi mới, nhằm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở một cách rộng khắp, đổi
mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, cải cách hành chính nhà
nước, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của chính quyền; phát huy vai trò
tập hợp, vận động, đoàn kết các tầng lớp nhân dân của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân tích cực sản xuất, kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng
thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo, phổ cập giáo dục và chăm
sóc sức khoẻ, các cuộc vận động thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, xây
dựng đời sống văn hoá... Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của đất
nước nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, bảo vệ đường biên, mốc giới, tổ chức và hoạt động của HTCT cấp xã

huyện Hạ Lang vẫn còn những hạn chế, bất cập, đó là:
- Tổ chức bộ máy của HTCT còn cồng kềnh, hiệu quả hoạt động chưa
cao, công tác xây dựng Đảng còn hạn chế, chính quyền cấp xã nhất là Hội
đồng nhân dân hoạt động chưa phát huy hết vai trò, chức năng của mình.
- Sự phân công và phối hợp giữa tổ chức đảng, chính quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội chưa hợp lý; phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng
chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền còn nhiều hạn chế,
cải cách hành chính thiếu đồng bộ; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân có biểu hiện hành chính hoá và mang tính hình thức.
- Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân còn vướng mắc, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trên địa bàn còn hạn chế.
- Công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới, cán bộ cơ sở ít được đào tạo,
bồi dưỡng, năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở (nhất là các xã vùng
biên giới) chưa đáp ứng với yêu cầu công cuộc đổi mới.


5
- Điều kiện, phương tiện làm việc của cán bộ cơ sở chưa đáp ứng theo
quy định chung.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, phát huy thế mạnh của địa
phương trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ, giữ
vững đường biên, mốc giới, cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong
đó đổi mới, kiện toàn HTCT cấp xã huyện Hạ Lang là nhiệm vụ cần thiết và
cấp bách nhằm tạo điều kiện cho cấp xã huyện Hạ Lang nói riêng và cấp xã
của tỉnh Cao Bằng nói chung, đảm bảo sự ổn định để phát triển bền vững cấp
xã, góp phần hoà nhập cùng với tỉnh và tiến trình phát triển chung của đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam trong những năm qua vấn đề HTCT nói chung và HTCT
các cấp từ Trung ương đến cơ sở (cấp xã) nói riêng đã được nhiều nhà lý luận,
nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu, theo thời gian có thể tóm tắt
một số tình hình nghiên cứu đó, như sau:
- GS.Nguyễn Đức Bình, GS, PTS.Trần Ngọc Hiên, GS.Đoàn Trọng
Truyến, Nguyễn Văn Thảo, PGS. PTS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm),
“Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở
và dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá
IX về “ Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2002.


6
- TS. Vũ Hoàng Công Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X
về “ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với của HTCT”
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2007.
- GS,TS. Dương Xuân Ngọc, “Tiếp tục đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010.
- TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, năm 1993.
- Đặng Thị Hiền, “Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở nông
thôn (thông qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang)”, Luận văn thạc sĩ

khoa học chuyên ngành Triết học, 1993.
- Nguyễn Tiến Thuận, “Kiện toàn hệ thống chính trị ở Thanh Hoá
trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Triết
học, chuyên ngành Chủ nghĩa Cộng sản khoa học, năm 2002.
- Võ Trọng Khoa,“Hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn
trên địa bàn tỉnh Kon Tum hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên
ngành Chính trị học, năm 2007.
- Trần Khánh Sơn, “Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Nghệ An
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, năm 2008.
- Hoàng Văn Khôi (2010), Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn tỉnh Cao Bằng.
- Và các công trình khoa học khác nghiên cứu chủ đề có liên quan đến
HTCT.
Ở tỉnh Cao Bằng trong những năm qua mặc dù Cấp uỷ, Chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều cố gắng để


7
nâng cao HTCT từ tỉnh đến cơ sở, song chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của HTCT từ cấp tỉnh, cấp huyện nói
chung và cấp xã nói riêng một cách có hệ thống. Điều này đã thúc đẩy tác giả
chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Chính trị học.
Tất cả những công trình nghiên cứu trên đây thực sự là những tài liệu
quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khoa học về HTCT, khảo sát thực tiễn tình hình tổ chức và hoạt
động của HTCT cấp xã ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng; là cơ sở để tác giả
hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình với tính cách là một công trình
khoa học đầu tiên có hệ thống về HTCT cấp xã ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao
Bằng hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động
của HTCT nước ta nói chung, HTCT cấp cơ sở nói riêng và đánh giá đúng
thực trạng việc đổi mới, kiện toàn HTCT cấp xã ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao
Bằng, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới,
kiện toàn HTCT cấp xã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và dân chủ hoá xã
hội trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn sẽ tập trung
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về HTCT và HTCT cấp xã.
- Đánh giá thực trạng đổi mới, kiện toàn HTCT cấp xã ở huyện Hạ
Lang, tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới, kiện
toàn HTCT ở cấp xã huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng đáp tương thích với đổi
mới kinh tế - xã hội và dân chủ hoá trong giai đoạn hiện nay.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: HTCT ở cấp xã huyện Hạ Lang, tỉnh Cao
Bằng, bao gồm tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cấp xã, mối quan hệ giữa các tổ chức
này với tư cách là các thành tố hợp thành HTCT cấp xã huyện Hạ Lang, tỉnh
Cao Bằng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về HTCT cấp xã (xã,
thị trấn) ở huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian: Luận văn tập trung khảo sát HTCT cấp xã ở huyện Hạ
Lang, tỉnh Cao Bằng từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về HTCT và đổi mới, tổ chức, hoạt
động của HTCT để giải quyết những vấn đề do luận văn đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ góc nhìn chính trị học,
sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền
tảng. Trên cơ sở đó, tác giả tập trung sử dụng các phương pháp như: khảo sát
thực tiễn, điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp lôcgíc và lịch sử, khái
quát hoá.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về chức năng, vai trò
của HTCT ở cơ sở (cấp xã).
- Luận văn góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học gíup cho
lãnh đạo huyện Hạ Lang nói riêng và tỉnh Cao Bằng nói chung để đổi mới,
kiện toàn HTCT ở sơ sở (cấp xã).


9
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về Chính trị học và Xây dựng Đảng ở
trường Chính trị tỉnh và Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục,
luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI,
KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1.1. Hệ thống chính trị ở cơ sở

1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền luôn
được tổ chức và thực hiện bằng một thể chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó
là, HTCT. Ở Việt Nam, thuật ngữ HTCT lần đầu tiên được Đảng ta đưa ra
trong Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3-1989) Đảng ta mới dùng khái
niệm HTCT. Sau đó, Đại hội VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), thuật ngữ HTCT được diễn đạt
khá đầy đủ trong các điều 9, 10,11, 12 [10, tr19]. Từ đó trở đi, khái niệm
HTCT được sử dụng rộng rãi không chỉ trong nghị quyết, trong các công trình
nghiên cứu khoa học mà cả trong sinh hoạt chính trị thường nhật.
HTCT là một trong những phạm trù cơ bản và bao trùm của Khoa học
chính trị. Cho đến nay, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn còn
nhiều cách hiểu chưa hoàn toàn thống nhất về HTCT. Có cách tiếp cận từ góc
độ cấu trúc quyền lực của nhân dân, xem HTCT là hình thức tổ chức dân chủ
để thực hiện quyền lực của nhân dân; quan niệm khác lại tiếp cận từ góc độ
cấu trúc quyền lực của giai cấp cầm quyền, cho rằng: HTCT là hệ thống
quyền lực của giai cấp cầm quyền, hay gọi là hệ thống chuyên chính của giai
cấp cầm quyền, nghĩa là HTCT chỉ bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội do
giai cấp cầm quyền lập ra để bảo vệ quyền lực và lợi ích của chính giai cấp
cầm quyền. Các tổ chức chính trị - xã hội khác không do giai cấp cầm quyền
tổ chức ra, thậm chí được xem là bất hợp pháp, không được coi là thành tố
của HTCT. Tổng hoà của hai quan niệm trên, cách tiếp cận thứ ba thực tế


11
hơn, xem HTCT vừa là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm quyền vừa là hệ
thống quyền lực của nhân dân, quan niệm: HTCT không chỉ là hệ thống
chuyên chính của giai cấp cầm quyền mà là tất cả các tổ chức chính trị - xã
hội hợp pháp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến quyền lực thống
trị của giai cấp thống trị. Đó là hệ thống tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp,

trong đó ưu thế cơ bản thuộc về các tổ chức của giai cấp nắm quyền lực về
kinh tế để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ, duy trì,
phát triển chế độ xã hội đương thời và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong giới nghiên cứu ở nước ta cũng có nhiều định nghĩa khác nhau
về HTCT. Có thể nêu ra một vài định nghĩa như sau:
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội
và các mối quan hệ giữa chúng với nhau hợp thành cơ chế chính trị của một chế
độ xã hội. Cơ chế đó bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác.
Hệ thống chính trị của một quốc gia là một cấu trúc của xã hội bao gồm
các tổ chức chính trị đặc trưng của xã hội (Nhà nước, các đảng phái chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể - phong trào chính trị...) tồn tại và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chính thức hiện hành, cùng với tổng thể
các mối quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể, thông
qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình trong xã
hội [42, tr15].
Dù sao, mỗi quan niệm cũng có những ưu thế và hạn chế nhất định.
Khái quát lại, có thể xem HTCT là một hệ thống các tổ chức chính trị hợp
pháp bao gồm: nhà nước, các đảng chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội,
cùng các quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể để
tác động vào các quá trình của đời sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát
triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.


12
Trong chủ nghĩa xã hội, do có sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp
công nhân, giai cấp cầm quyền và nhân dân lao động, nên HTCT không chỉ là
hệ thống quyền lực của giai cấp công nhân mà còn là cơ chế xã hội mà nhờ
đó, nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, thực hiện
quyền lực của mình.

HTCT xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân
làm chủ. Đảng Cộng sản, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ xã
hội thông qua nhà nước và các đoàn thể nhân dân; Nhà nước có chức năng
quản lí mọi mặt đời sống xã hội, công cụ, phương tiện để qua đó nhân dân
thực hiện quyền làm chủ; các đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các
giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Bởi vậy, có thể quan niệm HTCT nước ta là hệ thống các tổ chức: Nhà
nước CHXHCN Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trân tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội khác (Tổng Liên đoàn lao động, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội nông dân và Hội Cựu chiến binh), cùng các
quan hệ giữa chúng với nhau hợp thành cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chủ yếu bằng nhà nước dưới
sự lãnh đạo Đảng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngoài ra, trong xã hội ta còn nhiều tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo...có vai trò ngày càng tăng và thường
xuyên có đại diện trong Quốc hội, HĐND, song không phải là thành viên độc
lập của HTCT mà tham gia vào hệ thống với tư cách là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc - một liên minh chính trị rộng lớn nhất của cả dân tộc.


13
Tóm lại, xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, từ bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, HTCT ở nước ta nhằm xây dựng và phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó, tính đồng bộ
trong hoạt động và tính thống nhất về mục tiêu, tính chủ động sáng tạo của
các tổ chức trong HTCT và việc giải quyết tốt các mối quan hệ ngang dọc

trong toàn bộ hệ thống là những điều kiện căn bản đảm bảo cho HTCT hoạt
động có hiệu quả. Hay nói cách khác, sự hoàn thiện của HTCT sẽ là phương
thức và động lực để hoàn thành mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Tính nhất nguyên và duy nhất Đảng Cộng sản lãnh đạo; tính giai cấp,
tính dân tộc và tính nhân dân là những tính chất căn bản của HTCT nước ta
hiện nay. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị cho tất cả các
tổ chức bộ phận trong hệ thống và toàn bộ HTCT ở tất cả mọi cấp độ. HTCT
ở nước ta hiện nay vừa đang ở trong thời kỳ quá độ lại vừa đang đổi mới tiến
tới hoàn thiện với các tác nhân quan trọng là kinh tế thị trường, quá trình dân
chủ hoá (quá trình đưa các giá trị dân chủ vào đời sống xã hội), công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Quá trình đó sẽ dẫn đến xu hướng đô thị hoá nông thôn và
làm thay đổi nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Hơn nữa, xu hướng vận
động của xã hội hiện đại mà chúng ta đang xây dựng sẽ dựa vào ba trụ cột
chính yếu đó là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự. Tất cả những yếu tố đó đưa lại
một cách nhìn tổng hợp, khách quan khoa học về sự đổi mới và kiện toàn
HTCT ở cấp xã theo xu hướng hiện đại.
1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở
Đổi mới, kiện toàn HTCT ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nước ta nói
chung, miền núi nói riêng, vấn đề rất quan trọng và cần thiết trước tiên là phải
nhận thức đúng về cơ sở và chức năng, vai trò của cơ sở, đặc biệt là cơ sở cấp
xã. Khái niệm cơ sở cấp xã phản ánh đó chính là toàn bộ những xã, thị trấn


14
đang tồn tại thực trên đất nước ta với những tên gọi, địa dư hành chính, pháp
lý chính trị đầy đủ của nó. Mặt khác, về mặt nội hàm tương ứng của khái
niệm này phải được hiểu các xã, thị trấn là cơ sở xã hội của chính trị, của chế
độ chính trị, là cơ sở của thể chế chính trị, của thể chế nhà nước. Cơ sở: xã,
thị trấn được xét ở đây tồn tại với tư cách là một cấp quản lý trong hệ thống

bốn cấp quản lý hành chính nhà nước hiện hành ở nước ta, cấp cơ sở. Như
vậy, cấp xã gồm xã, thị trấn là thuộc về cấp cơ sở của hệ thống quản lý hành
chính bốn cấp. Khi xét HTCT ở phần trên với tư cách là một chỉnh thể thống
nhất, duy nhất có bốn cấp độ thì cấp cơ sở là một cấp của hệ thống chính trị
hay cấp độ của HTCT. Tuy nhiên, cấp độ cơ sở của HTCT còn bao gồm cả
phường. Nhưng ở đây, luận văn chỉ đề cập đối tượng là: xã, thị trấn thuộc
huyện. Trong đó, đặc biệt khảo sát cấp xã ở huyện Hạ Lang tỉnh Cao Bằng từ
năm 2001 đến nay.
Dựa vào những nét khái quát chung nhất về HTCT như đã nêu trên
theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể hiểu: Hệ thống chính trị ở cơ
sở là toàn bộ các tổ chức chính trị cấp cơ sở xã, phường, thị trấn (tổ chức
đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân) và mối quan hệ giữa chúng được
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống
nhất với nhau về mục đích, chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cơ sở.
1.1.3. Đặc điểm hệ thống chính trị ở cơ sở
HTCT ở cơ sở là một bộ phận cấu thành của HTCT Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, nên nó cũng mang những đặc điểm chung của toàn bộ HTCT.
Ngoài những đặc điểm chung đó, xét khía cạnh địa vị pháp lý và thực tế thì
HTCT ở cơ sở còn mang những đặc điểm riêng;


15
Thứ nhất, HTCT cơ sở là cấp thấp nhất trong HTCT nước ta hiện nay
Đây là đặc điểm xét theo khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý
của chỉnh thể HTCT duy nhất thống nhất ở nước ta hiện nay. Song quyết
không phải cấp thấp nhất là cấp kém quan trọng nhất. Mà thậm chí, xét theo
khía cạnh thực thi mọi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước thì đây lại
là cấp quan trọng nhất. Bởi vì, mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước cuối cùng có thực hiện đựơc hay không lại là ở cơ sở.
Thứ hai, HTCT ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế
được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất
Theo các quy định hiện hành thì hệ HTCT ở cơ sở xã, thị trấn được
biên chế và hưởng sinh hoạt phí không quá 25 người. Bộ máy đơn giản nhất
nhưng không phải là đơn giản nhất trong vận hành bộ máy. Các mối quan hệ
ở đây không phải là không phức tạp. Tính phức tạp ở đây được quy định bởi
các yếu tố tông tộc, gia tộc, dòng họ, tôn giáo, văn hoá, truyền thống.
Thứ ba, HTCT ở cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít
chuyên nghiệp nhất, trình độ học vấn và văn hoá, trình độ lý luận và chuyên
môn thấp nhất
Đội ngũ cán bộ của HTCT ở cơ sở biến động nhất là vì do cơ chế họ
không được biên chế cố định mà chủ yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu chọn trong
các cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán bộ, thời gian sau làm dân thường.
Tâm lý không ổn định, số phận bấp bênh chi phối rất lớn đến từng người ở
từng thời kỳ khác nhau. Cái nọ là nguyên nhân của cái kia. Chúng là nhân quả
của nhau dẫn đến việc họ ít được chuyên môn hoá, ít được đào tạo cơ bản và
họ cũng còn nặng tâm lý ngại học tập lý luận và chuyên môn nghiệp vụ theo
xu hướng tâm lý “quan nhất thời, dân vạn đại”. Phần lớn những người được
đào tạo cơ bản cả về lý luận và chuyên môn nghiệp vụ thì họ tìm cách thoát ly
khỏi xã, thị trấn để lại HTCT ở cơ sở với đội ngũ cán bộ nổi bật đặc điểm này.


16
Thứ tư, HTCT ở cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối của nhân dân
Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai
đến dân đều qua cấp cơ sở. Vì vậy, nó là cấp gần dân nhất và thể hiện tính
nhân dân một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp đầu tiên đối mặt
với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả
những xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư. Vì vậy, tổ chức và hoạt động

HTCT ở cơ sở mang tính tự quản cao.
Thứ năm, HTCT ở cơ sở nhất là ở cơ sở là cấp mà quan hệ dòng họ,
văn hoá làng xã, quan hệ dân tộc, tôn giáo tác động mạnh nhất
HTCT ở cơ sở là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hoá làng xã có thể tác
động mạnh nhất có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ chức và
hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở. Trong quan hệ với dân, cán bộ ở cơ sở
có thể bị chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các
truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng xã. Do đó, phải hết sức chú ý
khắc phục tư tưởng dòng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền theo kiểu “một
người làm quan cả họ được nhờ” hoặc “chi bộ ta”…
Những đặc điểm trên của HTCT ở cơ sở, phản ánh, một mặt ở sự thống
nhất, duy nhất của cả HTCT được tổ chức và hoạt động theo tính thống nhất
về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác nó cũng phản ánh nhiều mâu thuẫn, có
loại mâu thuẫn biện chứng của sự phát triển, có loại mâu thuẫn hình thức triệt
tiêu sự phát triển. Vấn đề là phát hiện mâu thuẫn và phải có những giải pháp
cụ thể xử lý những mâu thuẫn một cách cụ thể để đổi mới và kiện toàn HTCT
ở cơ sở đáp ứng vị trí, vai trò quan trọng cần phải có của nó trong giai đoạn
cách mạng mới hiện nay.
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị cấp cơ sở
1.2.1. Chức năng, vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở
HTCT ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn.


17
HTCT ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã,
phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các
tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn...Tất cả

các tổ chức trên đều có chức năng, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong
Luật Tổ chức của HTCT ở nước ta. HTCT ở cơ sở có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta là kinh tế kế hoạch hóa với phương
thức quản lý hành chính mệnh lệnh theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
chúng ta chỉ nhìn nhận cơ sở như một cấp quản lý hành chính thấp nhất, cuối
cùng trong hệ thống 4 cấp. Theo cách nhìn này, cấp cơ sở không chỉ thấp nhất
mà còn là cấp nhỏ nhất, nên nói tới cấp cơ sở thường chỉ thấy đó là một vi
mô, trong khi cấp Trung ương, toàn quốc mới là cái vĩ mô.
Nếu xét theo cấp độ quản lý và nhìn về lượng (quy mô diện tích, quy
mô dân số và dân cư, mức độ làm ra của cải vật chất, tính chất và lĩnh vực
hoạt động) thì cách hiểu về cơ sở như đã nêu trên là không có gì sai. Song đó
mới chỉ là một phương diện của vấn đề cần bàn nhưng chưa đầy đủ.
Hơn nữa, cách nhìn từ trên xuống, lâu dần theo thói quen, tiền lệ khó
thay đổi hình thành trong tư duy quản lý là tính chất hành chính quan liêu,
như: quen dùng chỉ thị, mệnh lệnh từ trên đã áp đặt xuống cơ sở, biến cơ sở
trở thành thụ động, trì trệ làm mất đi tính năng động, sinh động và đa dạng
phong phú ở cơ sở, vì cơ sở vốn là nơi diễn ra mọi hoạt động đời sống của
dân, việc làm của dân, là thái độ và hành vi ứng xử của dân chúng đối với cấp
chính quyền, mọi quan hệ xã hội. Cách nhìn từ trên xuống một cách quan liêu,


18
hành chính như vậy, đã tạo ra khoảng cách biệt rất lớn giữa Trung ương với
cơ sở, nếu có đi cơ sở cũng chỉ mang hình thức và chiếu lệ, tuỳ thuộc vào
trách nhiệm công việc hay phong cách dân chủ, thái độ và tình cảm đạo đức
với dân của cán bộ cấp trên chứ không mang tính pháp lý bắt buộc được bảo
đảm bởi chế tài, bởi kiểm tra và giám sát.

Cách bức với cơ sở lại càng trở nên nghiêm trọng hơn khi hệ thống
thể chế hành chính quan liêu bị xơ cứng bởi các tầng nấc, giấy tờ, công văn,
chỉ thị của các cấp trên; bởi cả những khó khăn, trở ngại về giao thông đi lại
do hạ tầng cơ sở kém phát triển, bởi thiếu thông tin, không có thói quen cập
nhật thông tin từ cơ sở của đội ngũ công chức, viên chức quan liêu. Nhất là
cơ sở nông thôn miền núi, với những làng bản xa xôi gần như cách biệt,
thậm chí không ít nơi bị bỏ quên, bị lãng quên, không được đầu tư, chăm
sóc, không được quan tâm để nó diễn ra một cách tự phát. Những cơ sở loại
đó vốn đã lạc hậu, khó khăn, chậm phát triển lại càng trở nên khu vực đặc
biệt khó khăn hơn.
Cái thấp nhất, nhỏ nhất trong quản lý không bao giờ được đồng nhất
với tính chất kém quan trọng hơn, ít quan trọng hơn so với những cái cao hơn,
lớn hơn. Tư duy so sánh hình thức ở đây đem áp dụng cho vị trí, vị thế của cơ
sở là một sai lầm đã từng xảy ra khi nhận thức về cơ sở và ứng xử với cơ sở.
Do đó, nhận thức trước đây về cơ sở còn nhiều điểm chưa đúng và chưa chính
xác về đặc điểm, vai trò của cơ sở trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt
động lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Tồn tại này cần sớm được khắc phục để vị
trí và tầm quan trọng của cơ sở được khẳng định trong thực tế đúng như bản
thân nó vốn có. Chính thực tiễn đổi mới, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường
và vận động dân chủ hoá ngày nay đã mở ra nhiều vấn đề về cơ sở, đòi hỏi
phải đổi mới nhận thức về nó.


19
Về phương diện nhận thức quản lý, không phải vì cơ sở là cấp thấp
nhất nên đội ngũ cán bộ cơ sở bố trí thế nào cũng được. Hiện trạng đội ngũ
cán bộ cơ sở hiện nay, đang yếu kém, bất cập, phần lớn không được đào tạo,
chưa có chính sách, chế độ ổn định, hợp lý là hậu quả của nhận thức không
đúng vì cách tổ chức, bố trí cán bộ nêu trên. Mỗi cấp trong hệ thống quản lý
có vị trí, vai trò, chức năng riêng của nó. Nhận thức và giải quyết không đúng

vấn đề này chẳng những gây trở ngại tới hoạt động và hiệu quả của cả hệ
thống mà còn làm tổn hại trực tiếp tới cơ sở và cả nước vì mấu chốt của vấn
đề là dân và tổ chức cuộc sống của dân sao cho phát triển sức dân, có lực
lượng của dân, tài trí của dân góp sức vào thì mới thực hiện được những kế
hoạch, mục tiêu phát triển xã hội, mới có động lực và nội lực để xây dựng
kinh tế, phát triển văn hoá, đảm bảo sự bền vững của chế độ.
Cấp vĩ mô toàn quốc và Trung ương lẽ dĩ nhiên là hết sức quan trọng,
bởi đó là cấp hoạch định đường lối, chiến lược phát triển quốc gia, ảnh hưởng
tới toàn bộ sự phát triển của dân tộc và xã hội. Nhưng cấp cơ sở cũng có tầm
quan trọng của riêng nó. Mỗi làng, xã như là mỗi tế bào góp thành cái vĩ mô
của toàn xã hội, như: Kết cấu nhà - làng - nước là một kết cấu bền vững, định
hình từ lâu trong lịch sử tạo thành sức sống của dân tộc, truyền thống, bản sắc
của một nền văn hoá. Hơn nữa, mỗi một làng xã là một hình ảnh thu nhỏ của
xã hội, ở đó diễn ra toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội, liên quan hàng
ngày, hàng giờ tới cuộc sống của người dân. Theo đó, làng xã thực sự là một
thực thể kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa đóng vai trò nền tảng của cả xã
hội, là động lực trực tiếp của phát triển xã hội. Nếu quan tâm tới đời sống của
dân, nếu thấm nhuần và nhất quán quan điểm dân là gốc của nước thì cơ sở
thực sự mang nội dung và tính chất vĩ mô. Thể chế quan liêu trong khi cách
biệt với cơ sở thì nó dẫn đến xa dân nên không thấu hiểu cuộc sống của dân,
tâm tư, nguyện vọng của dân với biết bao lợi ích và nhu cầu chính đáng hàng


20
ngày của họ. Chỉ có thể xây dựng thể chế dân chủ thì cán bộ, công chức mới
trở thành “công bộc của dân”, gần dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, lãnh đạo
và tận tuỵ phục vụ dân trong sự giúp đỡ, ủng hộ của dân, trong sự kiểm tra
giám sát của dân, dân chủ mới không biến thành “quan chủ”, “quan cách
mạng” theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trọng dân, tín dân và vì dân đã làm thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá

về vị trí, vai trò của cơ sở khi mà dân và cuộc sống của dân vừa là điểm xuất
phát, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý, của việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Do đó, đổi mới nhận thức về vai
trò của cơ sở, chúng ta đặc biệt lưu ý tới những điểm dưới đây:
Cơ sở không chỉ là địa bàn cư trú của dân, mà còn là nơi diễn ra mọi
hoạt động sinh sống và làm ăn của nhân dân lao động của đời sống xã hội. Đó
vừa là địa bàn diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người lao động,
của các cơ sở doanh nghiệp theo các thành phần kinh tế... vừa là nơi diễn ra
trao đổi, lưu thông hàng hoá, là đầu mối của thị trường, nơi hình thành các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Do đó, nói tới cơ sở là
nói tới người dân và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các
mối quan hệ xã hội. Mỗi cơ sở là một cộng đồng xã hội, ở đó có hoạt động
kinh tế, có giao lưu văn hoá và đồng thời tất yếu phải hình thành nên cộng
đồng xã hội, chính trị, bởi có vai trò của quản lý hành chính của Nhà nước
theo pháp luật, nhằm đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và tổ chức đời sống
chính trị của các công dân.
Cấp cơ sở, không chỉ là cấp thực hiện chức năng quản lý của nhà nước
mà còn là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội. Đây là nét
đặc trưng của nước ta, do đặc điểm và truyền thống lịch sử nên tính cố kết
cộng đồng đặc biệt nổi bật ở cơ sở. Tính chất vừa quản lý, vừa tự quản ở cơ
sở thể hiện trong mối quan hệ giữa xã và thôn, đây là mối quan hệ tác động


21
qua lại, phân công, phối hợp chứ không phải là sự tách bạch cứng nhắc, siêu
hình. Về nguyên tắc, cấp cơ sở có chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Nhưng để quản lý trên địa bàn cấp xã thì phải xuống tận thôn, đơn vị tự quản
cộng đồng. Trưởng thôn có thể được UBND xã uỷ nhiệm cho một số công
việc của xã được tổ chức thực hiện trong cộng đồng dân cư ở thôn. Song điều
chủ yếu của thôn là tự quản. Việc tự quản các hoạt động cũng không khép

kín, biệt lập trong từng thôn, càng không được đối lập với quản lý. Có những
công việc và hoạt động tự quản diễn ra trên quy mô cấp xã. Do đó, quản lý và
tự quản, xã và thôn không được cản trở nhau mà phải phối hợp nhịp nhàng,
với một chuẩn mực là tuân thủ đúng pháp luật. Đây chính là điểm đặc trưng
về sự kết hợp và đan xen giữa quản lý với tự quản, nên cơ sở tuy là một cấp
quản lý hành chính nhà nước nhưng lại là một cấp không hoàn chỉnh, rõ nhất
là ở chỗ, cán bộ cơ sở không phải tất cả đều là công chức nhà nước, theo đúng
thể thức bổ nhiệm, điều động, thuyên chuyển của Nhà nước. Ở cấp xã, chỉ
một số ít chức danh gắn trực tiếp với chuyên môn như: tài chính, địa chính,
thống kê, văn phòng trong UBND xã là cơ quan hành chính của cơ sở mới
xếp theo ngạch công chức, còn đa số cán bộ là do dân cử, dân bầu. Cán bộ ở
cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày sinh sống, làm việc và
quan hệ trực tiếp với dân. Trong quan hệ với dân, họ có bị chi phối, ràng buộc
rất mạnh mẽ bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục,
tập quán, lối sống làng xã.
Cơ sở vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo chức năng và thẩm
quyền, nhưng nó lại vừa là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây
dựng chế độ dân chủ của toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta. Vì cơ sở là nơi
diễn ra mọi hoạt động của quần chúng, nơi tổ chức các phong trào xã hội của
quần chúng để triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm đưa đường lối, chính sách


22
vào cuộc sống. Đặc điểm này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của cơ sở.
Mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước có trở thành
hiện thực hay không đều tuỳ thuộc vào việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ
sở có chu đáo, cụ thể, có tập hợp được lực lượng dân chúng hay không. Nó
liên quan trực tiếp tới HTCT ở cơ sở, tới chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Có cán bộ tốt thì mới có phong trào mạnh mẽ, sôi nổi. Từ các phong trào của

quần chúng ở cơ sở mà nảy sinh rất nhiều sáng kiến của dân, xuất hiện những
điển hình tiên tiến của xã hội ở ngay cơ sở, làm cho cán bộ trưởng thành, phát
huy được phẩm chất và năng lực trong công tác thực tế, nhờ đó làm tăng uy
tín, ảnh hưởng của Đảng, Nhà nước trong quần chúng. Cơ sở không những
cung cấp cán bộ cho phong trào, cho cơ sở và cấp trên, mà còn là nơi quần
chúng chứng thực tính đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách hoặc
từ thực tiễn cơ sở mà kiểm nghiệm, phát hiện, điều chỉnh, sửa chữa, làm cho
đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với thực tiễn, càng hợp với lòng dân
và được lòng dân hơn.
Cơ sở là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ vĩ mô
phải tác động tới. Vì cơ sở gắn liền với dân, có quy mô dân số và diện tích.
Do đó, cơ sở tuy là cấp thấp nhất trong cấp quản lý nhưng lại là tầng sâu nhất
trong quản lý và lãnh đạo, là địa chỉ quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị
quyết, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến,
phải bằng mọi cách tổ chức, tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin
và dân làm.
Cơ sở là cấp hành động và tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức
triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, bố trí
tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ ở cơ sở phải rất chú trọng tới tính thiết thực,
hiệu quả, cán bộ phải giỏi thực hành, biết thực hành lý luận một cách sáng tạo,
muốn vậy phải được trang bị tri thức và lý luận khoa học, có kinh nghiệm thực


23
tiễn, đồng thời lại phải có phương pháp, đặc biệt là làm công tác dân vận, biết
vận động thuyết phục quần chúng, miệng nói, tay làm, tai lắng nghe.
Cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở từ dân mà ra.
Đặc biệt, cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực
dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Do đó, cả về mặt lý luận và thực tiễn, cơ sở là cấp có nhiều lợi thế và khả

năng nhất để giảm thiểu xuống mức thấp nhất những thói tật quan liêu, hành
chính, mệnh lệnh, tệ hại tham ô, tham nhũng. Vì nhờ dân chúng thường xuyên
kiểm tra, giám sát hành vi cán bộ.
Ở cơ sở hiện nay tồn tại song hành các thể chế quản lý, pháp luật nhà
nước, Pháp lệnh dân chủ và các bản hương ước của thôn, bản. Phải tổ chức
thực hiện và tăng cường kiểm tra, giám sát sao cho không thể xảy ra các hiện
tượng tuỳ tiện, cục bộ địa phương, coi thường pháp luật. Phải khắc phục từ
tâm lý, ý thức đến hành vi, hoạt động một nhược điểm thâm căn cố đế là “lệ
làng cao hơn phép nước”, là tư tưởng dòng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền
theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”. Đó là những nét chung về
chức năng, vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.
HTCT ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn. Tính đến 31-12-2007, cả
nước có 10.998 xã, phường, thị trấn với tổng số gần 200.000 cán bộ, công
chức cơ sở hưởng lương. Trong đó, số cán bộ chuyên trách do bầu cử chiếm
57,75% và số công chức chuyên môn chiếm 42,25%. Ngoài số cán bộ, công
chức hưởng chế độ lương, cả nước có 568.899 cán bộ không chuyên trách (cả
cấp xã và cấp thôn) hưởng chế độ phụ cấp (số lượng cán bộ và mức phụ cấp
cho các chức danh do Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định). Cấp cơ sở được gọi chung là cấp xã. Cơ sở là cấp
trực tiếp nhất trong hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính ở nước ta hiện nay.


24
Về phân bố đơn vị hành chính cơ sở; trong tổng số đơn vị cơ sở ở nước
ta, xã chiếm tỷ lệ cao gần như tuyệt đối (khoảng 85%). Xã, thị trấn là đơn vị
hành chính cơ sở ở nông thôn rộng lớn của cả nước, từ đồng bằng đến trung
du, miền núi, hải đảo. Do trải trên mọi vùng miền nên xã mang đậm dấu ấn
“văn hoá vùng miền”, phản ánh đa dạng văn hoá truyền thống với những đặc
điểm khác nhau về địa lý, dân tộc, tập quán, tâm lý, hoạt động canh tác…
Theo điều tra của Tổng cục thống kê (Việt Nam) tính đến ngày 1 tháng 4 năm

2009, trên toàn Việt Nam có 85.846.997 người, quy mô phân bố ở các vùng
kinh tế - xã hội, trong đó đông dân nhất là vùng đồng bằng sông Hồng với
khoảng 19,5 triệu người, kế tiếp là vùng bắc Trung bộ và duyên hải nam
Trung bộ với khoảng 18,8 triệu người, thứ ba là vùng đồng bằng sông Cửu
Long với khoảng 17,1 triệu người. Vùng ít dân nhất là Tây Nguyên với
khoảng 5,1 triệu người. Cũng theo cuộc điều tra thì Việt Nam có khoảng 25,4
triệu người, tương ứng với 29,6% sống ở khu vực thành thị và khoảng 60,4
triệu người cư trú ở khu vực nông thôn.
Do đó, HTCT ở cơ sở nhất là vùng nông thôn có một vị trí và vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển xã hội, đối với việc đảm bảo và giữ vững ổn
định chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Nếu giữ vững ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết để thực hiện đổi mới và phát triển thì phải đặc biệt chú trọng và chăm lo
sự ổn định và phát triển ở cơ sở. Nếu để sự yếu kém của HTCT ở cơ sở xảy ra
thì hệ quả tất yếu dẫn đến gây mất ổn định chính trị - xã hội. Thực tế vừa qua
ở nước ta càng cho thấy sự cần thiết, bức xúc của việc củng cố, xây dựng và
phát triển cơ sở đã đến lúc đặt ra phải có giải pháp đổi mới, kiện toàn để tạo
sự chuyển biến tích cực của HTCT ở cơ sở. Kinh nghiệm lịch sử và bài học
của ông cha ta về việc an dân, trị quốc, cũng như kinh nghiệm đấu tranh cách


25
mạng qua các thời kỳ do Đảng lãnh đạo đã cho thấy: việc giữ dân, giành dân
có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự bền vững của chế độ. Chính quyền
trong lòng dân, cơ sở xã hội của chế độ là lòng dân, là sức mạnh đồng thuận
xã hội của dân chúng từ cơ sở. Do vậy, để ổn định chính trị và phát triển xã
hội, nhất thiết phải sớm khắc phục những yếu kém của HTCT ở cơ sở, phải
xây dựng HTCT ở cơ sở trở thành HTCT thực sự của dân, do dân và vì dân.
Có một HTCT được lòng dân, được dân tin, dân yêu mến, dân giúp đỡ, dân

ủng hộ và dân bảo vệ từ cơ sở thì ổn định chính trị sẽ được đảm bảo, mục tiêu
của đổi mới sẽ được thực hiện thắng lợi.
Với một nước phổ biến là nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì cần
phải lưu ý tới một triết lý được rút ra từ thực tiễn là: Nông thôn là biển, thành
thị là thuyền, biển lặng - thuyền yên. Phát triển toàn diện và chăm lo tới cuộc
sống vật chất và tinh thần của nông dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo và
khắc phục sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra gay gắt ở cơ sở, đảm bảo dân
chủ và công bằng xã hội đối với nông dân. Đó không chỉ là những nhiệm vụ
đặt ra hàng ngày đối với HTCT ở cơ sở, mà còn là thước đo đánh giá sự
chuyển biến của HTCT ở cơ sở nhất là cơ sở ở miền núi. Như vậy, vai trò của
hệ thống chính trị ở cơ sở đối với sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội là thực hiện tập trung nhất ở việc bảo đảm vai trò lãnh đạo chính trị của
Đảng, tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước theo đường lối chính trị
của Đảng đối với kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mọi mặt
trong đời sống thực tế.
Dân chủ hoá đời sống xã hội ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh
dân chủ đối với cơ sở và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về
đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với của HTCT, vào cuộc sống, đó là giải pháp cơ bản, lâu dài để
tạo ra ở cơ sở một cộng đồng xã hội đồng thuận, đoàn kết, dân chủ và ngày


×